Dân
10-10-2013, 12:09 PM
VIỆT NAM (NV) - Theo phúc trình của Viện Giám Sát Nguồn Thu, viết tắt là RMI, một tổ chức quốc tế đặt trụ sở tại Hoa Kỳ, Việt Nam đứng gần cuối bảng nhóm các quốc gia “quản trị tài nguyên khoáng sản yếu kém.”
Phúc trình này được công bố tại cuộc hội thảo diễn ra ở Hà Nội hôm 8 tháng 10, bao gồm đại diện của tổ chức RMI và Bộ Tài Nguyên-Môi Trường, Bộ Công Thương, Phòng Thương Mại-Công Nghiệp Việt Nam, Ủy Ban Khoa Học Công Nghệ của Quốc Hội CSVN,... Than đá, một trong những nguồn khoáng sản quan trọng ở Quảng Ninh bị khai thác gần như kiệt quệ.
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/articlefiles/174961-VN-mothanda-100913-400.jpg
Phúc trình này còn nói rằng, việc quản lý hoạt động khai thác khoáng sản tại Việt Nam quá kém cỏi dẫn đến nhiều nguy cơ: hiệu quả kinh tế thấp; tỉ lệ thất thoát tài nguyên cao; tác động xấu trầm trọng đến môi trường, xã hội...
Cũng tại cuộc hội thảo này, phó viện trưởng Viện Tư Vấn và Phát Triển Việt Nam, ông Phạm Quang Tú, xác nhận rằng Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn về khoáng sản.
Theo ông, Việt Nam có hơn 5,000 quặng mỏ với trên 60 loại khoáng sản. Riêng ngành kỹ nghệ khai thác khoáng sản cũng đã mang lại mỗi năm nguồn lợi tức chiếm đến 11% tổng thu nhập quốc gia, trên 25% ngân quỹ nhà nước, qui tụ trên 431,000 công nhân.
Báo Tiền Phong dẫn lời ông bộ trưởng Bộ Dầu Mỏ và nguồn khoáng sản Ðông Timor khuyến cáo Việt Nam nên “khẩn cấp học hỏi kinh nghiệm của thế giới để quản trị hữu hiệu tài nguyên khoáng sản.”
Một phúc trình khác của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường trước đó cho biết, đã cấp 79 giấy phép thăm dò, 503 giấy phép khai thác khoáng sản, tính đến tháng 5, 2013. Ðó là chưa kể ít nhất 4,200 giấy phép của chính quyền các địa phương cấp cho các công ty khai thác khoáng sản lớn, nhỏ khắp ở Việt Nam.
Tại một cuộc hội thảo khác về việc quản trị tài nguyên, ông Lại Hồng Thanh, cục trưởng Cục Kiểm Soát hoạt động khoáng sản của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường Việt Nam thú nhận rằng, chỉ có 40% đơn vị hoạt động trong lĩnh vực này nộp phúc trình định kỳ hàng năm. Ông này nhìn nhận rằng “không thể tin nổi các con số báo cáo của 40% đơn vị” nói trên, và coi như “mù tịt” về hoạt động của khoảng 60% đơn vị khai thác khoáng sản còn lại. Ông Lại Hồng Thanh xác nhận “không nắm được thực trạng tài nguyên khoáng sản của Việt Nam hiện nay.”
Trong khi đó, theo ông Mai Xuân Hùng, phó chủ nhiệm Ủy Ban Kinh Tế Quốc Hội, cuộc khảo sát tại các vùng khai thác khoáng sản dẫn đến nhận định rằng, “ở đâu có khai thác khoáng sản thì nơi đó chỉ thấy môi trường bị tàn phá, cơ sở hạ tầng yếu kém dần và người dân càng thêm đói nghèo.”
Cũng theo ông Hùng, trừ hoạt động khai thác than đá và dầu khí mang lại chút ít lợi tức quốc gia, còn lại chỉ là sự tàn phá nặng nề trong mọi hoạt động được gọi là “khai thác khoáng sản.”
Báo Tiền Phong còn dẫn lời ông Phạm Gia Túc, phó chủ tịch phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam cho biết, một công ty nọ chỉ nộp được 5 tỉ đồng, tương đương 250,000 đô lợi tức khai thác mỏ cho tỉnh Tuyên Quang. Trong khi đó, chính quyền tỉnh này đã phải chi 30 tỉ đồng, tương đương 1.5 triệu đôla, để sửa chữa con đường bị hư hại nặng nề vì xe vận tải khai thác mỏ qua lại mỗi ngày.
Cuối cùng, theo hầu hết các chuyên viên ngành khoáng sản, Việt Nam đã buông lỏng việc kiểm soát hoạt động khai thác khoáng sản suốt 40 năm qua. .
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=174961&zoneid=1#.Ulb04O3wDIU
Khai thác mỏ ở Việt Nam gây nhiều tác hại kinh tế, đời sống lẫn môi trường
Theo Trung tâm Con người và Thiên nhiên (viết tắt là PAN) trong một nghiên cứu về “Khoáng sản – phát triển – môi trường: Đối chiếu giữa lý thuyết và thực tế”, thì cung cách quản lý, điều hành hoạt động khai thác khoáng sản tại Việt Nam đã và đang gây ra rất nhiều tác hại cho cả kinh tế, đời sống lẫn môi trường.
PAN cho rằng, vì giàu khoáng sản, Việt Nam xem công nghiệp khai thác khoáng sản (khai khoáng) là một trong những ngành mũi nhọn để tạo việc làm, tăng ngân sách cho địa phương, góp phần xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên kết quả khảo sát của PAN cho thấy, công nghiệp khai khoáng hiện chỉ gây ra những tác động tiêu cực.
Sau khi khảo sát mỏ sắt Tân Pheo ở huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình, PAN cho biết, hoạt động khai thác đã ảnh hưởng rất lớn đến kết cấu đất trong khu vực. Vào mùa mưa, đất đá từ núi trôi xuống ruộng và suối khiến độ sâu của suối giảm từ 1 m xuống còn 20 cm, thậm chí một số đoạn đã bị lấp. Trong khi hệ thống suối là nguồn cung cấp nước cho sinh hoạt, tưới, tiêu và nuôi thủy sản của cả ngàn gia đình.
Tại thời điểm khảo sát, nguồn lợi thủy sản gần như không còn, nước suối cạn, có màu đặc trưng của oxide sắt. Quá trình tuyển quặng và sau tuyển quặng không chỉ gây ô nhiễm môi trường mà còn gây thiệt hại lớn về kinh tế cho dân chúng.
Tương tự, quá trình khai thác quặng bauxite tại thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng đã gây tác hại nghiêm trọng cho môi trường (bụi, nước thải, bùn đỏ). Do đường vận chuyển quặng là đường đất, hơn 150 gia đình sống ven đường phải chịu cảnh bụi bặm vào mùa nắng và lầy lội vào mùa mưa.
Việc trồng trọt cũng bị ảnh hưởng nặng. Hoạt động khai thác bauxite còn phá vỡ cấu trúc địa chất, làm bề mặt đất bị hạ thấp từ 5 mét đến 9 mét, lớp đất bazan bị thay thế bởi đất sét nên mùa mưa, nhiều chỗ bị ngập úng, xói lở với cường độ mạnh.
Tuy khoáng sản được xem như tài sản toàn dân song PAN cho rằng, trên thực tế, phần lớn lợi nhuận đang chảy vào túi các doanh nghiệp, để mặc cộng đồng dân chúng địa phương gánh chịu thiệt thòi..
Bên cạnh đó, cách quản lý, điều hành công việc khai khoáng chính là nguyên nhân khiến khai khoáng giống như hủy diệt. Luật Khoáng sản năm 2005 cho phép các tỉnh, thành phố được cấp giấy phép khai thác các mỏ có quy mô nhỏ, không nằm trong quy hoạch của chính phủ. Vì vậy, số giấy phép khai khoáng đã tăng vọt.
Trên giấy tờ, khai khoáng đóng góp khoảng 9% tổng GDP nhưng PAN khẳng định, các tổn thất trong quá trình khai thác khoáng sản lớn hơn thế nhiều lần.
Cũng theo PAN, khi xin giấy phép khai khoáng, các doanh nghiệp luôn khẳng định sẽ giải quyết việc làm cho dân địa phương nhưng kết quả khảo sát cho thấy, rất ít mỏ dùng lao động địa phương. Công nhân các mỏ chỉ được trả lương rất thấp. không có bảo hiểm và chịu nhiều rủi ro từ môi trường lao động thiếu an toàn.
Điểm đáng chú ý là đa số dân chúng sống quanh các mỏ không được thông báo về dự án khai khoáng, các tác động cũng như các hoạt động mở rộng sản xuất. Thậm chí lãnh đạo xã, phường cũng không có thông tin về việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án, dù theo quy định hiện hành, quá trình lập báo cáo đánh giá tác động môi trường phải lấy ý kiến cộng đồng bị ảnh hưởng và phải có sự đồng thuận của họ. Cũng theo các quy định hiện hành, hàng năm, nhà cầm quyền các tỉnh và thành phố phải xây dựng khung giá đất để có căn cứ cho việc đền bù, giải tỏa. Tuy nhiên, theo PAN, kết quả khảo sát cho thấy, khung giá đất (đặc biệt là đất nông lâm nghiệp) thường thiếu cơ sở và xa rời thực tế. Giá một mét vuông đất canh tác tại nhiều địa phương thấp hơn giá của… một ký gạo chất lượng trung bình tại cùng thời điểm nhưng người dân vẫn phải chấp nhận, nếu không sẽ bị cưỡng chế..
http://radiochantroimoi.com/tin-tuc/khai-thac-mo-o-viet-nam-gay-nhieu-tac-hai-kinh-te-doi-song-lan-moi-truong.html
http://vn.news.yahoo.com/b%C3%A0i-2-2-000-t%E1%BA%A5n-qu%E1%BA%B7ng-v%C6%B0%E1%BB%A3t-bi%C3%AAn-184700678.html
Một mạng lươí đặc quyền và giàu có kêt´ nôí vơí nhau trong xư´ xã hội chủ nghĩa này... Nhiều doanh nghiệp vẫn là một trong các doanh nghiệp Nhà nước trước đây hay là còn có một số quyền sở hữu Nhà nước, và nhất là vẫn còn được điều hành bởi các đảng viên. Nhiêù ngôi vị điều khiển và chủ đạo của khu vực tư nhân được bổ nhiệm bên gia đình bà con, thân nhân của họ.
An influx of wealth and privilege is shaking up this socialist country....Many "private" businesses are either former state-owned enterprises (SOEs) or still have some state ownership, and most are still run by party members. Most of the controllers of the commanding heights of the private sector are party appointees, their family, or their friends. The Communist Party elite are turning Vietnamese capitalism into a family Business ...
http://www.foreignpolicy.com/articles/2010/01/21/vietnams_new_money
Phúc trình này được công bố tại cuộc hội thảo diễn ra ở Hà Nội hôm 8 tháng 10, bao gồm đại diện của tổ chức RMI và Bộ Tài Nguyên-Môi Trường, Bộ Công Thương, Phòng Thương Mại-Công Nghiệp Việt Nam, Ủy Ban Khoa Học Công Nghệ của Quốc Hội CSVN,... Than đá, một trong những nguồn khoáng sản quan trọng ở Quảng Ninh bị khai thác gần như kiệt quệ.
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/articlefiles/174961-VN-mothanda-100913-400.jpg
Phúc trình này còn nói rằng, việc quản lý hoạt động khai thác khoáng sản tại Việt Nam quá kém cỏi dẫn đến nhiều nguy cơ: hiệu quả kinh tế thấp; tỉ lệ thất thoát tài nguyên cao; tác động xấu trầm trọng đến môi trường, xã hội...
Cũng tại cuộc hội thảo này, phó viện trưởng Viện Tư Vấn và Phát Triển Việt Nam, ông Phạm Quang Tú, xác nhận rằng Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn về khoáng sản.
Theo ông, Việt Nam có hơn 5,000 quặng mỏ với trên 60 loại khoáng sản. Riêng ngành kỹ nghệ khai thác khoáng sản cũng đã mang lại mỗi năm nguồn lợi tức chiếm đến 11% tổng thu nhập quốc gia, trên 25% ngân quỹ nhà nước, qui tụ trên 431,000 công nhân.
Báo Tiền Phong dẫn lời ông bộ trưởng Bộ Dầu Mỏ và nguồn khoáng sản Ðông Timor khuyến cáo Việt Nam nên “khẩn cấp học hỏi kinh nghiệm của thế giới để quản trị hữu hiệu tài nguyên khoáng sản.”
Một phúc trình khác của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường trước đó cho biết, đã cấp 79 giấy phép thăm dò, 503 giấy phép khai thác khoáng sản, tính đến tháng 5, 2013. Ðó là chưa kể ít nhất 4,200 giấy phép của chính quyền các địa phương cấp cho các công ty khai thác khoáng sản lớn, nhỏ khắp ở Việt Nam.
Tại một cuộc hội thảo khác về việc quản trị tài nguyên, ông Lại Hồng Thanh, cục trưởng Cục Kiểm Soát hoạt động khoáng sản của Bộ Tài Nguyên và Môi Trường Việt Nam thú nhận rằng, chỉ có 40% đơn vị hoạt động trong lĩnh vực này nộp phúc trình định kỳ hàng năm. Ông này nhìn nhận rằng “không thể tin nổi các con số báo cáo của 40% đơn vị” nói trên, và coi như “mù tịt” về hoạt động của khoảng 60% đơn vị khai thác khoáng sản còn lại. Ông Lại Hồng Thanh xác nhận “không nắm được thực trạng tài nguyên khoáng sản của Việt Nam hiện nay.”
Trong khi đó, theo ông Mai Xuân Hùng, phó chủ nhiệm Ủy Ban Kinh Tế Quốc Hội, cuộc khảo sát tại các vùng khai thác khoáng sản dẫn đến nhận định rằng, “ở đâu có khai thác khoáng sản thì nơi đó chỉ thấy môi trường bị tàn phá, cơ sở hạ tầng yếu kém dần và người dân càng thêm đói nghèo.”
Cũng theo ông Hùng, trừ hoạt động khai thác than đá và dầu khí mang lại chút ít lợi tức quốc gia, còn lại chỉ là sự tàn phá nặng nề trong mọi hoạt động được gọi là “khai thác khoáng sản.”
Báo Tiền Phong còn dẫn lời ông Phạm Gia Túc, phó chủ tịch phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam cho biết, một công ty nọ chỉ nộp được 5 tỉ đồng, tương đương 250,000 đô lợi tức khai thác mỏ cho tỉnh Tuyên Quang. Trong khi đó, chính quyền tỉnh này đã phải chi 30 tỉ đồng, tương đương 1.5 triệu đôla, để sửa chữa con đường bị hư hại nặng nề vì xe vận tải khai thác mỏ qua lại mỗi ngày.
Cuối cùng, theo hầu hết các chuyên viên ngành khoáng sản, Việt Nam đã buông lỏng việc kiểm soát hoạt động khai thác khoáng sản suốt 40 năm qua. .
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=174961&zoneid=1#.Ulb04O3wDIU
Khai thác mỏ ở Việt Nam gây nhiều tác hại kinh tế, đời sống lẫn môi trường
Theo Trung tâm Con người và Thiên nhiên (viết tắt là PAN) trong một nghiên cứu về “Khoáng sản – phát triển – môi trường: Đối chiếu giữa lý thuyết và thực tế”, thì cung cách quản lý, điều hành hoạt động khai thác khoáng sản tại Việt Nam đã và đang gây ra rất nhiều tác hại cho cả kinh tế, đời sống lẫn môi trường.
PAN cho rằng, vì giàu khoáng sản, Việt Nam xem công nghiệp khai thác khoáng sản (khai khoáng) là một trong những ngành mũi nhọn để tạo việc làm, tăng ngân sách cho địa phương, góp phần xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên kết quả khảo sát của PAN cho thấy, công nghiệp khai khoáng hiện chỉ gây ra những tác động tiêu cực.
Sau khi khảo sát mỏ sắt Tân Pheo ở huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình, PAN cho biết, hoạt động khai thác đã ảnh hưởng rất lớn đến kết cấu đất trong khu vực. Vào mùa mưa, đất đá từ núi trôi xuống ruộng và suối khiến độ sâu của suối giảm từ 1 m xuống còn 20 cm, thậm chí một số đoạn đã bị lấp. Trong khi hệ thống suối là nguồn cung cấp nước cho sinh hoạt, tưới, tiêu và nuôi thủy sản của cả ngàn gia đình.
Tại thời điểm khảo sát, nguồn lợi thủy sản gần như không còn, nước suối cạn, có màu đặc trưng của oxide sắt. Quá trình tuyển quặng và sau tuyển quặng không chỉ gây ô nhiễm môi trường mà còn gây thiệt hại lớn về kinh tế cho dân chúng.
Tương tự, quá trình khai thác quặng bauxite tại thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng đã gây tác hại nghiêm trọng cho môi trường (bụi, nước thải, bùn đỏ). Do đường vận chuyển quặng là đường đất, hơn 150 gia đình sống ven đường phải chịu cảnh bụi bặm vào mùa nắng và lầy lội vào mùa mưa.
Việc trồng trọt cũng bị ảnh hưởng nặng. Hoạt động khai thác bauxite còn phá vỡ cấu trúc địa chất, làm bề mặt đất bị hạ thấp từ 5 mét đến 9 mét, lớp đất bazan bị thay thế bởi đất sét nên mùa mưa, nhiều chỗ bị ngập úng, xói lở với cường độ mạnh.
Tuy khoáng sản được xem như tài sản toàn dân song PAN cho rằng, trên thực tế, phần lớn lợi nhuận đang chảy vào túi các doanh nghiệp, để mặc cộng đồng dân chúng địa phương gánh chịu thiệt thòi..
Bên cạnh đó, cách quản lý, điều hành công việc khai khoáng chính là nguyên nhân khiến khai khoáng giống như hủy diệt. Luật Khoáng sản năm 2005 cho phép các tỉnh, thành phố được cấp giấy phép khai thác các mỏ có quy mô nhỏ, không nằm trong quy hoạch của chính phủ. Vì vậy, số giấy phép khai khoáng đã tăng vọt.
Trên giấy tờ, khai khoáng đóng góp khoảng 9% tổng GDP nhưng PAN khẳng định, các tổn thất trong quá trình khai thác khoáng sản lớn hơn thế nhiều lần.
Cũng theo PAN, khi xin giấy phép khai khoáng, các doanh nghiệp luôn khẳng định sẽ giải quyết việc làm cho dân địa phương nhưng kết quả khảo sát cho thấy, rất ít mỏ dùng lao động địa phương. Công nhân các mỏ chỉ được trả lương rất thấp. không có bảo hiểm và chịu nhiều rủi ro từ môi trường lao động thiếu an toàn.
Điểm đáng chú ý là đa số dân chúng sống quanh các mỏ không được thông báo về dự án khai khoáng, các tác động cũng như các hoạt động mở rộng sản xuất. Thậm chí lãnh đạo xã, phường cũng không có thông tin về việc lập báo cáo đánh giá tác động môi trường của dự án, dù theo quy định hiện hành, quá trình lập báo cáo đánh giá tác động môi trường phải lấy ý kiến cộng đồng bị ảnh hưởng và phải có sự đồng thuận của họ. Cũng theo các quy định hiện hành, hàng năm, nhà cầm quyền các tỉnh và thành phố phải xây dựng khung giá đất để có căn cứ cho việc đền bù, giải tỏa. Tuy nhiên, theo PAN, kết quả khảo sát cho thấy, khung giá đất (đặc biệt là đất nông lâm nghiệp) thường thiếu cơ sở và xa rời thực tế. Giá một mét vuông đất canh tác tại nhiều địa phương thấp hơn giá của… một ký gạo chất lượng trung bình tại cùng thời điểm nhưng người dân vẫn phải chấp nhận, nếu không sẽ bị cưỡng chế..
http://radiochantroimoi.com/tin-tuc/khai-thac-mo-o-viet-nam-gay-nhieu-tac-hai-kinh-te-doi-song-lan-moi-truong.html
http://vn.news.yahoo.com/b%C3%A0i-2-2-000-t%E1%BA%A5n-qu%E1%BA%B7ng-v%C6%B0%E1%BB%A3t-bi%C3%AAn-184700678.html
Một mạng lươí đặc quyền và giàu có kêt´ nôí vơí nhau trong xư´ xã hội chủ nghĩa này... Nhiều doanh nghiệp vẫn là một trong các doanh nghiệp Nhà nước trước đây hay là còn có một số quyền sở hữu Nhà nước, và nhất là vẫn còn được điều hành bởi các đảng viên. Nhiêù ngôi vị điều khiển và chủ đạo của khu vực tư nhân được bổ nhiệm bên gia đình bà con, thân nhân của họ.
An influx of wealth and privilege is shaking up this socialist country....Many "private" businesses are either former state-owned enterprises (SOEs) or still have some state ownership, and most are still run by party members. Most of the controllers of the commanding heights of the private sector are party appointees, their family, or their friends. The Communist Party elite are turning Vietnamese capitalism into a family Business ...
http://www.foreignpolicy.com/articles/2010/01/21/vietnams_new_money