PDA

View Full Version : Hoàng Sa, Trường Sa



ngocdam66
01-17-2015, 08:21 AM
ĐÔNG HẢI VỚI HOÀNG SA TRƯỜNG SA
THEO CHÍNH SỬ TRUNG QUỐC


Luật Sư Nguyễn Hữu Thống
http://thoibao.com/wp-content/uploads/2015/01/bendong.gif

Theo cuốn “Lịch Sử Trung Quốc Thời Trung Cổ” do Hàn Lâm Viện Trung Quốc xuất bản tại Đài Bắc năm 1978, trong bài “Nghiên Cứu về Lịch Sử và Địa Lý” học giả Hsieh Chiao-Min nhận định vềcuộc Thám Hiểm của Trung Hoa tại Đại Dương như sau: “Suốt chiều dài lịch sử, về sự phát triển văn hóa và khoa học, dân tộc Trung Hoa không tha thiết đến đại dương. (1)


Theo những tài liệu lịch sử chính thống, thản hoặc nhà cầm quyền Trung Quốc cũng gửi những đoàn thám hiểm đại dương đến Nhật Bản trong các thế kỷ thứ ba và thứ hai Trước Công Nguyên, cũng như tại Đông Nam Á, Ấn Độ, Ba Tư và Phi Châu trong thế kỷ 15. Điểm rõ nét nhất làtại Thái Bình Dương có rất ít, nếu không nói là không có, những vụ xâm nhập quy mô của Trung Quốc suốt chiều dài lịch sử (từ đời nhà Tần thế kỷ thứ ba Trước C. N. đến nhà Thanh từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20). Tuy nhiên từ trước Thời Phục Hưng đã có những cuộc giao thương trên bộ và dưới thuỷ theo Con Đường Tơ Lụa từ Trung Hoa qua Ấn Độ, Phi Châu và Trung Đông. (2)


Dưới đời nhà Tần, lý do tôn giáo (Đạo Lão) là động lực thám hiểm đại dương. Những tài liệu chính thức như cuốn Tần Chí tường thuật rằng năm 211 Trước C.N., Tần Thủy Hoàng (221-210 Trước C.N.) sai một phái bộ gồm hàng ngàn đồng nam đồng nữ (trai gái tân) đi kiếm những dược phẩm có tác dụng đem lại trường sinh bất tử cho nhà vua tại đảo Đại Châu Bất Tử trong Đông Trung Quốc Hải (Great Immortal Island of the Eastern Sea). Mặc dầu vậy, Tần Thủy Hoàng không bất tử mà đã chết một năm sau đó (210 Trước C.N.). Và chế độ quân phiệt nhà Tần đã cáo chung sau 15 năm thống trị (221-206 Trước C.N).


Qua thế kỷ thứ hai Trước C.N., Hán Vũ Đế (140-87) khởi công tìm kiếm hệ thống lưu vực Sông Tây Giang (West River) để mở rộng con đường thương mại từ Hàng Châu đến Quảng Đông. Sau khi thôn tính Nam Việt năm 111 Trước C.N, nhà Vua nối liền được những tỉnh phía Tây Nam từ Vân Nam qua Ấn Độ và Nam Nga nhằm phát triển ngoại thương như xuất cảng vàng lụa đến miền Tây Á và La Mã trên Con Đường Tơ Lụa (3)


Như vậy, trong thời Đế Quốc Thứ Nhất đời Tần Hán (First Empire), những cuộc thám hiểm đại dương tại Đông Trung Quốc Hải và Biển Nhật Bản chỉ nhằm tìm dược phẩm trường sinh bất tử và săn hải cẩu chứ không phải để chinh phục vùng Biển Nam Hoa nơi tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


Đặc biệt trong thế kỷ 15, từ đời Minh Thành Tổ (1403-1424), Đô Đốc Thái Giám Trịnh Hòa đã 7 lần thám hiểm Tây Dương (Ấn Độ Dương). Và trong 28 năm, từ 1405 đến 1433, đã viếng thăm 37 quốc gia duyên hải đến Ba Tư, Biển Hồng Hải phía tây bắc ,và Đông Phi Châu kể cả Đài Loan về phía cực đông.


Sau khi Minh Thành Tổ mất năm 1424, Minh Nhân Tông và Minh Tuyên Tông không còn trọng đãi Trịnh Hòa. Và chuyến đi sau cùng lần thứ 7 (1431-1433) đã kết thúc chiến dịch “Thất Hạ Tây Dương”. Lịch sử Trung Quốc cũng phê phán những cuộc thám hiểm đại dương đời nhà Minh đã làm kiệt quệ kinh tế đất nước. Cho đến nay các sử gia cũng chưa tìm ra lý do những cuộc viễn chinh nặng phần trình diễn này. (4)


Những tài liệu lịch sử nêu trên đã được phổ biến tại Đại Hội Quốc Tế Kỳ I về Sử Địa Trung Quốc tại Đài Bắc năm 1968.


Trong đời Tây Hán, nhân vụ tranh chấp giữa các nước Nam Việt, Đông Việt và Mân Việt, Hán Vũ Đế phát động cuộc nam chinh năm 111 Trước C. N. để chinh phục Nam Việt, đồng thời khai phá hệ thống giang hải Sông Tây Giang tại Quảng Đông. Và từ đó mở rộng con đường thương mại từ Hoa Nam đến Ấn Độ và miền Nam Nga. (5)


Như vậy theo chính sử Trung Quốc suốt từ thế kỷ thứ 3 Trước C.N. đến thế kỷ 15, dưới 3 triều đạiTần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế và Minh Thành Tổ không có tài liệu nào cho biết có các lực lượng hải quân Trung Quốc đi tuần thám để hành sử và công bố chủ quyền tại Biển Đông Hải, Biển Nam Hoa hay Biển Đông Nam Á.
Quan niệm của Trung Hoa về đại dương được ghi chép trong những sách địa lý và đồ thư theo đó Trung Quốc là trung tâm của thế giới bao bọc bởi 4 đại dương (tứ hải). Theo Tuân Tử (thế kỷ thứ 3 Trước C.N.), nếu một người từ nước Yên (Hà Bắc) đi về phía bắc, và một người từ nước Việt (Chiết Giang) đi về phía nam, thì trong cuộc hành trình họ sẽ gặp nhau dầu rằng mỗi người đi một ngả. Do đó họ kết luận rằng quả đất hình tròn.


Đối chiếu lịch sử của Việt Nam và Trung Quốc, sử sách ghi chép rằng năm 214 Trước C.N., sau khi thống nhất Trung Hoa, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư đem quân thôn tính các nước Bách Việt để chia thành 3 quận: Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (Quảng Tây) và Tượng Quận (Bắc và Trung Việt). (Nước Việt ta thời đó có nhiều voi: Bà Trưng, Bà Triệu cưỡi voi khởi nghĩa đánh nhà Hán, nhà Ngô; Trần Hưng Đạo phá quân Nguyên, Quang Trung đuổi quân Thanh cũng ngồi trên mình voi đánh giặc).


Tuy nhiên các dân tộc Bách Việt không chịu ách đô hộ tàn bạo của nhà Tần. Họ trốn vào rừng chiến đấu và giết được Đồ Thư. Năm 207 Trước C. N. Triệu Đà đánh thắng An Dương Vương, rồi sát nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải để thành lập một quốc gia độc lập đóng đô tại Phiên Ngung (Quảng Châu) lấy quốc hiệu là Nam Việt (207-111 Trước C.N.). Qua năm sau Lưu Bang cũng đánh thắng Hạng Võ và thành lập nhà Hán (206 Trước C.N. - 220 Tây Lịch).


Chữ “hải” trong quận Nam Hải không có nghĩa là biển mà là vùng đất xa xôi. Và quận Nam Hải là vùng đất phía cực Nam Trung Quốc (far-south). Cũng như Thanh Hải là một tỉnh phía cực Bắc và cực Tây tiếp giáp Mông Cổ và Tây Vực.


Như vậy Biển Nam Hải là vùng biển của quận Nam Hải thuộc tỉnh Quảng Đông. Từ nguyên thủy, Biển Nam Hải có tên là Trướng Hải là vùng biển của tỉnh Quảng Đông, cách huyện Hải Phong 50 dậm ta (lý) về phía nam (khoảng 25km).

Theo Tân Tự Điển Thực Dụng Hán Anh xuất bản tại Hồng Kông năm 1971 “Biển Nam Hải là vùng biển ven bờ chạy từ Eo Biển Đài Loan tới Quảng Đông” (6)


Theo Tự Điển Từ Hải xuất bản năm 1948, thì “Biển Nam Hoa thuộc chủ quyền chung của 5 quốc gia là Trung Hoa, Việt Nam, Mã Lai, Phi Luật Tân và Đài Loan”. Do đó Biển Nam Hải (Southern Sea) không phải là Biển Nam Hoa (South China Sea).


Sau này Trung Quốc lợi dụng danh xưng để mạo nhận rằng Biển Nam Hải của tỉnh Quảng Đông chính là Biển Nam Hoa của Trung Quốc.


Ngoài ra một số tài liệu xuất bản mới đây còn khẳng định rằng từ đời Tây Hán đã có 100 ngàn hải quân Trung Quốc đi khai phá và chiếm cứ các hải đảo tại Biển Đông Hải. Đây chỉ là một khẩu thuyết vô bằng. Có chăng chỉ là cuộc nam chinh của Tào Tháo mượn lệnh Hán Đế đi xâm chiếm Đông Ngô và đã bị Chu Du phá tan trong trận Xích Bích năm 207.


Từ thế kỷ 15, các nhà thám hiểm đại dương và các nhà doanh thương Âu, Á như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hòa Lan, Anh, Pháp, Ả Rập, Ba Tư, Ấn Độ v…v… khi vượt Đại Tây Dương đến vùng biển tiếp giáp Ấn Độ, muốn cho tiện họ gọi vùng biển này là Ấn Độ Dương. Và khi qua Eo Biển Mã Lai đến vùng biển tiếp giáp Trung Hoa họ cũng tiện thể gọi vùng biển này là Biển Nam Hoa (ngoại nhân xưng Nam Trung Quốc Hải).


Sự trùng điệp danh xưng này của các nhà địa lý Tây Phương không phải do sự thiếu am tường sử sách, mà chỉ là sự ghi nhận một tập quán về ngôn ngữ hàng hải. Như vậy Biển Nam Hoa cũng như Ấn Độ Dương không có tác dụng công nhận chủ quyền của Trung Hoa và Ấn Độ tại các vùng biển này. Nó chỉ ghi nhận vị trí của Ấn Độ Dương là vùng tiếp giáp Ấn Độ cũng như Biển Nam Hoa là vùng tiếp giáp Hoa Nam.


Vả lại, về diện tích, Biển Nam Hải (hay Biển Nam) chỉ rộng chừng 25km, trong khi Biển Nam Hoa chạy từ bờ biển Quảng Đông tới bờ biển Nam Dương, và rộng tới 2000km.


Do đó, ngay cả người Trung Hoa với mặc cảm tự tôn cho Trung Quốc là trung tâm của thế giới cũng không dám ghi trong chính sử để mạo nhận và độc chiếm danh nghĩa và chủ quyền các hải đảo tại vùng biển này.


Như đã trình bầy, dưới đời Hán Vũ Đế, nước Nam Việt bị thôn tính và đổi tên thành Giao Chỉ Bộ gồm 9 quận: Nam Hải và Hợp Phố (Quảng Đông), Thương Ngô và Uất Lâm (Quảng Tây), Châu Nhai và Đạm Nhĩ (Hải Nam), Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam (Bắc và Trung Việt). Từ đó các nhà sử học Trung Quốc như Chu Khứ Phi đời nhà Tống trong cuốn Lĩnh Ngoại Đại Đáp vẫn gọi vùng biển Việt Nam là Giao Chỉ Dương.


Vụ Thất Hạ Tây Dương hồi thế kỷ 15 của Trịnh Hòa là 7 chuyến hải hành đi qua Biển Đông Hải để thám hiểm Tây Dương. (7)
Trong những chuyến đi này Trịnh Hòa không một lần nào ghé Việt Nam mà chỉ dừng chân tại hải cảng Chaban (Trà Bàn hay Đồ Bàn) thủ phủ Chiêm Thành (nay thuộc địa phận Qui Nhơn).


Chuyến đi thứ nhất rời vùng Thượng Hải và Phúc Kiến tháng 7 năm 1405 theo lộ trình Phi Luật Tân, Mã Lai, Nam Dương, Tích Lan và Calicut (Ấn Độ). Với một đội hải quân hùng hậu gồm tới 28 ngàn binh sĩ trên 62 tàu lớn trong đó có 300 sĩ quan và 70 hoạn quan. Ba chuyến công du đầu tiên không đi quá Ấn Độ. Những chuyến công du sau này đã vượt qua Ấn Độ, Ba Tư, Ả Rập đến Biển Hồng Hải và Đông Phi.


Theo Giáo Sư John King Fairbank tại Đại Học Harvard,mục đích những chuyến công du nàykhông phải để thôn tính lãnh thổ nhưng chủ yếu nhằm thiết lập bang giao với hàng chục quốc gia duyên hải tại Ấn độ Dương và Biển Ả Rập. (8)


Trong chiến dịch Thất Hạ Tây Dương nho sĩ Mã Hoan viết sách “Doanh Nhai Thắng Lãm” chép câu cách ngôn hàng hải của các giới sứ giả, binh sĩ và thương gia mỗi khi đi qua hai vùng biển Thất Châu Dương và Côn Lôn Dương của Việt Nam. Thất Châu Dương gồm 7 đảo Hoàng Sa thuộc Nhóm An Vĩnh (Amphitrite, tên một tàu Pháp bị đắm tại đó). Côn Lôn Dươngvề phía nam là vùng biển tiếp giáp quần đảo Trường Sa:


Phía trên sợ Biển Thất Châu
Đi xuống phía dưới lại sầu Côn Lôn
La bàn kim lạc, lái mòn
Thuyền chìm người mất có còn gì đâu!


(Thượng phạ Thất Châu, Hạ phạ Côn Lôn, Châm mê đà thất, Nhân thuyền mạc tồn!)
Cho đến thế kỷ 18 đời nhà Thanh (năm 1744), sách “Hải Quốc Văn Kiến Lục” của học giả Trần Luân Quýnh cũng gọi Biển Đông Hải là Việt Hải hay Việt Dương.



HIỂM HỌA HUNG NÔ


Trong suốt 4 thế kỷ đời Tây Hán, Vương Mãng và Đông Hán, Trung Quốc phải chật vật đương đầu với Hiểm Họa Hung Nô. Danh xưng Hung Nô tự nó đã hàm chứa ý nghĩa nhục mạ và phỉ báng, man di mọi rợ, dã man hung dữ chỉ đáng làm nô lệ cho Hán tộc.


Do sự tình cờ lịch sử Hung Nô và nhà Hán cùng khởi nghiệp đầu thế kỷ thứ 3 Trước C. N. (209 và 206), và cùng mai một hồi đầu thế kỷ thứ 3 Tây Lịch (216 và 220). Có thể nói trong thời gian này, ít nhất trong 350 năm, Trung Quốc coi Hung Nô là kẻ thù không đội trời chung.


Ngũ Hồ là năm rợ: rợ Hung Nô và rợ Yết (Mông Cổ), rợ Tiên Ti (Mãn Châu), rợ Chi và rợ Khương (Tây Tạng).


Trong Đông Chu Liệt Quốc có chuyện Chu Uy Vương truyền đốt lửa tại các phong hỏa đài để báo động sự tiến công của Hung Nô. Thực ra đây chỉ là màn hài kịch. Vì Hung Nô thì không thấy, chỉ thấy binh sĩ các nước chư hầu nhốn nháo kéo đến tiếp ứng rồi ngơ ngác kéo đi. Sau khi biết đó chỉ là trò đùa cho Bao Tự cười, các quân sĩ vừa ngạc nhiên vừa tức giận. Và những lần tấn công sau này khi Hung Nô kéo đến, phong hỏa đài đốt lửa nhưng không thấy chư hầu nào gửi binh đến tiếp cứu.


Mẩu chuyện này nói lên hiểm họa xâm lăng từ miền Bắc:


Hung Nô đóng chật Long Thành
Năm năm lính thú sắp hành quân cơ
Nào ai đánh trống giương cờ
Long Thành chiếm được cõi bờ dẹp yên.
(Thẩm Nguyên Kỳ, Chinh Phu)


Nhưng không phải bao giờ quân nhà Hán cũng thắng thế. Vì các kỵ binh Hung Nô là những thiện xạ có tài bắn cung từ trên lưng ngựa huyết hãn mã (mồ hôi đỏ như máu):


Thề quyết liều thân diệt rợ Hồ
Năm ngàn quân táng đất Hung Nô
Thương thay xương chất bờ Vô Định *
Chinh phụ thâm khuê vẫn đợi chờ.
(Trần Đào, Lũng Tây Hành)
*(Nguyễn Du, Đống xương Vô Định đã cao bằng đầu)


Và không phải bao giờ các binh sĩ nhà Hán cũng giữ vững niềm tin:


Bồ đào rượu rót chén lưu ly
Muốn uống, tỳ bà giục ngựa đi
Bãi cát say nằm, chê cũng mặc
Xưa nay chinh chiến mấy ai về?
(Vương Hàn, Lương Châu Từ)


Qua nhà Tần đến nhà Hán, trong suốt hơn 400 năm mối lo gan ruột của nhà vua là đối phó một mất một còn với Hung Nô. Trong giai đoạn thịnh trị đời Tây Hán, Hán Vũ Đế đã 5 lần sai quân đi chiến đấu tại các mặt trận tây bắc. Các phong hỏa đài dọc theo Vạn Lý Trường Thành là những trại tiếp liên báo động tại quan ải:


Gió lửa động sa mạc
Chiếu rực mây Cam Tuyền
Vua Hán chống kiếm dậy
Lại vời Lý Tướng Quân.
(Lý Bạch, Tái Hạ Khúc).


Lý Tướng Quân ở đây là Lý Quảng, vị tướng lãnh nổi tiếng nhất trong Chiến Tranh Hung Hán. Nhưng không phải bao giờ ông cũng đem lại chiến thắng cho Hán Vũ Đế (140-87 Trước C.N.). Năm 119 Trước C. N. Lý Quảng ở tuổi lục tuần, vì trái quân lệnh đã thất trận và phải tự sát để khỏi bị xử trảm với nhục hình.


Vẫn trong đời Hán Vũ Đế, năm 99 Trước C. N., cháu nội của Lý Quảng là Lý Lăng, một tướng lãnh can trường đã mạo hiểm vào sâu đất địch với 5 ngàn kỵ binh. Rốt cuộc đã bị 8 vạn quân Hung Nô bao vây và Lý Lăng phải quy hàng. Vì đứng ra bênh vực Lý Lăng, sử gia Tư Mã Thiên đã bị Hán Vũ Đế kết tội. Và thay vì bị xử trảm, nhà sử học chỉ bị thiến hoạn. Tư Mã Thiên là sử gia nổi tiếng đầu tiên của Trung Hoa.


Cũng trong đời Hán Vũ Đế, năm 90 Trước C. N., Lý Quảng Lợi, thượng cấp của Lý Lăng, cũng đã thất trận và bị Hung Nô bắt giữ. Và cũng như Lý Lăng, Lý Quảng Lợi đã được kén làm phò mã Hung Nô. Như vậy ba Tướng Quân họ Lý không đem lại vinh quang cho Hán Vũ Đế được coi là đệ nhất anh quân Trung Quốc. So với Trần Bình Trọng tử tiết vì bất khuất không chịu đầu hàng nhà Nguyên “thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc”, Lý Lăng và Lý Quảng Lợi đã tỏ ra không xứng đáng là trượng phu.


Và Lý Bạch, đệ nhất thi nhân Trung Quốc, cũng không thể tự hào về các tướng quân họ Lý, dầu rằng mỗi khi vua Hán chống kiếm dậy, lại vời Lý Tướng Quân.


Ngoài ra nhà Tây Hán còn có hai điều bất ưng: Năm 100 Trước C. N. Hán Vũ Đế sai sứ giả Tô Vũ qua Hung Nô để can thiệp vào chính sự một nước lân bang phía bắc. Cơ mưu bại lộ, Tô Vũ bị bắt giam và quản thúc trong 19 năm, phải chịu nhục đi chăn dê tại vùng sa mạc nóng cháy và miền núi tuyết giá băng.


Trước đó, năm 111 Trước C. N., Hán Vũ Đế cũng đã dùng thủ đoạn này, sai sứ giả Thiếu Quí sang Nam Việt để âm mưu thôn tính đất đai. Thiếu Quí là tình nhân của Cù Thị, gốc người Hoa lấy lẽ Thái Tử Triệu Anh Tề trong thời gian làm con tin tại Trung Quốc. Khi về nước Triệu Anh Tề nối nghiệp cha lên ngôi lấy hiệu là Triệu Minh Vương. Khi Minh Vương mất, con là Hưng nối ngôi là Triệu Ai Vương. Sứ giả Thiếu Quí tư thông với Cù Thị, rồi dỗ dành Ai Vương đem dâng Nam Việt cho nhà Hán.
Phát giác âm mưu này, Tể Tướng Nam Việt là Lữ Gia truyền hịch tố cáo hành vi phản quốc của mẹ con Cù Thị, Ai Vương. Rồi đem cấm binh vào giết bộ ba Thiếu Quí, Cù Thị, Ai Vương để lập Kiến Đức lên làm vua là Triệu Dương Vương.


Mượn cớ báo thù cho Thiếu Quí, Hán Vũ Đế sai 5 đạo quân sang đánh Nam Việt, sát hại Tể Tướng Lữ Gia và Triệu Dương Vương. Và năm 111 Trước C. N. Nam Việt bị Trung Hoa thôn tính sau gần một thế kỷ độc lập, hùng cứ suốt giải trung nguyên, từ Núi Ngũ Lĩnh và Động Đình Hồ xuống miền Nam với Hồ Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam và Việt Nam. Điều đáng tiếc cho uy tín nhà Hán là, với thủ đoạn dùng miệng lưỡi sứ giả để thôn tính lân bang, Hán Vũ Đế chỉ thành công tại Nam Việt nhưng đã bị thất bại trong vụ Tô Vũ chăn dê.


Và năm 33 Trước C. N., cũng dưới đời Tây Hán, Hán Nguyên Đế phải đem Vương Chiêu Quân cống Hồ, dầu rằng theo văn học sử, Vương Tường là một trong bốn đại mỹ nhân Trung Quốc, cùng với Tây Thi, Hằng Nga và Dương Quý Phi. Cũng trong năm này Hán Nguyên Đế đã từ trần vài tháng sau khi Chiêu Quân xuất giá.


Để tưởng nhớ Tô Vũ và Chiêu Quân, thi sĩ Bạch Cư Dị đã sáng tác bài thơ:


Chim Hồng bạt gió ngoài biên
Nửa sa cát biển, nửa in mây trời
Chiêu Quân, Tô Vũ đôi nơi,
Dưới trăng, trên tuyết chơi vơi nỗi lòng…
(Thính Biên Hồng)


Trong giới văn nhân cũng có ý kiến bài bác Chiêu Quân trong vụ kết hôn với Chúa Hung Nô và sinh hạ được 3 người con. Nàng thường gẩy đàn tì bà mỗi khi hầu rượu Chúa Thiền Vu:


Nực cười Chiêu Nữ qua biên tái
Dạo đàn chuốc rượu Chúa Thiền Vu.
(Tiếu nhĩ Minh Phi trường xuất tái
Tì bà bồi tửu khuyến Thiền Vu). (Tố Như)


Chúng ta hãy đối chiếu trường hợp Chiêu Quân đời Hán với Huyền Trân đời Trần. Sau 3 lần đánh thắng Mông Cổ, trong chuyến du ngoạn Chiêm Thành, Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông hứa gả công chúa Đại Việt cho vua Chiêm. Với vinh dự được làm rể Đại Việt, Chế Mân đem vàng lụa xin cầu hôn và dâng Châu Ô và Châu Ri làm lễ cưới. Việc này có tác dụng gây lại tình hòa hiếu giữa hai nước lân bang. Đó cũng là cơ hội cho Việt Nam bành trướng lãnh thổ về phía Nam đến Thuận Hóa (Huế). Với hiểm họa trường kỳ xâm lăng từ miền Bắc, chính sách khai hóa miền Nam là quốc sách sống còn của Việt Nam. Cũng như đời Tần Hán Trung Quốc đã thôn tính và Hán hóa các sắc dân Bách Việt tại Quảng Đông, Quảng Tây và đảo Hải Nam nguyên là những lãnh thổ cổ truyền của Việt Nam từ đời các Vua Hùng Vương đến đời nhà Triệu.


Như vậy những chiến công của Hán Vũ Đế đã bị hoen ố trước vụ sỉ nhục của 3 tướng quân họ Lý và 2 sứ giả Thiếu Quí, Tô Vũ. Ngoài ra Hán Nguyên Đế đã phải dâng cung phi Vương Tường cho Hung Nô, một phần do tệ nạn tham nhũng của Mao Diên Thọ (một họa công thái giám). Đây là bằng chứng rõ nét nhất về sự suy vong của nhà Tây Hán từ Hán Vũ Đế đến Hán Nguyên Đế trong thế kỷ thứ nhất Trước C.N.


Qua đời Đông Hán, trong số 12 triều đại, có ít nhất 8 vua còn là những hài nhi hay thiếu nhi, tuổi từ 3 tháng đến 15 năm.
Ngoài ra, với mặc cảm tự tôn, người Hán còn chê cười Hung Nô với tập quán em chồng lấy chị dâu. Tuy nhiên học giả Wen Yen Tsao trong cuốn Lịch Sử Trung Quốc Thời Trung Cổ thượng dẫn, cũng không coi đó là điều đáng trách trong xã hội cổ xưa. Theo tác giả, các dân tộc cựu Do Thái (ancient Hebrews) cũng có tục lệ chị dâu góa bụa lấy em chồng (levirate).


Vả lại ngay tại Trung Quốc, đến thế kỷ thứ 8 cũng có trường hợp vua Đường Huyền Tông lấy con dâu là Dương Quý Phi (nhũ danh Dương Ngọc Hoàn, vợ Thọ Vương Mạo, con thứ mười tám của Đường Huyền Tông). Và mối tình vương giả Dương Quý Phi - Đường Minh Hoàng đã được Bạch Cư Dị ca tụng trong bài Trường Hận Ca bất hủ dài 120 câu.


Như vậy trong mấy chục thế kỷ từ các đời Thương, Chu, Xuân Thu, Chiến Quốc, Tần Hán, Tam Quốc, Lưỡng Tấn, Nam Bắc Triều đến đời Tùy, Đường, hiểm họa Hung Nô vẫn còn là đại họa cho Trung Quốc. Trong vụ phản loạn An Lộc Sơn đời Đường Huyền Tông cũng có sự tiếp tay của các rợ Hung Nô miền Bắc:


Đông sang, mười quận tài trai
Máu tuôn thành suối đỏ tươi ròng ròng
Im lìm trời vắng đồng không
Nghĩa quân bốn vạn chết trong một ngày
Giặc Hồ tên tẩm máu đầy
Hát câu Hồ Mán uống say phố phường.
(Đỗ Phủ, Bi Trần Đào)


Và trên đường rút quân về Tây Thục, dưới áp lực của các tướng sĩ, Đường Minh Hoàng đã phải bức tử Dương Quý Phi tại Mã Ngôi.
Với nạn Hung Nô khát máu trong vụ An Lộc Sơn tại Hàm Dương, Đỗ Phủ đã đề xướng quan niệm hiếu hòa và hiếu sinh. Theo nhà thi sĩ các quốc gia chỉ cần võ trang chống ngoại xâm, chứ không nên xâm lấn các nước hiếu hòa lân bang.


Giết người hãy nhẹ tay làm phước,
Mỗi quốc gia mỗi nước riêng phần.
Chỉ cần chặn đứng xâm lăng
Can chi sát hại cả làng quan quân?
(Sát nhân diệc hữu hạn; Liệt quốc tự hữu cương; Cẩu năng chế xâm lăng; Khởi tại đa sát thương.
(Đỗ Phủ, Tiền Xuất Tái)