PDA

View Full Version : Thăm lại mộ thuyền nhân Việt



Lotus
06-17-2012, 02:06 PM
Cập nhật: 13:49 GMT - thứ sáu, 8 tháng 6, 2012



http://nghiathuc.files.wordpress.com/2012/06/thuyen-ok.jpg?w=620&h=360&crop=1

Thuyền TV4050TS rời Trà Vinh năm 1982, chở 21 người nhưng chỉ có 5 người sống sót.


http://1.bp.blogspot.com/-kaUF4ItNT-g/T8p6CNdPojI/AAAAAAAAKOE/jTRZs4eYB3c/s1600/Untitled-1.gif


Nơi chôn cất các thuyền nhân tử nạn.


http://3.bp.blogspot.com/-NyZFehPNE4Y/T8p9TmDA3CI/AAAAAAAAKP0/RihhGJwOecg/s1600/Untitled-1.gif




http://www.bbc.co.uk/vietnamese/pictures/2012/06/120607_galang_camp_visit.shtml#

Lotus
06-17-2012, 02:08 PM
http://www.youtube.com/watch?v=Dx9RbOMZkj4




Camp Z30-D: The Survivors

http://dartcenter.org/content/camp-z30-d-survivors

Vietnamese Boat People

http://www.boatpeople.org/boat_people_the_journey.htm

http://web.archive.org/web/20030405185711/http://edition.cnn.com/SPECIALS/2000/vietnam/story/boat.people/

http://www.vietka.com/

Lotus
06-18-2012, 12:31 AM
Hơn nửa triệu người miền Nam Việt Nam bỏ mạng trên biển khi bỏ trốn chế độ cộng sản.

http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/05/120507_black_april_book.shtml


Half a million more South Vietnamese died while attempting to flee communist oppression by boat.

http://online.wsj.com/article/SB10001424052702304450004577277361997395318.html?m od=googlenews_wsj

Lotus
04-13-2013, 02:09 AM
http://motgoctroi.com/Vuotbien/ThuyenNhan/tuongthuyennhan.jpg

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Grand-opening-of-Vietnamese-Boat-People-Monument-in-Southern-California-04302009132013.html/thuyennhanwestminster-305.jpg/image

http://saigontimesusa.com/bai/thuyennhan/1338_thumoi.shtml

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/Grand-opening-of-Vietnamese-Boat-People-Monument-in-Southern-California-04302009132013.html


Tưởng niệm thuyền nhân không may mắn Tháng Tư Ðen

Thursday, April 11, 2013 5:14:52 PM

Hàng năm vào Tháng Tư, hầu hết người Việt tị nạn cộng sản khắp nơi trên thế giới lại có những buổi tưởng niệm đến ngày đau buồn 39 năm trước. Ủy Ban thực Hiện Ðài tưởng Niệm Thuyền Nhân Việt Nam cũng đã hoàn tất một công trình xây dựng được Ðài Tưởng Niệm Thuyền Nhân không may mắn đến được bến bờ Tự Do tại Nghĩa Trang Peek Family, Westminster.

Ðã từ bốn năm nay, sau ngày khánh thành tượng đài và được thành phố Westminster chấp thuận Ngày Thuyền Nhân vào tuần lễ cuối Tháng Tư hàng năm, Ủy ban Thực Hiện Ðài Tưởng Niệm đã tổ chức những buổi lễ được hàng trăm đồng hương khắp nơi đến để cùng nhắc nhớ đến nỗi đau thương của cả dân tộc sau ngày 30 Tháng Tư, 1975.

Nỗi đau thương ấy cũng đã làm lương tâm thế giới xúc động và đã giang tay đón nhận hàng triệu người Việt trốn chạy khỏi chế độ cộng sản. Trong số hàng triệu người ấy đã có hơn nửa triệu thuyền nhân, theo ước lượng của cơ quan Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc HCR, không may mắn đến được bến bờ tự do đã phải hy sinh trong lòng biển cả hay phải chịu nhục nhằn trước bọn hải tặc.

Năm nay, buổi tưởng niệm sẽ diễn ra vào lúc 2 giờ chiều ngày Chủ Nhật, 28 Tháng Tư trong khuôn viên nghĩa trang Westminster Memorial Park (Peek Family Funeral) trên đường Beach, Westminster.

Theo bà Ái Cầm, một thành viên trong Ủy Ban Xây Dựng Tượng Ðài, cho biết thì năm nay buổi lễ tưởng niệm cũng sẽ như mọi năm. Mọi người đến tham dự sẽ cùng các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo trong Hội Ðồng Liên Tôn cùng Chư Tăng chùa Ðiều Ngự và chùa Diệu Pháp cử hành một buổi Lễ Cầu Siêu theo hình thức của các tôn giáo lớn của người Việt.

Bà Ái Cầm nói: “Buổi lễ tưởng niệm này đã được tổ chức từ 4 năm nay để tưởng niệm và cầu nguyện đến hàng trăm ngàn thuyền nhân, bộ nhân Việt Nam đã tử nạn trên đường tìm Tự Do, Nhân Phẩm và Nhân Quyền. Ðồng thời buổi lễ cũng là để nhắc nhở và lưu truyền chứng tích Lịch Sử và Tâm Linh đến thế hệ mai sau về nguyên nhân sự hiện hữu của người Việt tại Hoa Kỳ cũng như tại các quốc gia tự do trên khắp thế giới.”

Theo ban tổ chức gồm nhà thơ Thái Tú Hạp, nhạc sĩ Việt Dzũng, Bác Sĩ Lê Hồng Sơn, nhà thơ Ái cầm, MC Minh Phượng, Giáo Sư Vân Bằng và Thu Thủy, cho biết thì “buổi lễ tưởng niệm sẽ được yểm trợ bởi hầu hết các hội đoàn tổ chức tranh đấu trong cộng đồng người Việt tại Nam California hỗ trợ. Phía cựu quân nhân có Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH, Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Trung Tâm Tây Nam, Hội Ái Hữu Cựu SVSQ Thủ Ðức Nam Cali. Phía các hội đoàn có Hội Cựu Tù Quảng Nam Ðà Nẵng, Hội Cựu Học Sinh Phan Thanh Giản Ðà Nẵng. Tuổi trẻ có Tổng Hội Sinh Viên VN Nam California, Ðoàn Thanh Niên Cờ Vàng. Giới nghệ sĩ có Ban Tù Ca Xuân Ðiềm, Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ. Bên tôn giáo có Hội Ðồng Liên Tôn, có Tăng Ðoàn chùa Ðiều Ngự và chùa Diệu Pháp, có mời Ðức Giám Mục Mai Thanh Lương, Linh Mục Mai Khải Hoàn, có các giáo hữu Cao Ðài và Phật Giáo Hòa Hảo...

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/articlefiles/164585-DP-130411-ThuyenNhan-1-400.jpg

Kể về những nỗ lực của Ủy Ban Xây Dựng Tượng Ðài Thuyền Nhân, nhà thơ Thái Tú Hạp và bà Ái Cầm có lần cho biết: “Ðây là tâm nguyện của hai vợ chồng chúng tôi khi vượt thoát được chuyến vượt biển trong đó 13 người đồng hành của chúng tôi trên chiếc thuyền mong manh mang hơn 240 người giữa biển khơi gió bão đã phải hy sinh vì lòng khao khát tự do mà không đến được bến bờ như chúng tôi. Ngay khi tạt được vào khu vực đảo Hải Nam, chúng tôi đã nguyện phải làm một lễ Cầu Siêu lớn để chia sẻ sự đau thương mất mát của những người vượt biển tìm tự do. Mãi cho đến năm 1997 chúng tôi mới làm được điều này thì được đồng hương lại thúc đẩy 'Hãy cố gắng xây dựng một Tượng Ðài để tưởng niệm chung.' Ðược sự hỗ trợ của bạn bè thân hữu trong đó có các nghệ sĩ Minh Phượng, Việt Dzũng, Chí Thiện, Khúc Minh của Radio Bolsa, rồi sau đó là Bác Sĩ Lê Hồng Sơn và phu nhân Thu Thủy và Giáo Sư Vân Bằng... chúng tôi đã nỗ lực vận động để thực hiện một Tượng Ðài Thuyền Nhân tại nơi thủ đô của người Việt tị nạn. Sau rất nhiều nỗ lực không thiếu những gian lao, chúng tôi đã được Ban Giám Ðốc Nghĩa Trang Westminster thuận cho dựng tượng đài trong khuôn viên của nghĩa trang, chiếm một khu đất khá lớn ngay góc hai con đường Bolsa và Hoover thuộc thành phố Westminster.”

“Ðiều khiến chúng tôi rất cảm động là Ban Giám Ðốc Nghĩa Trang đã chịu hầu hết phí tổn xây cất tượng đài trong một hồ nước khá rộng tượng trưng biển khơi với những bia đá lớn xung quanh ghi khắc danh tánh những thuyền nhân không đến được bến bờ tự do. Danh sách này mới được khoảng trên 5,000 do các gia đình nạn nhân gửi đến cho chúng tôi thực hiện trên những bia đá này, cùng tượng đài bằng vật liệu vĩnh cửu. Ban Giám Ðốc Nghĩa Trang cũng hứa sẽ bảo quản khu tượng đài mãi mãi, cho đến khi nào nghĩa trang này không còn nữa,” nhà thơ Thái Tú Hạp và bà Ái Cầm nói tiếp.

Qua bốn lần tổ chức tưởng niệm tại đây, nay thì cộng đồng người Việt khắp nơi hầu như đều biết đến khu vực tượng đài này. Bên những bóng cây palm, hình ảnh những rặng dừa trên những bến bãi tự do mà thuyền nhân thường tấp vào được tại các nước Ðông Nam Á, là một tượng đài gồm bốn thuyền nhân, một cụ già, hai vợ chồng trẻ và một em bé tượng trưng cho các thế hệ thuyền nhân đã đi tìm tự do trong suốt hơn 10 năm trời. Cả bốn hình tượng này như rất mong manh trên sóng nước nhưng lại rất vững mạnh trong những cử chỉ níu giữ được vào một tương lai tự do.

Tượng Ðài đã gây xúc động không ít cho những ai đến thăm và cũng không thể bỏ qua những hàng danh sách thuyền nhân kém may mắn. Nhiều người khi đã dò tìm được tên tuổi thân hữu của mình, không khỏi bàng hoàng nhớ lại cảnh xưa người cũ mà trong lòng niềm xúc động dâng tràn.

Mỗi cuối Tháng Tư hàng năm, một lần đến dự lễ tưởng niệm tại Tượng Ðài Thuyền Nhân là lại thêm một lần nghĩ đến tội ác của những kẻ được cho thắng cuộc.

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=164585&zoneid=3#.UWkaQMsaySM

Lotus
04-13-2013, 02:06 PM
Cháu sang Philippines xây bia tưởng niệm dì vượt biên mất tích

Từ những ngày cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam vào Tháng Tư, 1975, “vượt biên” mô tả một hành động can đảm và hãi hùng của những người tị nạn phải rời bỏ quê hương, mưu cầu được đến một bến bờ tự do. Tuy nhiên, không phải cứ đi là thoát, là đến bờ an tòan. Có những trường hợp thương đau của những người vượt biên bị mất tích. Người thân của họ phải bắt đầu một cuộc hành trình tìm kiếm. Có những người sau 25, 30 năm vẫn miệt mài hy vọng.
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/articlefiles/164617-DP-130412-Missing-Trang-400.jpg
Nguyễn Thị Trang, sanh năm 1955, mất tích khi vượt biên năm 1987. (Hình: Gia đình cung cấp)

“Chúng tôi có hai người thân trong gia đình bị tử nạn trong chuyến vượt biên vào Tháng Sáu, 1987, đến nay cũng chưa tìm ra tông tích. Chúng tôi dự định Tháng Sáu này, gia đình gồm bảy người, sẽ đi qua đảo Cabra, Philippines, để xây một tấm mộ bia tưởng niệm hai người dì mất tích,” anh Luân Hùynh, 40 tuổi, hiện sống ở tiểu bang Connecticut, nói với phóng viên nhật báo Người Việt qua điện thoại.

Hai người dì của anh hiện vẫn chưa được tìm ra. Một người tên là Nguyễn Thị Trang, sanh năm 1955, và người kia tên Nguyễn Thị Minh Nguyệt, sanh năm 1958.
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/articlefiles/164617-DP-130412-Missing-Nguyet-400.jpg
Nguyễn Thị Minh Nguyệt, sanh năm 1958, đi cùng tàu, mất tích năm 1987. (Hình: Gia đình cung cấp)

Anh Luân kêu gọi những ai có thân nhân cũng mất tích trong chuyến vượt biên ấy, vào khoảng thời gian đó, nếu muốn, xin liên lạc với gia đình anh để có thể cùng đi chung và cùng gia đình anh xây bia tưởng niệm cho những người thân kém may mắn.

Anh Luân kể: “ Ghe xuất phát tại Nha Trang hay vùng lân cận và gặp nạn tại đảo Cabra, Philippines. Khi ấy nghe nói có một tàu chở gỗ của Đại Hàn bị chìm cũng tại Cabra vào thờì gian này. Các khúc gỗ lớn từ tàu này có thể đã đánh vỡ chiếc tàu nhỏ của người vượt biên, khi ấy chỉ còn cách bờ có vài trăm mét. Số tử vong khoảng 30 đến 40 người.”

Anh kể chuyện của một người thân khác vô tình nói lên sự liên hệ tới số phận của chiếc tàu chở hai người dì: “Một tháng sau khi hai người dì tôi đã vượt biên, gia đình chúng tôi gởi một người cậu ra đi. Cậu may mắn đến được Palawan. Cậu hỏi vòng vòng để xem có ai biết hai dì của chúng tôi ở đâu. Cậu nói chuyện với một cô gái bị què và được biết khỏang thời gian ấy có chiếc tàu Đại Hàn chở gỗ, gặp bão, gỗ làm bể chiếc tàu nhỏ và không quân Philippines được điều động đến cứu được mấy chục người.”

“Gia đình chúng tôi đang chuẩn bị lên đường vào Tháng Sáu, viếng thăm đảo Cabra để tảo mộ, nếu tìm được, hoặc sẽ làm bia tưởng niệm cho người thân và cho nhóm thuyền nhân xấu số này,” anh Luân nói.

Ngoài ra, anh Luân cũng tâm sự: “Chúng tôi đang muốn liên lạc với những ai còn sống trong chuyến đi đó, hoặc với gia đình hay thân nhân của họ. Nếu quý vị muốn tham gia cùng chúng tôi trong nỗ lực làm một cái gì đó để tưởng nhớ người thân của mình, chúng tôi vô cùng cảm kích. Gia đình chúng tôi tin rằng có mấy chục gia đình đang ở đâu đó trên thế giới, cũng chia sẻ niềm đau vô biên này với chúng tôi dù rằng mấy chục năm đã trôi qua!”

Anh khẩn khỏan: “Nếu có thông tin gì, xin quí vị vui lòng liên lạc với Luân Huỳnh qua số điện thoại tại Mỹ: (860) 604-5702 hoặc email: luanhuynh73@yahoo.com .Thành thật cám ơn.”

http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=164617&zoneid=1#.UWm1KssaySM

Lotus
05-01-2013, 12:43 AM
Về thăm Đài Tưởng Niệm Thuyền Nhân trên đảo Kuku


Từ Letung, chiếc thuyền rẽ sóng lướt đi phăng phăng được gần một giờ đồng hồ thì chị Carina Hoàng chỉ tay vào hòn đảo nhỏ trước mặt “KuKu kia rồi.”

Mọi người nhìn đăm đăm vào cánh rừng. Tiếng nói cười ồn ào đột nhiên lắng xuống.

Mạnh, chàng thanh niên trẻ tuổi nhất đoàn, người cười nhiều nhất và có tiếng cười huyên náo nhất, đứng phắt dậy, ôm chầm lấy Carina, bật khóc không thành tiếng, chỉ thấy đôi vai run lên từng hồi.


http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/articlefiles/165581-kuku_01_400.jpg


Tượng đài tưởng niệm thuyền nhân đã chết trên quần đảo Anambas,
Nam Dương, được bắt đầu xây ở đảo Kuku cuối năm 2011,
khánh thành vào tháng Tư năm 2013.



Mạnh vượt biên với cha khi mới hơn 10 tuổi. Vài năm sau khi hai cha con định cư ở Úc, mẹ Mạnh một mình vượt biên đến được một đảo nhỏ ở Nam Dương và qua đời trên con thuyền đưa người Việt tị nạn đến đảo Galang. Viên chức người Nam Dương thấy hoàn cảnh đáng thương nên cho thuyền dừng lại và chôn bà ở đảo Kuku. Sau nhiều dự định tháp tùng các phái đoàn đi tìm mộ mẹ không thành, cuối cùng Mạnh sắp toại nguyện.

Đã 34 năm rồi, nhưng không ngại hành trình gian nan vất vả, và nguy cơ có thể gặp gió bão bất ngờ, phái đoàn 11 người chúng tôi, do chị Carina hướng dẫn, người thì đi tìm mộ, xây mộ cho người thân, người đi tìm quá khứ, người khác muốn đi tìm dấu vết của thuyền nhân Việt Nam ở những hòn đảo nhỏ bé tại Indonesia.

Dù khởi hành từ Mỹ, Úc hay Âu châu, chúng tôi ai cũng phải đáp ít nhất hai chuyến máy bay và bốn, năm chuyến thuyền mới đến được vùng đảo Jameja, thuộc Anambas region.


Thím Liên cùng chồng là ông Tăng Phú trên đường lên bãi
Kuku tìm mộ thân phụ ông Tăng. Ông bà xúc động
khi nhận ra nơi ở cũ trên đảo Kuku.


Đường đi vất vả mà vui. Nhưng khi đến được đây rồi, thì quang cảnh dọc theo bờ những đảo như Berhala, Tucai, Air Raya, hay Kuku đâu đâu cũng na ná giống nhau khiến không chỉ riêng Mạnh xúc động, vì hình ảnh những ngày thương đau, tưởng đã chìm sâu trong ký ức giờ sống lại, rõ mồn một từng hình ảnh, từng cảm giác.

Thuyền đến gần bờ, đài tưởng niệm có dáng một chiếc thuyền lớn một nửa chìm xuống cát, nửa kia hướng ra biển, ngày càng rõ nét. Đến gần hơn, mọi người đọc được những chữ “VT075” màu đen ngang bụng thuyền.

Một người chỉ tay: “Đài tưởng niệm kia rồi phải không?”

“Không ngờ ba mươi mấy năm nay giờ lại thấy được hàng chữ này, ngay trên bãi ngày xưa.” Anh Hoàng Long nói nhỏ như chỉ cho mình mình nghe, nét đăm chiêu chiếm lấy khuôn mặt tươi cười cố hữu.

Chị Vân, vợ anh, ngồi gần nhìn anh xót xa, rồi quay ra người bên cạnh phân bua: “Anh ấy mấy ngày nay ban ngày bình tĩnh nhưng đêm đến lục sục đâu có ngủ được.”

Anh Long, chị Carina, và thím Liên và chú Tăng Phú là bốn trong số hơn 370 thuyền nhân đã vượt biên từ Vũng Tàu trên con thuyền mang tên VT075 đến đảo Kuku. Trong đoàn chúng tôi, anh Long và chị Carina gần gũi với cái chết nhất. Anh làm việc trong khu y tế từ cuối tháng Sáu đến trung tuần tháng Chín tại lều y tế tại đảo Kuku cùng với bác sĩ Trần Duy Tân, và hàng ngày chứng kiến không biết bao nhiêu cái chết.

Anh kể: “Ban ngày tôi làm y tá, ban đêm Carina và một người nữa và tôi có bổn phận canh lều bệnh nhân. Chúng tôi lúc đó ở đây trong tình trạng không thực phẩm, không thuốc men trong khoảng thời gian ba tháng, trước khi Cao Ủy Tị Nạn tìm đến. Hàng ngày nhìn bệnh nhân chúng tôi có thể đoán được người nào đêm nay không qua khỏi, nhưng bó tay không thể làm gì giúp cho họ được.”

Anh Long may mắn không có thân nhân bỏ mình trên đảo này, nhưng đưa vợ đi để tìm về quá khứ, một quá khứ anh không biết mình đã quên hay vẫn còn bị ám ảnh.

Quá khứ bây giờ hiển hiện trước mắt.

Bên này là biển mênh mông ngút ngàn, bên kia là rừng núi chập chùng, cỏ cao vượt mặt. Đây là bãi tắm, kia là nhà thờ, kia là nghĩa địa, đó là từng hàng chòi được dựng lên làm nơi trú ngụ, trước mặt là văn phòng Cao Ủy Tị Nạn, và xa xa trên cao kia nữa cũng là nghĩa địa. Nghĩa địa khắp nơi.

Chỉ khác là bây giờ ngay trên bãi xưa, một tượng đài sừng sững đánh dấu giai đoạn hãi hùng của đoàn người tị nạn, của nơi đói khát, bệnh tật đã cướp đi mạng sống của không biết bao người.

Thuyền cập bến!

Mọi người kéo nhau xuống bãi cát, hướng về phía đài tưởng niệm mà đi dưới nắng chói chang.

Đi một quãng, thím Liên níu lấy tay chồng, hốt hoảng: “Hồi đó mình ở chỗ này nè!”

Chồng bà, chú Tăng Phú thẫn thờ. “Biết có tìm thấy mộ ổng không đây.”


Anh Long Hoàng, một thuyền nhân đến Nam Dương từ thuyền VT075 nén xúc động
khi đứng bên bãi Kuku, nơi anh trú ngụ năm 1979 và chứng kiến
biết bao nạn nhân qua đời vì thiếu thực phẩm và thuốc men.


“Hồi đó” là khoảng trung tuần tháng Sáu năm 1979. Đoàn người vượt biên trên con thuyền mang tên VT075, sau khi bị Malaysia từ khước được đưa vào LeTung, Air Raya, rồi trôi dạt đến đây. Thân phụ của chú Tăng Phú bị bệnh chết sau đó một tháng. Chú Tăng cho biết chỉ nhớ mang máng đã mai táng cha ở mảnh đất gần con suối nhỏ, nhờ người chất đầy đá trên mộ và khắc tên cha vào một tấm bia, hứa với lòng một ngày nào sẽ về xây mộ cho cha, làm tròn chữ hiếu.

Năm 2009, phái đoàn đi tảo mộ đảo Kuku do chị Carina Hoàng hướng dẫn tìm thấy ngôi mộ của thân phụ ông, chụp hình rồi bỏ lên website. Tình cờ gặp được người quen cho biết website này, chú nhờ con gái vào xem, và đã khóc ròng khi thấy tấm bia do chính tay mình khắc. Chờ thêm hai năm nữa hai vợ chồng mới có điều kiện tháp tùng đoàn người đi thăm Kuku.

Đến gần bờ, thấy tôi tần ngần nhìn những miếng đá phủ đầy rêu lên gần đến lùm cỏ dại, người thông dịch viên đi cùng đoàn bước đến gần.

“Tại sao lại có đá ở đây?” Tôi hỏi.

“No, no rock, Vietnam boat.” Người thông dịch nói.

Ồ đúng rồi, không phải đá mà là gỗ, mà là thuyền, xác thuyền.

Nhìn kỹ hơn, thấy dọc theo bãi biển gần bờ rải rác bao xác thuyền, giờ chỉ còn trơ lại cái khung như bộ xương lấp lánh dưới làn nước trong xanh.

Và bước lên bờ, chỉ leo vài đoạn núi thôi, mọi người biết sẽ thấy rải rác nhiều nấm mồ, trong đó có mộ của thân mẫu Mạnh và của thân phụ chú Tăng, và biết còn của ai nữa. Đã bao nhiêu người Việt Nam đi tìm tự do bỏ mình ở đây, 500 hay 2,000? Cho đến giờ, không ai có con số chính xác.

Đứng chờ chúng tôi tại trước tượng đài là đại diện các viên chức địa phương của quần đảo Jemajah. Sau một bài diễn văn ngắn của người bản xứ, Carina thay mặt cho phía chúng tôi cắt băng khánh thành tượng đài.

“Chúng tôi dựng tượng đài này để đánh dấu một giai đoạn lịch sử, để tưởng niệm những thuyền nhân Việt Nam đã bỏ mình trên Anambas region.”

Đại diện của quần đảo Jemajah cho biết sở dĩ hàng chữ VT075 được vinh hạnh viết lên đài tưởng niệm là vì Carina, người tị nạn đầu tiên trở về quần đảo Nam Dương tìm mộ người thân, là người đến Nam Dương trên chiếc thuyền mang tên VT075.

Với việc xây dựng tượng đài, bảo vệ một di tích lịch sử, chính quyền Anambas cho biết cũng mong nhiều người Việt Nam ở khắp nơi sẽ về đây, tìm mộ người thân, thăm lại nơi đã cưu mang họ trên đường đi tìm quê hương thứ hai.

Lịch sử không phải chỉ được ghi lại ở đài kỷ niệm mà còn khắc ghi trong lòng nhiều người, cả người Việt Nam lẫn người bản xứ.


Đoàn người đến thăm đảo Kuku chuẩn bị đốt nhang trước đài tưởng niệm. (Hình: Uly/Indonesia)


Trong một ngày đi sâu với một thông dịch viên vào thị trấn Letung, chúng tôi gặp nhiều người dân Indonesia cho biết còn nhớ rất rõ thời gian hàng ngàn người tị nạn Việt Nam ùa vào thị trấn nhỏ bé của họ.

Ông Anwal, một dân cư Letung cho biết, vào năm 1979, ông mới 12 tuổi, và nhớ đột nhiên sáng nào đi học cũng thấy người Việt Nam khắp nơi, trên bãi cỏ, dưới gầm nhà sàn, ngoài bờ suối. Cậu bé Anwal lúc đó thật xúc động khi thấy những người tị nạn đói rách, thẫn thờ. Họ xây nhà bằng tất cả những vật liệu nào có thể kiếm được, và ăn bất cứ thức ăn gì có thể tìm được. Ông nhớ những chiếc xe cứu thương chở bệnh nhân và chở xác người tị nạn lên núi.

Awal khoe còn biết hát quốc ca Việt Nam nữa.

“Quốc ca Việt Nam?” Mọi người hỏi.

Ừ quốc ca Việt Nam. Ông nói, rồi bập bẹ cất tiếng hát, rất đúng nốt, đúng nhịp dù lời bị trọ trẹ: “Việt Nam Việt Nam nghe tự vào đời, Việt Nam hai câu nói bên vành nôi, Việt Nam nước tôi...”

Không phải quốc ca Việt Nam đâu. Nhưng điều ấy không quan trọng.

Tiếng hát được cất lên từ khuôn mặt ngoại quốc xa lạ như luồng điện ở đâu được truyền vào người.

Làm sao ông học được bài hát này? Đã 34 năm rồi sao ông còn nhớ? Cố ngăn nước mắt, tôi dồn dập những câu hỏi.

Anwal bảo làm sao không nhớ được khi trong nhiều tháng trời, mỗi sáng đi học ông đều thấy từng đoàn người Việt Nam ở mọi ngõ ngách của thị trấn nhỏ bé, đồng loạt đứng lên, mặt buồn rầu rầu, mắt đăm đăm nhìn về hướng biển, và cùng nhau hát bài hát đó.

Mai này chúng tôi sẽ lên đường, trả lại sự bình lặng cho những người dân Nam Dương hiền lành mộc mạc và tốt bụng, cho nơi đầy dẫy dấu tích đoàn người Việt tị nạn.

Nắng sẽ vẫn chói chang trên bãi Kuku khi thuyền chúng tôi rời bến, nhưng lòng người ở, kẻ đi, sẽ rất khác.


http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=165581&zoneid=1#.UYAQY8saySM