PDA

View Full Version : Truyện sưu tầm



thuykhanh
06-30-2015, 12:36 PM
Sự tích chiếc xe trâu của Phùng Quán



Nguyễn Quang Lập -

Những năm tám mươi mình ở quê, mỗi lần ra Hà Nội mình thường trọ hai nơi, một là nhà Phạm Xuân Nguyên, hai là nhà Phùng Quán. Chỉ hai nơi đó là mình cảm thấy hoàn toàn tự do như ở nhà mình.

Nhà thằng Nguyên bằng cái lỗ mũi, chưa đầy chục mét vuông. Vợ chồng nó còn trẻ, có mình chúng nó như bị cấm đoán chuyện vợ chồng, rất khổ nhưng chúng nó vẫn vui vẻ. Mình cũng ái ngại lắm.
Thường trước khi ngủ mình nốc rượu thật say, một là để ngủ cho ngon, khỏi phải tưởng tượng lung tung, hai là ngầm thông báo cho chúng nó là mình say rồi, “chết” rồi, muốn làm gì thì làm, hi hi.



Lúc đầu cứ ra Hà Nội là mình tấp vào nhà thằng Nguyên. Một hôm, anh Quán đến chơi nhà thằng Nguyên gặp mình ở đấy.
Tàn cuộc anh kéo mình ra ngõ, nói mày vô nhà lấy đồ anh chở lên nhà anh. Mình ngạc nhiên, nói răng rứa anh. Anh cười, vỗ nhẹ vai mình, nói mày có vợ rồi mà tồ lắm. Mày nằm chềnh ềnh ra đó, tụi nó biết mần ăn ra răng.
Mình ok liền, vui vẻ theo anh về nhà.



Bây giờ mình mới để ý chiếc xe đạp của anh Quán, nó to quá cỡ, trông thô kệch kinh hồn, chưa bao giờ mình thấy chiếc xe đạp nào to kềnh càng và thô kệch như xe này, ống tuýp khung xe to hơn cổ tay, nan vành xe chiếc nào chiếc nấy to bằng đầu đũa, không thèm nói ngoa.

Anh Quán nói đó là xe trâu, người Nga dùng nó làm xe thồ, chở vài tạ vẫn chạy tốt. Mình hỏi sao anh mua xe này. Anh cười cái hậc, nói tiền đâu mà mua, có tiền cũng chẳng có mà mua, xe này khắp Hà Nội bói không ra một chiếc.
Mình nói: ủa, rứa răng anh có.
Anh nói người ta tặng. Mình hỏi ai tặng, anh nói Lênin. Mình cười phì, nói anh không biết nói trạng. Lênin chết năm nào, anh sinh năm nào mà bảo Lênin tặng anh chiếc xe đạp này.
Anh cười hì hì, nói rứa mới tài.

Mình không hỏi nữa vì biết thế nào anh cũng kể, tính anh thích kể có đầu có đuôi, ít khi kể gọn lỏn một câu. Anh hay kể mấy chuyện liên quan đến sự viết của anh.

Anh kể cái truyện Vượt Côn Đảo tất nhiên anh bịa, hồi đó nghe người ta kể lại một phần anh bịa ra chín phần.
Cho đến ngày anh ngồi kể cho mình nghe, khoảng năm 85 - 86 chi đó, anh vẫn chưa biết Côn Đảo méo hay tròn.
Trong đó có mấy câu anh tả con đường từ nhà tù ra bãi dương (trường bắn) được lót xương của các tù nhân bị án tử hình.
Là anh bịa ra thế để nâng cao lòng căm thù Đế quốc thực dân chứ xương người làm sao lót được đường.
Chẳng ngờ trong hồi ký của một ông ở tù Côn Đảo về (ông này nổi tiếng lắm, không dám nêu tên, hi hi) khi viết về con đường này cũng tả y chang như anh tả, cũng con đường lót xương các tù nhân, he he.

Cũng chuyện tù Côn Đảo, trong Trường ca Võ Thị Sáu (thực ra là bài thơ dài, in nguyên một trang báo Tiền Phong) anh viết tuổi 16 chị Sáu vẫn hái hoa lê-ki-ma cài tóc.
Buổi sáng ngày bị hành hình, chị đã ngắt một nhành hoa lê-ki-ma cài lên mái tóc, trên đường ra pháp trường chị vừa đi vừa hát.

Anh đâu biết lê-ki-ma là cây gì, nghe cái tên đẹp thì tưởng hoa của nó chắc đẹp lắm.
Sau này mới biết lê-ki-ma thực ra là cây quả trứng gà, hoa đã xấu lại đầy nhựa, “ngắt một nhành hoa cài mái tóc” có mà dở hơi.
Ai dè bác Nguyễn Đức Toàn lấy cảm hứng từ bài thơ của anh để viết bài Biết ơn Võ Thị Sáu (chắc khi đó bác Toàn cũng không biết cây lê-ki-ma là cây gì):

Mùa hoa lê-ki-ma nở ở quê ta miền đất đỏ
Thôn xóm vẫn nhắc tên người anh hùng
Đã chết cho mùa hoa lê-ki-ma nở…
Chị Sáu đã hy sinh rồi
Giọng hát vẫn như còn vang dội vào trái tim…

Anh Quán cười khà khà, nói sau này hễ viết về chị Võ Thị Sáu thì người ta lại bê nguyên chi tiết này vào, vui quá là vui.

Đến ngày thứ ba anh Quán mới kể sự tích chiếc xe trâu. Bữa đó trời mưa, anh đi đâu về, chạy rật rật vào nhà, miệng nói tay chỉ, Lập Lập mày bê chiếc xe đạp vào nhà cho anh.
Mình chạy ra, vừa nhấc lên đã lè lưỡi, nặng quá là nặng. Mình vừa thở vừa nói xe này đúc bằng sắt hay sao, nặng như chiếc xe máy.
Anh Quán cười nhẹ, nói thì bằng sắt chứ sao, có tí nhôm nào đâu, có rứa mới gọi là xe trâu. Anh lôi chai rượu vừa kiếm đâu về rót ra hai ly, nói uống đi. Xe này anh kiếm được thời viết văn chui đấy, chuyện hay lắm.

Anh kể đâu như năm 69 - 70, bé Đỗ Quyên, con gái đầu của anh, đang học cấp I. Mùa hè thì không sao, cứ đến mùa đông là nó thường xuyên đi học muộn. Trời rét mướt cả nhà ngủ khì trong chăn ấm, đến khi tung chăn vùng dậy đã bảy, tám giờ rồi.
Con gái bị cô giáo phê bình liên tục, anh xót lắm, nghĩ bụng không biết làm thế nào kiếm được cái đồng hồ báo thức.
Đồng hồ báo thức Liên Xô hồi đó bán phân phối giá 20 đồng, đối với anh Quán là cả một món tiền to.
Nhưng giá có kiếm được 20 đồng cũng chả đến lượt anh, sổ gạo còn hồi hộp sợ có ngày bị cắt mất, anh đâu dám mơ được phân phối đồng hồ.

Đến chơi nhà Trần Dần, anh thấy có tờ họa báo Phụ nữ Liên Xô, vừa lật vài trang chợt thấy thông báo thể lệ cuộc thi viết về Lênin. Ngó xuống phần giải thưởng, giải khuyến khích là đồng hồ báo thức, bút máy và một vài thứ khác.
Lập tức anh về nhà viết ngay, quyết giành cho được cái giải khuyến khích. Chừng hai ngày anh viết xong cái truyện Như con cò vàng trong cổ tích.

Tất nhiên anh không lấy tên thật. Anh thư vào Nghệ An cho chú em họ đang làm công nhân lâm trường gì đấy, xin phép được lấy tên anh ấy. Sở dĩ anh lấy tên chú em họ, vì chuyện thi cử anh không dám mượn tên mấy ông bạn nhà văn anh vẫn mượn tên, hơn nữa lấy tên một người thuộc giai cấp công nhân chắc người ta sẽ ưu tiên hơn.

Mới gửi thì thấp thỏm lắm, thỉnh thoảng có bưu tá gọi ra ngõ lấy thư, trống ngực đập to hơn trống làng, cứ tưởng bở thư chú em họ báo tin giải thưởng.
Hơn nửa năm vẫn biệt vô âm tín, tuyệt vọng luôn. Trách mình to đầu mà dại, tự nhiên đơm đó ngọn tre, đấu với các anh tài của cả 12 nước Xã hội Chủ nghĩa, cái giải rút cũng đừng có mà mơ.

Một hôm rượu say anh ngủ như chết, chị Trâm, vợ anh, véo cho cái rõ đau. Anh giật mình mở mắt, chị Trâm cầm tờ giấy báo trúng giải chú em họ vừa cầm ra đưa qua đưa lại trước mắt anh, ối cha mẹ ơi giải nhất!
Anh tự véo đùi mình hai ba cái để xem mình tỉnh hay mơ.

Chú em họ mặt nhăn như bị, nói anh mần ri chết em rồi. Anh hỏi sao. Chú em họ kể giấy thông báo về buổi sáng, buổi chiều đã ồn khắp lâm trường, một ngày sau thì ồn ra cả tỉnh.
Một ông công nhân ở nơi khỉ ho cò gáy bỗng nhận cái giải nhất của Liên Xô, lại giải nhất viết về Lênin, thế mới kinh.
Đài lâm trường, đài huyện, đài tỉnh đua nhau nói râm ran. Các nhà báo kéo nhau về lâm trường ầm ầm, chú em họ hãi quá, nửa đêm nhảy tàu ra nhà anh.

Chuyện nghiêm trọng. Việc này nếu lộ ra chẳng những anh mất toi cái giải nhất mà việc viết văn chui của anh hơn chục năm qua nhất định bị lật tẩy, khéo không tù tội như chơi.

Anh lạy lục chú em họ đã thương thì thương cho trót, cố làm sao đừng để chuyện này lộ ra.
Anh diễn giải phân tích cái truyện, đặt ra đủ loại câu hỏi rồi trả lời, để chú em họ đối phó với đám nhà báo.

Chú em họ cay đắng ra về, thôi thì đâm lao phải theo lao, nếu lộ ra anh Quán chết thì anh cũng chết theo, chẳng phải chuyện chơi.
Được hơn một tuần, nửa đêm chú em họ lại mò ra, lôi trong bị ra cái đồng hồ báo thức và năm chục đồng đưa cho anh Quán, nói của anh đó, anh cầm đi rồi tha cho em, hai ba tuần nay vợ chồng em mất ăn mất ngủ, kiểu này rồi cũng “tăng xông” đứng tim mà chết, chẳng sống được đâu.

Hỏi thì chú em họ kể, hết lâm trường mít tinh biểu dương đến huyện, sở hội họp khen ngợi. Lại còn Tỉnh ủy gọi lên chiêu đãi, tặng 50 đồng; Ủy ban tỉnh gọi lên chiêu đãi, tặng đồng hồ báo thức. Hai vợ chồng chú em họ sợ hết hồn, cứ mỗi lần có trát gọi là tim họ nhảy lên sau gáy, mặt mày xanh như đít nhái.

Rồi cũng qua. Ngày anh Quán đưa chú em họ đến Đại sứ quán Liên Xô nhận chiếc xe đạp là ngày cuối cùng trong suốt ba tháng trời căng thẳng hồi hộp.
Anh nấp sau gốc cây bên kia đường, đối diện cổng Đại sứ quán, căng thẳng đến độ mồ hôi đầm đìa toàn thân, ướt sũng cả áo quần, chỉ sợ đến phút chót mọi việc bị lật tẩy.

Chờ suốt ba tiếng đồng hồ mới thấy chú em họ đẩy chiếc xe đạp đi ra.
Anh ôm chầm lấy chú em họ nghẹn ngào không nói được. Hồi lâu mới nấc lên, nói em ơi, ơn em đời đời kiếp kiếp.
Anh theo Vệ quốc quân vào sống ra chết không biết bao nhiêu lần, chưa lần nào anh sợ như lần này.

Nghe đến đây tự nhiên mình muốn khóc.

thuykhanh
10-07-2015, 10:08 AM
HỒN MA TRÊN ĐẤT THẦN KINH



Cuối năm 1972, tốt nghiệp ngạch đốc sự Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, hắn được bổ về làm phó quận hành chánh quận Phong Điền tỉnh Thừa Thiên.
Thời đó, chiến sự vùng hỏa tuyến rất sôi động, nhưng chỉ trên dãy Trường Sơn, các quận dưới đồng bằng đều yên tĩnh, nhưng là sự yên tĩnh đáng ngờ. Từ Trường Sơn xuống đồng bằng, Việt cộng chỉ đi mấy tiếng đồng hồ là đến nơi.

Quận Phong Điền cách thành phố Huế độ ba mươi cây số. Từ Huế đón xe đò Huế - Phong Điền, theo quốc lộ Một ra hướng bắc, khoảng ba mươi cây số là đến Phong Điền. Ngày đầu tiên đi nhận nhiệm sở, hắn lên xe đò từ sáng sớm, đến trưa mới đến nơi.

Xe đò là những xe quân đội (thường là xe "Đốt Cách" Dodge 4x4) từ thời đệ nhị thế chiến phế thải ra. Xe chạy hết bốn tiếng đồng hồ trên quãng đường chưa đến ba mươi cây số. Xe chạy rất chậm lại còn ngừng dọc đường đón khách, đa số là những người buôn bán. Họ đem nông sản về Huế bán rồi mua hàng hóa về các chợ thôn quê. Hắn ngồi ghế trước, cạnh tài xế để tiện hỏi đường và ngắm phong cảnh. Quốc lộ Một chạy qua những thôn làng, những cánh đồng. Bên trái là đồi núi, bên phải là ruộng hoặc nhà đồng bào. Càng ra hướng bắc, đất đai càng cằn cỗi, toàn cây dại mọc trên cát đá.
Xe chạy quá quận đường một quãng thì ngừng lại cho hắn xuống.

Khi được báo tin, thiếu tá quận trưởng, từ văn phòng, bước ra, cười hề hề, đưa tay ra bắt.
- Ông phó đây hả?
- Vâng, chào thiếu tá. Tôi tên Lân.
- Mời ông vào.
Hắn theo quận trưởng vào văn phòng. Đó là một căn phòng rộng, có một cái bàn cũng rộng, trên để giấy tờ, công văn. Trước bàn có đặt một cái bàn nhỏ, để tiếp khách, với bốn cái ghế xa lông đóng bằng gỗ tạp, lấy từ những thùng gỗ đựng đạn đại bác. Chẳng có trà nước tiếp khách gì cả. Biết hắn mới ra trường, tay quận trưởng trình bày tỉ mỉ tình trạng của quận.

- Bây giờ tôi sẽ cho mời mấy sĩ quan bên chi khu và bên cảnh sát cùng ra quán uống cà phê, để giới thiệu ông phó mới với họ. Thứ hai tuần sau có họp xã ấp tại quận, tôi sẽ giới thiệu ông với cán bộ xã ấp để tiện làm việc.
Thời buổi chiến tranh, chẳng có lễ lạc bàn giao thêm phiền, vả lại quận không có ngân sách riêng, tài sản chỉ có bàn ghế, văn phòng phẩm linh tinh, ông phó ký biên bản bàn giao nhiệm vụ là xong.

Đối với đồng bào, chính phủ không thu thuế điền thổ (ruộng vườn) nên xã ấp nhờ vào ngân sách tỉnh yểm trợ. Lương hướng cán bộ chẳng bao nhiêu. Khi có thì giờ, họ cày cấy, trồng trọt, ban đêm theo nghĩa quân, nhân dân tự vệ canh gác, bảo vệ an ninh cho đồng bào.

Ông phó trước đi nhận nhiệm sở mới, mấy tháng nay mà chưa có người về thay, nay có ông giúp tôi về hành chánh thì tôi cũng được rãnh tay mà lo việc khác.
Về sinh hoạt, ông phó ăn uống với tôi, một nghĩa quân sẽ lo việc đi chợ nấu nướng. Buổi tối, có một căn phòng ngay sau văn phòng ông phó, dùng làm phòng ngủ. Phòng nầy được chất bao cát chung quanh và trên trần để chống pháo kích. Vấn đề bây giờ là phải tìm phương tiện cho ông đi về các xã ấp.

Mấy ông phó trước có xe gắn máy, tôi biết ông mới ra trường, chưa giành giụm được để mua xe gắn máy. Mà độc thân như mấy ông, lương hướng chỉ đủ về Huế trả tiền nhà trọ, đi xem phim, mua sách báo, ăn uống, cà phê cà pháo với bạn bè. Ông nào có vợ mới biết tiết kiệm.
Về Huế mỗi cuối tuần, mà ông đi xe đò thì coi như hết một ngày rồi. Hiện nay quận có một chiếc xe jeep hư cũ, có lẽ từ ông tri huyện mấy đời trước để lại, để tôi gọi ông thợ sửa máy cày dưới chợ đến xem có giúp sửa chữa được gì không? Ông thợ nầy rất giỏi mà lấy công lại rẻ nữa.


Lần đầu đi nhận nhiệm vụ mà được một tay quận trưởng tốt bụng giúp đỡ thì hắn cũng thấy yên tâm. Về công việc hành chánh, nhân viên các ban ngành, tuy trình độ pháp lý kém nhưng kinh nghiệm thì nhiều. Họ biết rõ từng xã ấp trong quận, từ vấn đề an ninh, nhân sự đến các tập tục, các giòng họ, các lề thói mỗi thôn xã riêng.
Câu phép vua thua lệ làng, ở nông thôn miền Trung vẫn còn là điều cần lưu ý. Ông xã trưởng, ấp trưởng được dân bầu lên, có chính quyền, luật lệnh qui định, nhưng các ông trưởng tộc, các ông phụ lão trong làng mới là những người có ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt cộng đồng thôn xã.

Một "quận hành chánh" phải phụ trách mọi việc liên quan đến giấy tờ, điều hành các ngành chuyên môn, xã, ấp mà chỉ có năm ba nhân viên với vài cái máy đánh chữ và một ông tống văn thư đi xe đạp...Vậy mà mọi việc trong quận chạy đều, hiệu quả, chính xác, khiến hắn ngạc nhiên.

Vì thế mà các tổ chức nghiên cứu quốc tế đánh giá Việt Nam Cộng Hòa thời đó có một nền hành chánh công quyền hiệu năng nhất Đông Nam Á. Có lẽ tình trạng chiến tranh khiến cho công chức, cán bộ địa phương phải làm việc theo kiểu quân đội. Lúc nào cũng phải nắm vững tình hình, có lệnh là thi hành ngay.


Về chiếc "công xa" cho ông phó quận, không ngờ được giải quyết nhanh chóng. Đó là nhờ vào tài nghệ của anh thợ sửa máy cày.

Chiếc xe cũ kỹ đến độ mỗi con ốc phải dùng đục, búa gõ cả buổi mới ra. Chỉ một tuần sau, chiếc xe nổ máy, tuy tiếng kêu cũng không thua chiếc máy cày Kubota bao nhiêu. Bốn cái bánh được thay bằng bánh xe nhà binh phế thải mà tay quận trưởng phải lên quân vận xin mới có, nhưng cái trần xe thì không có tiền mua. Thế nên phải giữ lại cái trần xe với một lỗ trống hoác phía trên, người ngồi trong xe, nếu mặc áo đi mưa khi trời mưa thì cũng không sao.


Nhờ có phương tiện di chuyển, hắn về Huế, lò dò đến Tổng Hội Sinh Viên Huế, Hội Hồng Thập Tự Thừa Thiên-Huế, Caritas (cứu trợ Công Giáo), xin đoàn công tác ra các xã ấp, khi thì khám bịnh, phát thuốc, khi thì tặng quà, gạo, bột dinh dưỡng, áo quần, mùng mền, khi thì đắp đường, sửa nhà cho đồng bào nghèo, bày trò chơi, tập hát cho lũ trẻ...

Ông phó quận (là hắn) lái xe về xã ấp hội họp, dự lễ cúng đình, cúng làng, coi thật long trọng. Hơn nữa khi một chiếc xe hơi chạy trong làng, trên đường quê là một hiện tượng đáng cho trẻ con chạy theo sau xe, reo hò, đáng để cho người đang làm việc đồng áng nghỉ tay ít phút đứng nhìn giải trí. Ông phó dừng xe, bước xuống xe trông oai hơn, tư cách hơn các ông phó trước đây đi xe gắn máy.

Nhưng mỗi cuối tuần, hắn lái chiếc xe cà tàng đó về Huế thì cả thành phố để ý ngay. Chiếc xe bạc màu, "trầy vi, tróc vảy" lại thêm cái trần thủng với tiếng máy nổ toan toác (bể ống bô), chỉ chạy một vòng lên xuống đường Trần Hưng Đạo (đường phố chính), là ai thấy đều ngạc nhiên, hỏi nhau về nguồn gốc chiếc xe và người lái nó.

Đó là điều hắn không ngờ. Khi hắn đi bộ, mấy bà bán hàng đều liếc xem, tên khùng nào dám lái chiếc xe như thế trong một thành phố cổ kính, với người dân ưa bình luận chuyện thiên hạ và sĩ diện hão.

Một buổi tối thứ bảy, hắn đi xem phim. Vì phim quá dở, hắn bỏ đi ra, lên xe, lái về nhà trọ trong thành nội, nhưng khi xe chạy đến khoảng trước cửa Thượng Tứ thì hắn thấy một cô gái mặc đồ trắng, đội nón đứng bên đường ngoắc tay ra dấu với hắn.

Hắn tấp xe vào.

- Cô gọi tôi phải không?
- Dạ phải.
- Cô cần gì tôi?
- Em xin anh cho quá giang về nhà.
- Nhà cô ở đâu?
- Dạ, trên Kim Long.
- Mời cô lên xe.

Hắn vẫn chưa cho xe chạy.

- Tôi hỏi cô điều nầy. Con gái Huế giờ nầy mà dám đón xe quá giang một người lạ. Sao cô không đón xích lô mà đi?
- Em đứng đón xích lô đó chứ. Mạ em sai em đi công chuyện, nhưng lâu quá, sợ về trễ mạ la, thấy xe anh, em xin quá giang.
- Cô biết tôi là ai mà cô dám đón xe tôi?

Cô gái nhìn hắn cười, hai con mắt sáng lên vẻ ngây thơ nhưng tự tin, không hề sợ ai.

- Anh lái chiếc xe nầy, ai mà không biết anh. Anh tên Lân, phó quận Phong Điền, quận trưởng là thiếu tá Tôn Thất Bá. Ông ta là em của mạ em, cậu tụi em. Mấy lần anh đi với cậu Bá trên đường Trần Hưng Đạo, em ngồi trong tiệm thấy, nên biết anh.
Hắn nhìn cô gái, tuy cô đội nón và ánh đèn đường tù mù nhưng hắn cũng thấy cô gái đẹp một cách rất Huế. Mặt trái xoan, tóc dài, hiền lành, đoan trang nhưng giọng nói và đôi mắt như có chút tinh nghịch.

- Cậu em khen anh đàng hoàng.
- Cám ơn cô. Vậy là cô biết hết về tôi, nhưng cô tưởng tôi đàng hoàng là cô lầm to!
- Tôi vẫn không hiểu, vì sao chưa quen biết mà cô dám đón xe tôi để quá giang. Không cô gái Huế nào dám làm như vậy cả.
- Anh nói chi lạ rứa? Em đón xe xích lô đâu cần quen biết với ông đạp xích lô. Anh dám âm mưu gì với em không?
- Tôi chịu thua cô. Xin lỗi. Cô đừng giận tôi.

Cô bật cười, giọng người lớn.
- Tha cho đó!
Hắn cởi áo đi mưa đang mặc trao cho cô gái.
- Cô mặc vô. Khi tôi chạy xe, mưa tạt ướt hết.
- Bộ anh không sợ mưa sao? Mưa ướt lạnh chết!
- Nếu tôi không nhường áo cho cô, chắc chắn là cô khinh tôi là thằng con trai bần tiện, ích kỷ ngay.
- Đúng rồi! Anh mà làm vậy em thất vọng về anh nhiều lắm.

Hắn cho xe chạy. Trong lúc trò chuyện, cô cho biết đang học đệ nhất trường Đồng Khánh. Hắn hỏi cô có mấy anh chị em? Cô bảo chỉ có hai chị em thôi. Cô tên Khánh Trang, cô em tên Hiển Nhơn, đang học đệ nhị. Hắn nói mấy câu tán tỉnh, đại ý, gặp một người đẹp như cô mà không làm quen là dại, cô chỉ cười mà không nói gì. Xe qua cầu Bạch Hổ, chạy thêm gần nửa cây số thì cô gái ra dấu dừng lại.
- Nhà em ở đây.
Cô định cởi trả áo đi mưa nhưng hắn bảo.
- Cô cứ mặc, kẻo ướt, vô nhà mạ la. Tôi mà nhận lại ngay bây giờ, thì uổng công tôi quá!
Cô gái xuống xe, nhìn hắn, nhờ ánh đèn xe, hắn thấy cô cười.
- Sáng mai anh ghé nhà em lấy áo đi mưa, em sẽ chờ anh. Cám ơn anh.
- Cô nói câu đó là cô biết âm mưu của tôi rồi. Tôi cám ơn cô mới đúng.
- Chào anh. Nhớ sáng mai, em chờ.
- Tôi xin đến lúc chín giờ sáng mai. Được không cô?
- Dạ được!


Khi cô bước khuất vào cổng nhà, hắn vẫn còn dừng xe, để nhận diện cái cổng nhà đồ sộ, kiểu cổ, đen xỉn vì thời gian. Hắn đoán gia đình cô thuộc danh gia vọng tộc ngày xưa nên mới có ngôi nhà với chiếc cổng lớn như thế. Khi chạy tới để kiếm cách trở đầu xe, hắn mới biết rằng, có nhiều ngôi nhà cũng với chiếc cổng đồ sộ tương tự. Một bên đường là vách tường chạy dài, một bên là sông Hương gió thổi với mưa phùn lạnh cóng. Khi lên đến chùa Thiên Mụ, hắn mới tìm được chỗ quay xe lại.

Sáng hôm sau, vào ngày chủ nhật, hắn diện áo quần tươm tất, chải đầu soi gương rồi lên xe đến nhà người đẹp. Hắn dừng đúng chiếc cổng khi hôm, nhưng để chắc ăn, hắn xuống xe, chờ một người đàn bà đi tới và hỏi.

- Phải nhà nầy có hai cô gái đẹp. Phải không chị?

Chị đàn bà vui vẻ.
- Đúng rồi. Anh vô đi. Qua khỏi cái bình phong là anh thấy nhà. Anh vô gặp cô Hiển Nhơn phải không?
- Tôi vô thăm cô chị.

Chị đàn bà trợn mắt lên, kinh ngạc.
- Anh đi thăm cô Khánh Trang? Anh cứ vô đi thì biết. Nhưng nhớ gõ cửa nhà ngang mới có người. Anh mà gõ cửa nhà giữa...Thôi anh vô đi.

Hắn bước qua cổng thì có một bình phong lớn ngăn lại, khiến hắn phải theo lối mòn phía bên trái, có hàng rào bằng cây chè tàu hai bên. Đi một quãng nữa, hiện ra một ngôi nhà ngói dài, xây trên một nền nhà cao bằng đá, mái nhà thấp tè, rêu phong, cửa gỗ, đóng im ỉm. Theo lời chỉ dẫn của chị đàn bà, hắn bước đến nhà ngang. Căn nhà nầy cao ráo, xây theo kiểu mới. Hắn gõ cửa. Cánh cửa hé ra. Một người đàn bà, tuổi trên năm mươi, gương mặt thanh tú nhưng nghiêm trang, hỏi hắn.
- Cậu hỏi ai?
- Xin lỗi có phải đây là nhà cô Khánh Trang không ạ?

Người đàn bà ngạc nhiên nhưng cũng mở cửa.
- Vâng, mời cậu vô nhà.
- Cám ơn bác.
- Mời cậu ngồi. Cậu hỏi Khánh Trang có chuyện chi không?
- Dạ, cháu quen với Khánh Trang. Cháu chỉ đến thăm thôi.
- Cậu quen với Khánh Trang bao lâu rồi?
- Dạ, chỉ mới khi hôm. Cháu cho Khánh Trang mượn chiếc áo đi mưa, Khánh Trang có dặn sáng nay đến nhận lại.

Người đàn bà rót trà mời hắn.
- Mời cậu dùng trà. Tôi vừa pha trà cúng Phật. Cậu quen với Khánh Trang trong trường hợp nào. Áo đi mưa của cậu màu gì?
Nghe mấy câu hạch sách, mà không được người đẹp đón tiếp, hắn phát nản, định trả lời vài câu qua loa rồi rút lui.
- Dạ, lúc tối, cháu gặp Khánh Trang trước cửa Thượng Tứ. Khánh Trang nhờ cháu đưa về đây. Cháu có cho cô ấy muợn chiếc áo đi mưa màu đen, cô ấy hẹn sáng nay đến nhà, cô sẽ trả lại.

- Sáng nay tôi không thấy chiếc áo đi mưa nào khác cả. Lúc nãy con Hiển Nhơn ra tiệm vẫn mặc chiếc màu trắng. Chẳng phải tôi khó khăn gì với cậu mà không cho cậu gặp Khánh Trang, nhưng xin cậu kể tỉ mỉ chuyện cậu gặp nó như thế nào, hai người đối đáp ra sao?
Khánh Trang nói chuyện gì với cậu? Nó mượn áo đi mưa ra sao? Xin cậu bình tĩnh. Cậu kể ra tôi mới biết chắc là cậu có gặp Khánh Trang. Vì có thể là người khác xưng là Khánh Trang để chọc ghẹo cậu cũng nên.

Hắn đành ngồi nán lại và kể tỉ mỉ từ đầu đến cuối câu chuyện. Người đàn bà nghe xong, đứng lên, bảo hắn.
- Cậu theo tôi. Tôi chỉ cho cậu xem, có phải người cậu gặp lúc tối, đúng là Khánh Trang không?

Người đàn bà bước xuống thềm, đi vòng ra sau nhà, hắn đi theo, không hiểu đi đâu? Sân trước đã âm u, sau vườn thì như một khu rừng. Cây cối rậm rạp, um tùm, toàn là cây ăn trái. Ổi, mãng cầu, mít, mận...Tuy có một lối mòn, nhưng hai người nhiều lúc phải cúi xuống dưới một cành cây hay dùng tay rẽ lá mới bước đi được.
Một tia nắng mai lẻ loi chợt sáng lên, mấy giọt nước mưa còn đọng trên lá long lanh khiến khu vườn vừa nên thơ vừa bí ẩn.

Hắn nghĩ đến chuyện Liêu Trai. Một ngôi nhà cổ bỏ hoang, một khu vườn rậm, đầy cỏ dại...Có một bầy hồ ly tinh kéo đến ở. Chúng biến thành những cô gái rất đẹp để dụ dỗ một cậu học trò trọ học nhà bên cạnh. Hắn thấy có gì bất thường đây. Nếu không phải cô Khánh Trang thì là ai? Có thể là cô em?

- Tối qua bác có sai cô Hiển Nhơn đi đâu không?
- Không. Khi hôm con Hiển Nhơn đi ngủ sớm. Tôi không sai nó đi đâu cả. Mà nó có đi đâu thì dùng xe gắn máy trong nhà, đâu cần phải đi xích lô hay quá giang xe cậu.

Người đàn bà dừng lại, hắn cũng dừng bước. Trước mặt hắn, có mấy ngôi mộ ở một góc vườn. Toàn là những ngôi mộ cũ kỹ, rêu phong, chỉ một ngôi rất mới, xây theo kiểu tân thời, có mái che, có tường thấp vây quanh. Người đàn bà bước đến ngôi mộ đó, hắn bước theo.

- Đây rồi. Áo đi mưa của cậu đây. Tôi đoán đúng mà!
Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc xương sống hắn. Áo đi mưa màu đen của hắn phủ lên ngôi mộ, trông giống như chiếc mền đang đắp cho một người nằm ngủ.
- Cậu nhìn thử hình trên mộ bia, có giống người cậu gặp tối qua không?

Hắn sợ đến nghẹn thở, nhưng cũng gắng bước đến nhìn vào tấm hình in trên mộ bia.
- Dạ đúng rồi. Đúng cô nầy đây. Cháu thấy gương mặt, mái tóc, đôi mắt...đúng y như cô lúc tối.

Người đàn bà cúi xuống cầm lấy chiếc áo đi mưa, trao cho hắn.
- Cậu nhận lại áo...
- Thôi, cháu không dám đem về. Cháu ngán quá! Cứ để cho cô ấy dùng, khỏi phải đón đường mượn áo người khác. Khi hôm cháu có tán tỉnh cô ấy mấy câu. Có sao không bác?

Người đàn bà cười.
- Không sao đâu. Nó chỉ chọc ghẹo người ta thôi chứ không hại ai cả. Khi còn sinh thời, Khánh Trang hiền lành và nghiêm trang lắm. Sau khi mất, nó lại hoang nghịch hơn cả con em nó nữa. Cậu biết, thỉnh thoảng, buổi tối Khánh Trang thường hiện lên trước cổng, đi hỏng hai chân, có khi bay từ ngọn cây nầy sang ngọn cây khác. Người đi đường sợ lắm, nhưng chẳng ai bị gì cả. Để tôi đốt nhang, cậu khấn vái mấy câu thì nó sẽ không cho cậu gặp nữa. Cậu yên tâm.

Người đàn bà đốt nhang, đưa cho hắn.
- Cậu đứng trước mộ bia khấn đi.
- Cháu phải khấn làm sao?
- Thì cậu nói là xin cô sống khôn thác thiêng, đừng chọc ghẹo tôi nữa.
Hắn làm y lời, cắm nhang vào bát nhang và vội vã nói.
- Xin phép bác, cháu về.
- Mời cậu vào nhà. Cậu sợ hả? Nãy giờ tôi không biết rõ cậu là ai? Có phải cậu từ trong Nam ra làm việc, đi công tác hay du lịch?
- Cháu làm ngoài quận Phong Điền. Nhờ cô Khánh Trang cho biết, thiếu tá Tôn Thất Bá, quận trưởng, là em của bác. Lúc tối, cháu nhân chỗ quen biết, nói mấy câu không được đứng đắn với cô Khánh Trang, lúc nãy cháu khấn mà quên xin lỗi cô ta!
- Cậu đừng bận tâm. Nó không bắt hồn cậu đâu mà sợ. Tôi có cửa hàng trên đường Trần Hưng Đạo, thỉnh thoảng cậu ghé thăm, dù sao cũng thành chỗ quen biết nhau rồi.
- Cám ơn bác, cháu sẽ ghé thăm bác khi có dịp.


Hôm sau, thứ hai, ra quận làm việc, nhân lúc trò chuyện, hắn hỏi dò tay quận trưởng.
- Thiếu tá có bà chị trên Kim Long phải không? Có cửa hàng trên đường Trần Hưng Đạo...
- Rồi, ông phó trồng cây si cô cháu tôi, con Hiển Nhơn phải không? Ra đây có mấy tuần mà làm quen được người đẹp kín cổng cao tường, cũng giỏi lắm!
- Không có đâu. Tôi chưa gặp cô Hiển Nhơn, nhưng tôi gặp cô Khánh Trang.
- Tiêu ông rồi, ông phó ơi. Ông gặp con Khánh Trang là ông gặp ma. Con Khánh Trang chết đã được hai năm nay rồi. Tôi có nghe nó thường hiện ra nhác người đi đường. Ông đi đâu lên đó mà gặp nó?
- Tôi gặp cô ta trước cửa Thượng Tứ. Tối thứ bảy vừa rồi. Tôi chở cô ta lên nhà. Hôm sau, sáng chủ nhật, tôi lên đòi lại áo đi mưa, bà cụ dẫn ra mộ cô ta, thấy áo đi mưa của tôi đắp trên mộ. Thời đại nguyên tử mà còn có ma quái, tôi không tin chút nào. Nhưng cũng ớn xương sống. Tôi hỏi thiếu tá để biết chắc là cô Khánh Trang đã chết.
- Tôi cũng không tin ma quỉ, nhưng con Khánh Trang thì cũng đáng ngờ, nghe nói nó bay từ ngọn cây nầy sang ngọn cây khác. Người giả làm ma thì không thể leo lên ngọn cây về ban đêm được. Có khùng mới làm chuyện đó.

Để chủ nhật tới, tôi rủ thêm mấy sĩ quan chi khu về Huế coi ciné, chúng ta sẽ ghé cửa hàng của bà chị tôi cho ông phó làm quen. Chị tôi còn có con Hiển Nhơn, em con Khánh Trang, nó đẹp, dễ thương nhưng tính tình như con trai, nghịch ngợm lắm, trong khi mẹ nó lại khó tính. Cũng có nhiều tên nhào vô nhưng bị nó chê. Không ưa ai thì nó bảo "cù lần", hễ ghét thì nó bảo "Đồ cù lần lửa" Nó tăng thêm một bậc mà còn lần khân tán tỉnh thì nó mắng cho, mất mặt nam nhi. Con gái Huế mà như nó thì chỉ có một.


Chủ nhật sau, hắn theo tay quận trưởng và mấy sĩ quan về Huế xem phim. Khi đi trên đường Trần Hưng Đạo, cả bọn ghé vào một cửa hàng. Một người đàn bà và một cô gái, hắn đoán là cô Hiển Nhơn, em cô Kháng Trang, đang chuyện trò với nhau. Tay quận trưởng kêu lên với bà chủ.

- Có khách đến thăm.
Hắn nhận ra ngay người đàn bà, mẹ cô Khánh Trang. Bà ta nhìn ra và cười.
- Chào các cậu. Mời các cậu vào. Chịu khó đứng nghe. Không có ghế cho khách đâu. Nhơn! qua bên kia lấy nước về uống, con.
- Khỏi. Tụi em đi ngay bây giờ. Đây là ông phó hành chánh, mới ra trường, giới thiệu với chị để làm quen.
- Chào cậu. Tôi có biết cậu ta rồi.
Hắn chào.
- Chào bác. Chào cô Hiển Nhơn.

Cô gái nhìn lên rồi cúi xuống ngay. Hắn thấy cô chỉ khác người chị, Khánh Trang, ở mái tóc cắt ngắn và đôi má hồng tự nhiên, có lẽ cô mắc cỡ. Mấy cậu sĩ quan kêu lên.
- Vậy là tụi nầy bị ông phó loại khỏi vòng chiến rồi.
Hắn vừa bước thụt lùi vừa nói.
- Tôi chuẩn bị rút lui đây.
- Sao vậy?
- Cô không thèm nhìn tôi nên tôi chỉ chờ cô ban thêm hai tiếng "cù lần" là tôi đã ở ngoài đường rồi.

Mọi người cười ồ. Tay quận trưởng lên tiếng.
- Cháu đừng nói hai tiếng đó, tội nghiệp ông phó, nghe Hiển Nhơn.
Cô ngước lên nhìn hắn và cười. Mặt cô sáng như trăng rằm, nụ cười thật tươi, ánh mắt thân ái, dịu dàng.
- Cháu có nói chi mô!
- Vậy là ông yên tâm ở lại đây trò chuyện với người đẹp. Tụi nầy đi xem phim, xong sẽ quay lại đón.
- Tôi đi với mấy ông. Một mình tôi ở đây, chưa quen, biết chuyện chi mà nói!? Để lần sau xin phép bác và cô được đến thăm.
Cô lại ngước nhìn hắn.
- Nghe nói anh tán tỉnh chị Khánh Trang dữ lắm mà!
Hắn đứng ngoài đường nói vô.
- Cô ra mộ chị Khánh Trang, thắp nhang và xin lỗi chị Khánh Trang giùm.. thằng em rể.
Cô cũng không vừa.
- Vừa tán tỉnh chị, bây giờ lại tán tỉnh em. Lại còn đòi làm em rể chị Khánh Trang?! Để đó! Anh sẽ biết tay em.

Khi ra đường, tay quận trưởng bảo.
- Ông tán cũng khá đấy. Con nhỏ đó đẹp nhưng dữ lắm, ăn nói đốp chát với bọn con trai, đứa nào cũng ngán. Nếu nó dịu dàng với ông là coi như nó chịu ông rồi. Có một điều ông phải nhớ là không nên tán tỉnh qua đường. Con gái ở đây mà chuyện trò với đứa con trai nào rồi thì coi như khó mà lấy chồng ngoại trừ thằng con trai đó. Ông phải suy nghĩ cho kỹ nghe! Đừng để tôi bị vạ lây.
- Ông yên chí lớn! Mới gặp mà tôi đã muốn xưng cháu chính thức với cậu rồi. Ăn thua là nhờ ông nói vô mấy tiếng. Có nội tuyến mà thất bại, chắc tôi thành Trương Chi quá!

Vậy là từ đó, mỗi thứ bảy, chủ nhật, đi ngang qua cửa hàng, hễ thấy người đẹp là hắn sà vào. Lúc đầu chỉ ghé năm mười phút, sau thời gian tăng dần đến nửa giờ...có khi cả buổi mà hai cô cậu nói chuyện không chán.

Khi có hắn, cô gái chả giúp bà mẹ được gì trong việc bán buôn. Bà mẹ thì lúc nào cũng nghiêm trang nhưng không tỏ vẻ khó chịu khi thấy hắn lò dò đến cửa hàng ngồi đồng suốt buổi.

Chuyện trò cũng chỉ nói về sách vở, học hành. Hắn thì nhắc lại thời còn đi học, cô gái thì nói về bài vở, về bạn học, cô thầy giáo. Đôi khi hắn mánh mánh đến chuyện tình cảm thì cô gái liếc mắt về phía mẹ, coi như báo động. Bà mẹ nói chuyện với khách chứ hai tai không bỏ sót câu nào giữa con gái mình với thằng con trai mà bà chưa nắm vững gia phả. Có lẽ bà có dạy dỗ con gái sao đó nên cô rất cảnh giác trong khi trò chuyện.

Nhưng với hắn, được ngắm cô đủ thích lắm rồi. Cô gái Huế đã đẹp giọng nói lại dịu dàng, nhỏ nhẹ dễ hớp hồn bọn con trai. Cái thú rất hạnh phúc của hắn là hai đứa nhìn vào mắt nhau. Mắt cô sáng long lanh, đôi môi mỉm cười và hai má hồng tự nhiên. Hắn như thấy rõ những những mạch máu hồng li ti trên gò má cô...

Làm quen được ít lâu, hắn nghĩ ra một cách tán tỉnh mà bà cụ không biết, là hễ bà cụ quay lưng nói chuyện với khách hàng là hắn mấp máy môi (không thành tiếng) với cô "Em đẹp lắm!", cô mỉm cười gật đầu, lần khác thì "Anh nhớ em", cô lắc đầu cười, nhưng đôi mắt sáng lên, trả lời bằng cách nhọn đôi môi "Anh xạo!"

Trò chơi đó cứ lập lại mãi mà cả hai vẫn thấy thích. Một lần, hắn đâm liều, nói thầm với cô "Anh yêu em. Anh nhớ em!" Lúc đầu cô không hiểu, nhíu mày lại, vẻ suy nghĩ. Hắn nhắc lại. Cô đỏ mặt lên, mím môi, làm thinh cúi xuống rồi lại ngẩng lên cười.

Một buổi sáng thứ bảy, hắn tình cờ gặp cô trên đường Phan Bội Châu. Hai đứa đứng lại chuyện trò, rồi đi lên đi xuống cũng chỉ con đường đó.
- Anh mời Hiển Nhơn đi ăn bánh bèo Vĩ Dạ, đi ăn chè Cồn, được không?
- Em mà đi, người khác thấy được, mét mạ thì em chết.
- Hay là mình đi xem phim. Hiển Nhơn vô trước, anh vô sau, không ai thấy.
- Rứa lại càng mau chết nữa. Ở đây, ai làm gì cũng biết hết. Thôi em về kẻo mạ la.
- Có cách nào cho anh được đi chơi với Hiển Nhơn không?
- Anh hỏi người lớn, họ chỉ cách cho.

Cái cách mà hắn về vấn kế tay quận trưởng là chỉ việc mời cha mẹ ra xin làm đám hỏi, sau đó có thể đến nhà thăm, đưa em đi dạo phố, coi ciné. Hắn nhờ tay quận trưởng làm ông mai dong.

Ít lâu sau, hắn được trả lời là chờ cho cô Hiển Nhơn học xong trung học sẽ tính. Nghĩa là chờ hơn một năm nữa. Tay quận trưởng bình luận rằng con gái Huế lấy chồng khi còn đi học, người ta sẽ dị nghị rằng, chắc có chuyện gì không hay xảy ra cho cô ta mới lo giải quyết sớm, hơn nữa nhà gái cần phải biết rõ bên nhà trai mới trả lời. Như vậy, trong lúc chờ nhà gái tìm hiểu về gia đình hắn, bà cụ coi bộ giảm bớt tình trạng "giới nghiêm", thỉnh thoảng lại đi đâu đấy cho hai đứa được tự do trò chuyện.


Tết năm đó đối phương tuyên bố ngưng chiến, nhưng trò Mậu Thân đó không hy vọng tái diễn. Lịnh cấm trại được ban ra. Tại quận, quân, cán, chính đã sẵn sàng. Đêm cuối năm, hắn ở lại quận để sáng hôm sau chào cờ đầu năm như thông lệ, sau đó sẽ đi đến các xã, ấp thăm, chúc Tết đồng bào.
Buổi tối, mưa gió miền Trung lạnh buốt, nhưng nằm trong chăn ấm lại là một cái thú và dễ đi vào giấc ngủ. Hắn ngủ trong phòng, ngay sau văn phòng phó quận của hắn.

Vào khoảng một giờ sáng, đang ngủ say, hắn giật mình tỉnh dậy khi cảm thấy như có người nào đó kéo chân. Chung quanh tối mò, bỗng hắn nghe văng vẳng, như từ rất xa, vọng lại "Dậy mau, chúng vào giết chết!". Hắn nín thở, ngồi im, cố tìm xem tiếng nói phát ra từ hướng nào?

Nhưng rồi không nghe gì nữa. Hắn nằm xuống, đắp mền, ngủ tiếp. Một lúc sau, hắn lại bị kéo chân và hắn nghe, lần nầy, giọng nói như hối hả, lo lắng "Dậy mau, dậy mau! Chúng vào giết chết!".

Tiếng nói như ngay trong phòng, nhưng hắn không xác định được hướng nào? Hắn mở đèn pin, rọi khắp nơi, kể cả dưới gậm giường. Căn phòng nhỏ, đã được gài chốt cửa. Như vậy ai đó chỉ có thể đứng ngoài cửa nói vọng vào. Hắn mở cửa, quét một vòng ánh đèn pin ra ngoài sân. Tiếng một nghĩa quân, gác trước phòng quận trưởng, hỏi.
- Ông phó chưa ngủ hả?
- Chưa. Nãy giờ có ai chuyện trò gì ngoài nầy không?
- Không, ông phó. Khuya quá rồi, ai cũng ngủ cả.
- Anh kéo kẽm gai để tôi xuống phòng thiếu tá được không?
- Dạ được. Để em.

Có tiếng của tay quận trưởng hỏi vọng ra.
- Ông phó chưa ngủ sao?
- Ngủ được một giấc rồi, nhưng có chuyện cần gặp thiếu tá.
Hắn vào phòng quận trưởng, kể lại giấc mộng và nói.
- Tôi không rõ chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng biết chắc, tiếng kêu đó là có thật. Tôi nghe đến hai lần, giọng một cô gái, lại còn bị kéo chân, khiến tôi thức giấc.
- Bây giờ ông phó và tôi xuống hầm truyền tin. Có thể địch đánh quận, có thể không, nhưng tôi sẽ cho báo động, coi như thực tập.
Trong lúc quận trưởng lên máy truyền tin liên lạc các nơi thì các sỹ quan trong bộ chỉ huy chi khu đã có mặt. Hắn nghe loáng thoáng những lời quận trưởng ban lệnh.

- Cho thay lịch lên phiên gác đêm nay, đưa bốn cậu lính đang gác tuyến phòng thủ qua bên an ninh quân đội, hỏi xem có gì đáng nghi không. Gài thêm lựu đạn vào kẽm gai trong sân quận chi khu. Tăng cường cho tuyến phòng thủ bên cảnh sát. Cho tất cả em út vào tuyến. Khi bị tràn ngập thì rút vô hầm để tránh pháo chụp lên đầu, dùng lựu đạn để khỏi lộ mục tiêu.
Đại úy chi khu phó lưu ý tuyến phía sau chi khu, chúng sẽ vào ngã đó. Các vị về vị trí theo như kế hoạch đã định. Đây chỉ là thực tập báo động, nhưng nếu chúng đánh quận thật thì coi như chúng ta đã sẵn sàng. Nhắc nhở em út bình tỉnh. Các đơn vị bạn, pháo binh, không yểm...đã sẵn sàng. Yếu tố bất ngờ là ở phía ta chứ không phải từ phía địch. Có ai thắc mắc gì không? Nếu không thì quí vị về vị trí.

Khi mọi người đã rời hầm truyền tin, không khí yên lặng lại bao trùm trong đêm mưa rả rích. Hầm truyền tin chỉ có ba người. Ngọn đèn nhỏ thắp bằng pin lung lay trên nóc hầm. Hắn ngồi nhìn tay quận trưởng lên máy gọi các đơn vị bạn, các tiền đồn. Tiếng đối đáp trên máy lao xao, hắn phải đoán mới hiểu lờ mờ như nghe tiếng lóng.

Nào là cột điện, số nhà, gà gáy, thẩm quyền rồi Thanh Thúy, Thúy Nga...Gọi máy một lúc tay quận trưởng quay về phía hắn, cười.

- Ông phó có thùng lựu đạn đằng kia và một khẩu súng. Hễ ông nghe tiếng nổ toát toát của súng AK rất gần thì coi như chúng đã vào trong sân quận chi khu rồi. Lúc đó ông ném lựu đạn ra ngoài kia, thỉnh thoảng ném một quả. Nhớ rút chốt kẻo chúng cười.

Hắn đội nón sắt lên đầu, cầm khẩu súng ra cửa hầm truyền tin, ngồi xuống bên thùng lựu đạn sau dãy bao cát. Đang tìm chỗ dựa thì bỗng nhiên người hắn bị nẩy tung lên vì hàng mấy chục quả đạn pháo như cùng nổ một lượt.

Địch pháo kích khắp nơi. Trên mái nhà, trong sân, trên nóc hầm. Tiếng nổ chát chúa, mãnh đạn, ngói vỡ rơi rào rào, đất cát văng cả vào chỗ hắn núp. Mùi thuốc súng khét nghẹt. Tiếng đạn pháo chen lẫn với tiếng súng nhỏ, rồi tiếng hô xung phong, tiếng hò hét rộ lên, mỗi lúc như gần hơn. Hắn ôm đầu nép sát vào mấy bao cát, người run lập cập như lên cơn sốt rét, nhưng mấy phút sau, hắn lấy lại bình tĩnh, tựa súng lên bao cát chờ đợi.

Hỏa châu bỗng vụt sáng lên, tiếng đạn pháo đã giảm nhưng tiếng súng nhỏ lại nổ rộn lên như ngày Tết người ta đốt pháo cúng Giao Thừa. Hắn nhìn ra ngoài, ánh hỏa châu lung linh, chiếu rõ mặt đất vắng hoe.

Mọi người như chui cả xuống đất. Tiếng hò hét, tiếng hô xung phong vẫn tiếp tục vang vọng từ ngoài hàng rào phòng thủ. Rồi bỗng nhiên đạn pháo lại nổ, tiếng nổ như ngay trên đầu, chát chúa, khủng khiếp hơn trước. Mãnh đạn văng lảng cảng, rào rào như ném đá. Đúng là địa ngục trần gian. Hắn nép sát người vào dãy bao cát, mò mẩm một trái lựa đạn, rút chốt, ném ra ngoài sân, lắng nghe nhưng có lẽ tiếng nổ quá nhỏ, lẫn vào tiếng đạn pháo nên hắn chỉ thấy ánh chớp mà thôi.

Hắn quay nhìn, thấy tay quận trưởng chộp ống liên hợp nầy la hét, xong chôp ống khác la hét tiếp như cố nói lớn tiếng hơn tiếng súng đạn. Người lính truyền tin cũng bận rộn đối đáp trên máy. Hắn quay lại với thùng lựu đạn, lại rút chốt và ném ra ngoài. Thình lình hắn cảm tưởng như mình bay bỗng lên rồi không biết gì nữa.

Hắn tỉnh dậy thì thấy mình nằm trên giường. Nhìn quanh, thấy hai dãy giường với người nằm, đa số bị băng bó trắng hếu, hắn biết mình đang ở trong quân y viện. Hắn không bị băng bó gì nhưng cánh tay có chuyền nước biển. Hắn cục cựa chân tay và lắng nghe thân thể có chỗ nào đau không? Nhưng hắn chỉ thấy hơi mệt mỏi, choáng váng một chút thôi.

Từ ngoài cửa, tay quận trưởng đi vào, miệng vẫn cười hề hề.

- Tỉnh rồi hả? Thấy trong người ra sao? Có thấy đau chỗ nào không?
- Quận mình có sao không thiếu tá? Có ai bị gì không?
- Hễ đánh nhau, không sứt tay thì gãy gọng. Cũng may mình biết trước, cho rút hết xuống hầm nằm chờ, chúng vào là gọi pháo binh chụp xuống. Rồi phi cơ nhào đến dội bom...Hiện mình đang hành quân truy kích.
- Tôi bị gì mà đưa vào đây?
- Một quả đạn pháo nổ phía ngoài bao cát chỗ ông ngồi. Hơi ép đẩy ông và mấy bao cát văng vô trong hầm. Ông bất tỉnh, trực thăng đưa vô đây, bác sĩ nói chả sao cả, một lát nữa sẽ tỉnh dậy. Tôi vừa đi một vòng thăm em út bị thương. Tôi báo cho ông một tin mà ông không khoái thì thôi.

- Tin gì mà có vẻ long trọng vậy?
- Người đẹp vô thăm. Thấy ông nằm im lìm, người đẹp cầm tay ông khóc quá trời. Bác sĩ bảo đảm là ông chỉ bị sức ép bất tỉnh, không sao đâu, nàng mới yên tâm ra về. Có lẽ nàng sẽ vào thăm lần nữa. Bây giờ tôi phải ra quận ngay.
- Tôi nhờ thiếu tá một việc.
- Việc gì?
- Nhờ ông nói với bà cụ và Hiển Nhơn, xin cho ba mẹ tôi được ra thăm và xin làm lễ hỏi. Ông cố giúp, được không?
- Để tôi nói cho. Người đẹp mà chịu thì bà già phải nghe theo. Ông yên tâm.


Đến đây thì có thể kết thúc một chuyện tình có hậu. Nhưng khi hắn cưới nàng, rước về căn nhà nhỏ mướn trong thành nội chứ nhất định không ở bên nhà vợ, dù một đêm, là ngôi nhà có cái cổng đồ sộ và có ngôi mộ của cô Khánh Trang phía sau vườn. Hắn ngán hồn ma cô Khánh Trang. Đến nhà mẹ vợ, ăn uống, chuyện trò gì đó, thấy trời chiều là hắn rút lui. Vợ hắn cười vào mũi hắn.

- Thanh niên gì, mặt mũi sáng sủa, cao ráo mà sợ ma!
- Mặc kệ tui! Chê bai gì cũng được miễn đừng ở lại nhà đó buổi tối hoặc ra sau mộ Khánh Trang là được.
- Anh tin có ma thật à?
- Sao không?
- Nếu em bảo, chính em giả làm chị Khánh Trang nhác ma người ta thì anh có tin không?
- Anh nhớ rõ ràng bữa đó Khánh Trang tóc dài, còn em thì tóc ngắn. Làm sao giả được?
- Sáng hôm sau em cắt tóc ngắn liền.
- Nhưng mạ nói, tối đó em đi ngủ sớm?
- Em làm bộ đi ngủ sớm rồi trốn đi chơi với con bạn. Nó đem xe gắn máy lên đón em.
- Sao nó không chở em về mà để em đón xe anh?
- Nó vừa đẩy xe ra cửa là em thấy xe anh từ rạp Hưng Đạo chạy đến, em vơ vội cái nón rồi chạy ra đón xe anh.
- Anh vẫn không hiểu sao em bạo dạn quá vậy?

- Em nói anh không được cười. Thấy anh đi ngoài phố, mặt ngơ ngáo...dễ thương. Em để ý... Con gái là rứa đó. Mấy đứa kia thương ai thì để bụng chứ em thương anh thì em phải cho anh biết.
- Em không sợ anh sao?
- Em mà sợ ai? Em là đệ tử thầy Suzuki ở võ đường Võ Tánh. Đai đen Karaté, đai nâu Judo. Em chọc ghẹo người ta được chứ ai dám chọc ghẹo em. Đứa nào cũng ngán em. Mà tính em ngang ngược lắm. Không có anh, chắc em ế chồng.
- Nhưng sao em không nói thực mình là Hiển Nhơn, lại giả hồn ma chị Khánh Trang?
-Nhác ma anh cho vui. Hơn nữa nếu anh biết thực là em, anh coi thường em thì sao?
- Chuyện bay từ cây nầy sang cây kia cũng là em?
- Em lấy cái áo đi mưa vào cột vào cây sào hái nhãn, cầm sào chạy một vòng quanh hàng rào. Em chỉ làm một lần thôi, người ta thêm thắt vô thành rùng rợn. Bây giờ hết tin ma quỉ chưa? Anh phải thăm mộ chị Khánh Trang kẻo mạ giận.

- Anh vẫn tin là có linh hồn. Người chết chưa phải là hết. Hôm Tết, nhờ người khuất mặt báo tin Việt Cộng đánh quận, nếu không anh tiêu bữa đó rồi.
- Người khuất mặt nào báo tin? Sao không nghe cậu Bá em kể?
- Thực tâm, anh và cậu Bá tin chuyện đó, nhưng không kể ra, sợ người ta cười mình mê tín. Nó như thế nầy. Khuya đêm ba mươi Tết, anh ngủ ngoài quận, khoảng một giờ, anh đang ngủ thì có ai kéo chân anh hai ba lần còn gọi "Dậy mau, chúng vào giết chết!"

Vợ hắn tái mặt, đến bên hắn, nép vào chồng như sợ hãi điều gì.
- Để em kể chuyện nầy anh nghe. Tết vừa rồi, sau khi mạ và em cúng Giao Thừa xong, em vào phòng nằm ngủ. Trong giấc ngủ, em mơ thấy chị khánh Trang đi vào, kéo tay em đi đến một nơi rất lạ, tối thui, nhưng em lại thấy có nhà cửa, chung quanh là hàng rào.
Ngoài hàng rào, em thấy rất nhiều người, mặt mũi dữ tợn, đang bò vào. Họ ôm súng có gắn lưỡi lê. Chị Khánh Trang kéo em vào một căn phòng nhỏ, thấy anh nằm ngủ trên giường. Hai chị em cố lôi chân anh và la to "Dậy mau, chúng vào giết chết!" Vậy mà anh ngồi dậy rồi lại nằm xuống ngủ tiếp. Hai chị em kêu mãi...

Em không nhớ sau đó thì sao, nhưng khi tỉnh dậy em còn khóc vì sợ cho anh. Từ đó đến sáng, em không ngủ được. Mới sáng sớm thì có người nhà cậu Bá đến báo Việt Cộng đánh quận, cậu và anh được đưa vô quân y viện Nguyễn Tri Phương, em chạy vô, thấy anh nằm im, em tưởng anh chết rồi, em khóc quá, sau bác sĩ bảo anh không sao cả, em mới yên tâm.

Hắn hôn vợ:
- Bây giờ mình lên nhà mạ, anh sẽ ra mộ chị Khánh Trang, thắp nhang cám ơn chị đã cứu anh, đúng hơn cứu cả quận Phong Điền.


Phạm Thành Châu

HXhuongkhuya
10-07-2015, 10:40 AM
Chị Thuỵ Khanh mến, Chuyện ma này hơi dài hình như là tác giả có thêm ( lồng vào ) vào chuyện tình dễ thương .Ngày bé nghe cậu của HX kể chuyện này vừa thích vừa sợ chị ạ .

Chuyện ma này được diễn đọc thành audio chắc hấp dẫn . Không biết Chiều còn nhã hứng làm thêm một audio chuyện ma khác nữa không ? :z45: ( icon này Chiều hay dùng , chị coi lém lỉnh không ?)

Chiếc Xe Trâu Của Phùng Quán thì HX cũng đọc qua rồi , nhưng không nhớ đọc ở đâu .
Cám ơn chị sưu tầm , HX vào ĐT dạo đọc trong giờ ăn trưa vừa vặn hết giờ . :z57:

thuykhanh
10-07-2015, 06:05 PM
Chị Thuỵ Khanh mến, Chuyện ma này hơi dài hình như là tác giả có thêm ( lồng vào ) vào chuyện tình dễ thương .Ngày bé nghe cậu của HX kể chuyện này vừa thích vừa sợ chị ạ .

Chuyện ma này được diễn đọc thành audio chắc hấp dẫn . Không biết Chiều còn nhã hứng làm thêm một audio chuyện ma khác nữa không ? :z45: ( icon này Chiều hay dùng , chị coi lém lỉnh không ?)

Chiếc Xe Trâu Của Phùng Quán thì HX cũng đọc qua rồi , nhưng không nhớ đọc ở đâu .
Cám ơn chị sưu tầm , HX vào ĐT dạo đọc trong giờ ăn trưa vừa vặn hết giờ . :z57:

Cảm ơn HX ghé đọc và để lại cảm nhận, thêm hỏi thăm sức khỏe tk bên nhà Nguyệt Hạ nữa.:z57:




Sau khi vô thuốc, tác dụng phụ của chúng hành mình cũng vài ngày. HX an tâm, khi nào mệt là k nghỉ, như hôm nay vậy.

Trở về truyện HMTĐTK ở trên, HX nói đúng, dài thật đó. Chữ viết chi chít, sợ độc giả mệt mắt, tk phải tăng cỡ chữ và cách đoạn nên làm xong là mệt phờ.

tk biết Phong Điền vì quận này nằm trên đường từ Quảng Trị vào Huế nhưng gần Huế hơn.
Lần nào có dịp theo cha vào cố đô, tk cũng thấy ông lính gác cầu Phong Điền và ông già trao đổi chào, dù cha tk không xuống xe.

tk thấy chuyện ma này hiền và có hậu.

Như vậy trưa nay HX không ăn gì hở, tội k to quá!




http://i.imgur.com/3iVP2fO.png?1

thuykhanh
06-14-2016, 07:01 AM
NGƯỜI ĐÀN ÔNG SỐ VẤT VẢ



Nguyễn Thị Thanh Dương


Năm tôi lên 9 anh Cu 12 tuổi, anh đang học lớp 6, tôi cùng lớp cùng tuổi với con Hảo em út anh
nhưng tôi chơi với cả ba anh em nhà anh vì chúng tôi ở cùng xóm, hai nhà chỉ cách nhau vài căn..

Từ trong gia đình đến hàng xóm toàn gọi anh là Cu, chẳng cần biết tên thật anh là gì.. Những bà
hàng xóm thường réo tên anh thoải mái:
– Cu, mẹ mày có nhà không?
– Thằng Cu, ra mà xem con em gái mày đang bị ngã ngoài ngõ kìa

Hảo đã giải nghĩa cho tôi Cu là tên loài chim Cu chứ không phải nghĩa “kia”, nhưng tôi vẫn lanh chanh
hỏi lại anh cho chắc:
– Anh Cu ơi, tên anh nghĩa là loài chim Cu hay là………..
Anh trợn mắt và tức giận búng vào tai tôi đau điếng không cho tôi nói hết câu::
– Con nhỏ nhiều chuyện, tên Cu chỉ là tên gọi ở ngoài, tao tuổi con khỉ tên là Thân mày nhớ chưa?
Tôi vừa nói vừa bỏ chạy vì sợ bị anh búng tai lần nữa:
– Em cứ gọi là anh Cu, dễ nhớ hơn.

Cha anh mất sau một cơn bạo bệnh cách đây hai năm, thế là gánh nặng gia đình một mình mẹ anh
lo toan, bác gái phải chạy chợ từ sáng sớm đến chiều buông mới về, bác bán hàng ở chợ Gò Vấp.
Ở nhà anh Cu bỗng trở thành người nội trợ chăm sóc hai em là thằng Toàn và con Hảo, sáng anh
đi học trưa về là đâm đầu vào bếp nấu cơm rồi giặt giũ quần áo, quét dọn nhà cửa và làm đủ thứ việc
trong nhà..
Tôi thường sang nhà anh chơi với Hảo và Toàn, có nhiều lúc tôi ngồi chồm hổm xem anh Cu thái quả bầu,
vo gạo, xem anh rán trứng, …cho tới lúc ba anh em ngồi vào mâm cơm tôi cũng chưa chịu về để anh Cu
phải mời:
– Mày có muốn ăn cơm không?
Tôi mừng rỡ:
– Cho em ăn với…
Thằng Toàn thì lườm tôi:
– Sao mày không về nhà mày ăn cơm ngon hơn, ở đây cơm nhà nghèo…
Tôi ăn cơm với trứng rán lộn xộn mà thấy ngon lành nên đáp thật thà :– Anh Cu nấu ăn ngon hơn.
Anh Cu giải thích:
– Trứng rán với một tí mỡ đảo lộn xộn lên làm gì mà ngon cho được, tại mày ăn cơm nhà lạ nên cảm
thấy ngon .
– Em nói thật mà, với lại em thích ăn cơm nhà anh vui hơn.. Ở nhà mẹ em cứ bắt ăn cơm với ruốc
cho lành, ăn thịt cá cho bổ, em ngán lắm.
Ngoài món trứng rán lộn xộn tôi ăn món canh bầu nấu với tôm khô cũng thấy ngon hơn nhà mình. Lạ thật,
chẳng lẽ anh Cu có tài nấu ăn đến thế.

Tôi ăn chực nhà anh Cu vài lần thành quen, thành ghiền, có lần tôi lẽo đẽo theo anh ra sàn nhà sau nhìn
anh rửa bát và …năn nỉ:
– Mai mốt em lớn anh Cu lấy em nhá, nấu cơm với canh bầu trứng rán lộn xộn cho em ăn nhá…
Anh Cu bỗng đỏ mặt mắc cở, anh lấy tay hất nước trong chậu rửa bát vào người tôi và đuổi tôi::
– Con nít con nôi ăn nói tầm bậy…về nhà mày đi.

Một buổi chiều thứ bảy tôi sang nhà anh Cu chơi như thường lệ, vừa vào trong nhà thì cũng là lúc có
hai chị nữ sinh mặc áo dài trắng dắt xe đap dừng lại trước cửa nhà anh, tôi đoán là bạn học cùng lớp
với anh, không thấy anh ở nhà trên tôi biết anh Cu đang ở dưới bếp nấu cơm nên gọi ầm ĩ lên:
– Anh Cu ơi, anh Cu ơi…có bạn anh đến..
Gọi to thế mà chưa thấy anh lên, từ dưới bếp nhìn lên nhà trên anh Cu có thể thấy thấp thoáng hình dáng
hai cô bạn anh rồi mà, tôi liền chạy xuống bếp thì thấy anh đang vội vàng bắc nồi canh bầu ra khỏi bếp,
xong anh quay ra….kéo tai tôi thật đau và mặt anh đỏ bừng lên vì tức giận:
– Sao mày gọi tên Cu thế hả ? này…này…lần sau chừa không được gọi Cu nếu có bạn tao đến chơi.
Anh lau tay, sửa lại quần áo cho ra vẻ dù chẳng chỉnh tề thêm là bao và đi lên nhà, tôi đi theo thấy
hai chị nữ sinh nhìn anh cười cười và thay nhau trêu đùa:
– Hình như ở nhà bạn có tên…gì lạ lắm nhỉ?
– Ừ, tên …. nghe kêu lắm…
Anh Cu lại đỏ bừng mặt và liếc nhìn tôi với vẻ…căm hờn. Tôi cảm thấy mình có lỗi bèn tìm cách chuộc tội,
tôi khoe:
– Hai chị ơi, anh C…
Suýt nữa thì tôi lại nói anh Cu, may mà tôi dừng kịp và vội vàng sửa lại:
– Anh Thân đang nấu cơm dưới bếp, anh ấy nấu cơm rất giỏi, ngày nào anh cũng cho nhà ăn món canh bầu
và trứng rán lộn xộn ngon lắm…
Tưởng rằng lời khen của tôi sẽ làm anh vừa lòng hãnh diện không ngờ anh lại ném cho tôi cái nhìn tóe lửa
làm tôi ngạc nhiên và e ngại không dám ở lại nhà anh mà lủi thủi đi về..

Hôm sau tôi sang chơi nhà anh Cu, anh vẫn không tha cho tôi, anh vẫn còn giận lắm:
– Tại sao mày lại kể với hai bạn là tao nấu cơm hả?
Tôi cãi ngay:
– Thì ngày nào anh chẳng nấu cơm, em nói có gì sai đâu..
– Nhưng đấy không phải là công việc của con trai. Còn nữa, sao mày lại khai ra nhà tao toàn ăn cơm với
trứng và canh bầu hả?
Tôi lại cãi:
– Em thấy anh hay nấu món ấy, mà hai món đều ngon. Anh sợ gì? Thế lần sau em sẽ kể thêm món rau
muống luộc và đậu hũ kho hả anh?
– Trời ơi, sao mày ngu thế. Không kể gì hết, hiểu chưa?
Thấy anh càng giận thêm tôi sợ hãi líu ríu:
– Vâng, em…. hiểu rồi.
Mà thật ra tôi không hiểu gì cả. Anh giỏi giang, anh nấu ăn ngon mà sao lại cấm tôi không được khoe
cho người khác biết.?

Chúng tôi vẫn ở chung xóm và lớn lên, tôi vẫn gọi anh bằng tên Cu như bấy lâu nay trong nhà và
hàng xóm vẫn gọi, chẳng ai thắc mắc hay ngại ngùng gì cả. Tên Cu cũng bình thường như bao cái tên khác.
Càng lớn tôi càng thấy tên Cu của anh…kỳ kỳ và đã hiểu ra cha mẹ anh gọi âu yếm thế vì anh là con trai,
cũng như con gái thì người ta hay gọi là cái Gái, cái Tẹt gì đó để phân biệt giới tính, chứ không phải đặt
tên anh cho giống loài chim Cu như Hảo đã nói cho đỡ “quê “ anh của nó.
Anh Cu đã là một thanh niên, anh vẫn ngoan hiền đảm đang thay mẹ lo cơm nước chăm sóc hai em và
làm bao nhiêu công việc nhà.

Năm tôi 14 tuổi tôi biết mắc cỡ không ngồi lì nhà anh để đợi anh Cu mời ăn cơm nữa, mà anh có mời tôi
cũng chẳng dám ăn. Món trứng rán lộn xộn và canh bầu anh nấu vẫn là món ngon trong đời tôi.
Tôi cũng hiểu ra nhiều điều, vì quả bầu và trứng là món rẻ tiền nên nhà anh ăn thường xuyên chứ không
phải là món họ yêu thích.
Nhà anh dọn đi nơi khác, đến gần chợ Gò Vấp để mẹ anh thuận tiện việc đi lại buôn bán
Chia tay ba anh em mà tôi chỉ nhớ một người, chỉ nhớ anh Cu .
Từ nhà tôi đến chợ Gò Vấp không xa, chỉ chừng hai cây số nhưng tôi không thể ngày nào cũng sang nhà
anh Cu chơi được nữa.
Hôm anh về thăm xóm cũ, vừa trông thấy anh tôi mừng rỡ chạy ra và kêu lên không kềm hãm được::
– Anh Cu…anh Cu…
Lạ quá, anh không tức giận khi tôi gọi anh bằng cái tên này dù anh đã là một thanh niên cao ráo đẹp trai.
Anh 18 tuổi rồi.
– Em và bố mẹ em có khỏe không?
Dĩ nhiên bây giờ anh không xưng hô với tôi “mày, tao” nữa. Tôi cũng biết điều tự ý sửa lại:
– Cả nhà em vẫn bình thường, hôm nọ Hảo nói với em là anh Thân đã thi đậu vào đại học sư phạm phải không?
– Ừ, anh sẽ học sư phạm
– Anh giỏi qúa, giỏi việc nhà lại học giỏi nữa.
Anh không e ngại như xưa mà còn đùa:
– Số anh…vất vả mà, bây giờ anh cũng vẫn vừa đi học vừa nấu cơm và chăm sóc hai đứa em chứ đã xong đâu.
Này, anh vẫn còn làm món trứng rán lộn xộn và canh bầu, em dám…ăn không?
Tôi vẫn nhớ lời tôi đã năn nỉ và mong ước mai này lớn lên anh Cu sẽ cưới tôi vì tôi thích ăn hai món này
của anh. Anh còn nhớ không hay anh chỉ vô tình nhắc lại?
Hình ảnh anh Cu ngày xưa và bây giờ luôn ở trong trái tim tôi, một thứ tình cảm nhẹ nhàng, trong veo,
là tình trẻ thơ hàng xóm lâu năm, tình bạn hay tình của tuổi mới lớn bâng quơ ?

Hai năm sau cả nhà tôi đi xuất cảnh sang Mỹ, tôi không có dịp tham dự ngày anh ra trường tốt nghiệp
đại học như có lần tôi đã hứa với anh, mà ngược lại anh là người đưa tiễn tôi ra phi trường cái điều mà anh
và tôi đều không hẹn trước..
Hôm ấy tôi buồn lắm chỉ nhìn anh mà không nói nên lời, mãi tôi mới nói được:
– Chúc anh ở lại bình an, anh sẽ ra trường và dạy học giỏi nhé..
Anh cũng buồn buồn:
– Sang Mỹ em có thèm ăn món trứng rán lộn xộn và canh bầu nấu tôm khô thì một ngày nào đó về đây
anh sẽ nấu mời em..

******************
Sau khi tôi sang Mỹ anh em Hảo và tôi thỉnh thoảng có liên lạc qua lại.
Rồi tôi và anh Cu đều đã có gia đình riêng, mỗi người bận rộn cuộc sống của mình,
Tôi và anh Cu hai phương trời cách biệt, hai cuộc đời, hai lối rẽ khác nhau.

Anh em Hảo và tôi không thân như thuở nhỏ nữa, những người bạn hàng xóm cũ của tôi đã nhạt phai dần
theo chồng chất của thời gian và cuộc sống..Tất cả chỉ còn trong kỷ niệm.
Bỗng một hôm tôi nhận được điện thoại từ anh Cu. Thì ra gia đình riêng của anh đã xuất cảnh sang Mỹ
nhiều năm nay.
Anh vừa tình cờ gặp một người hàng xóm cũ nào đó ở Mỹ và người này cho số điện thoại của vài hàng xóm
khác, trong đó có số điện thoại của tôi để anh Cu hỏi thăm hàng xóm láng giềng nơi xứ lạ quê người..
Khi tôi hỏi thăm gia đình anh thì anh Cu nói rất ít và chỉ nói chung chung. Anh hẹn khi có dịp sẽ nói nhiều hơn..

Tôi không là đứa trẻ con năm xưa xồng xộc chạy vào nhà anh và biết hết mọi ngõ ngách tâm tư của
cuộc sống từng người trong nhà anh nữa..
Và tôi cũng chỉ khoe với anh là các con tôi đã ăn học trưởng thành.
Thế là tôi và anh Cu cùng nhau nhắc lại những kỷ niệm xưa nơi xóm nhỏ khi chúng tôi còn nhỏ.
Ngày liên lạc được với tôi cũng là dịp con thứ hai của anh tốt nghiệp đại học, anh mời vợ chồng tôi tham dự,
anh nhắc lại ngày xưa tôi đã không thể tham dự anh ra trường thì ngày nay hãy dự ngày ra trường của con
anh và cũng là dịp bạn bè gặp lại..
Tôi đã vui vẻ nhận lời.
Nơi anh Cu ở cách nơi tôi không xa, chỉ gần một tiếng lái xe.
Tôi lái xe đến nhà anh, đây là lần đầu tiên chúng tôi tái ngộ kể từ ngày tôi đi xuất cảnh năm tôi 17 tuổi.
Vừa thấy anh, y như ngày xưa, hôm anh từ Gò Vấp lần đầu tiên trở về thăm xóm cũ tôi lại bật thốt lên mừng rỡ :
– Anh Cu……
Anh tuổi con khỉ tên Thân tôi biết thế mà sao vẫn cứ quen miệng gọi là anh Cu . Có lẽ cái tên anh Cu đã
thân mến in sâu vào tâm khảm tôi suốt cả thời trẻ thơ .
Anh chẳng phiền toái tôi chút nào vì tôi vẫn dùng cái tên mà ngày xưa tôi đã có lần làm anh mắc cở với bạn bè,
trái lại nét mặt anh cũng vui mừng rạng rỡ.

Anh ngạc nhiên thấy tôi đi một mình, bây giờ tôi mới kể anh nghe chồng tôi đã qua đời cách đây vài năm
vì một tai nạn xe cộ khủng khiếp đã làm tôi bàng hoàng đau đớn, vì lẽ đó nên tôi ít khi nhắc đến cái chết
của chồng.
Tôi ngạc nhiên hơn khi biết chuyện gia đình anh, người vợ đã lìa bỏ chồng con đi theo tiếng gọi tình yêu khác,
anh đã ở vậy nuôi hai đứa con ở tuổi dở dang như các em anh ngày nào.
Anh từng có kinh nghiệm chăm sóc hai em nên săn sóc hai con rất chu đáo kể cả công việc nấu nướng
cho con từng bữa ăn,. Căn bếp vắng lạnh không có bóng dáng người mẹ đã có người cha thay thế….

Suốt những năm qua anh không nghĩ đến chuyện tái hôn chỉ vì muốn gần gũi để thương yêu bù đắp cho
các con đã thiếu thốn tình mẹ, để các con không bị tổn thương thêm lần nữa. Mẹ đã bỏ rơi chúng, nếu cha
sau đó cũng tìm hạnh phúc mới lấy vợ khác chúng sẽ cảm thấy bơ vơ và tủi thân dường nào.

Tôi cảm phục anh đến nghẹn ngào:
– Anh là một người cha tốt, là một người đàn ông tốt, từ khi người đàn ông trẻ con 10 tuổi cho đến bây giờ..
Người đàn ông có tâm hồn bao la yêu thương và biết cả nấu cơm quét nhà giặt giũ, biết chăm sóc người thân
của mình .….
Anh lại vui đùa :
– Ngày xưa anh đã nói với em anh là người đàn ông có số vất vả mà.

Tôi và anh cùng lẻ loi cô độc, có phải ông trời cố tình xô đẩy cho chúng tôi gặp lại nhau không?
Sau lần hội ngộ ấy anh và tôi dần dần thân nhau lại như xưa, anh thường lái xe từ thành phố anh
đến thành phố tôi..
Hảo từ Vệt Nam được tin tôi và anh Cu đã gặp lại nhau nó mừng vui lắm luôn gọi phone nói chuyện
để khuyến khích chúng tôi đến với nhau vì các con của tôi và con anh đều đã trưởng thành . Hảo nói với tôi::
– Ngày nhỏ bạn thích anh Cu lắm mà, khi lớn bạn cũng thích anh ấy nhưng đã vội ra đi, tuy bạn không nói ra
nhưng chơi với bạn, gần gũi bạn, tôi đã hiểu thế.. Bạn có biết là anh Cu đã mơ ước sau khi tốt nghiệp đại học
sư phạm anh sẽ hỏi cưới bạn làm vợ không? Ngày bạn đi anh Cu buồn và hụt hẫng như một người vừa đánh
mất tương lai.
Tôi cũng buồn và cảm thấy hụt hẫng như thế. Tôi và anh cùng tâm trạng mà cùng non trẻ vụng về chưa ai kịp
nói lời yêu…..
Không cần cô em út nói giùm..Anh đã đến thăm tôi với một bó hoa hồng đỏ thắm để cầu hôn tôi:
– Anh xin cưới em nhé. Em còn yêu anh không?
Tôi vờ ngây thơ vì chẳng còn ngây thơ như xưa nữa :
– Sao anh lại hỏi thế? Em yêu anh hồi nào mà còn hay hết ?…
– Anh còn nhớ có con bé năm lên 9 tuổi đã lẽo đẽo theo anh ra sàn rửa bát sau nhà năn nỉ anh mai mốt
lấy em,
nấu canh bầu, trứng rán lộn xộn cho em ăn. Ngoài hai món “đặc sản” nhà nghèo ấy từ ngày chăm sóc
hai con anh còn biết nấu những món ăn Âu Mỹ nữa ……
– Em chỉ thích ăn món “nhà nghèo” của anh thôi, trứng và canh bầu nấu tôm khô thôi.. Thế thì số anh
vẫn…khổ, vẫn vất vả. Ngày xưa nấu nướng hầu hạ cho các em của anh, rồi cho các con anh, nếu cưới em
anh lại…phải nấu nướng cho em, cho cô vợ cuối mùa này nữa.
Anh vui vẻ:
– Chăm sóc cho những người mình yêu thương là anh vui rồi, anh tình nguyện làm người đàn ông số vất vả
suốt đời.
Tôi dịu dàng nắm bàn tay anh:
– Em thử lòng và đùa với anh thôi, lẽ nào để anh chiều em mãi thế, em có còn là con bé hàng xóm của anh
năm xưa đâu. Em sẽ thay đổi số mệnh cho anh, không để anh phải vất vả nữa. Em sẽ nấu cho anh những
bữa cơm ngon để cám ơn anh ngày xưa từng mời em ăn cơm cũng như cám ơn anh đã thực hiện lời…năn nỉ
của em, hôm nay xin cưới em …
Anh kéo tôi sát vào người anh và ôm tôi, vòng tay đàn ông yêu thương che chở, vòng tay này đã từng của
hai em anh, của hai con anh và hôm nay thuộc về tôi:
– Cho anh xin lỗi ngày xưa đã mấy lần nổi giận búng tai và nhéo tai em nhé. Em biết không, khi ở tuổi lớn lên
anh đã từng mong được bên em để nói lời xin lỗi này..
Tôi nũng nịu trách:
– Anh nhắc lại chuyện cũ em bắt đền anh đấy. Làm sao bây giờ? chả lẽ em…nhéo lại tai anh ?
– Đừng em, anh sẽ đền em bằng những nụ hôn, tuy muộn nhưng vẫn là những nụ hôn đầu đời của tình yêu
đầu đời chúng ta nhưng vì duyên số nên đến gần cuối đời chúng ta mới đến với nhau.

Nguyễn Thị Thanh Dương.
( May 10, 2016)

kim
06-14-2016, 08:26 AM
Truyện “người đàn ông số vất vả” chị Khanh mang về dễ thương quá.
Cảm ơn chị thương nhiều nhiều.:z57: Em đang tìm chọn một số truyện ngắn như thế này.

thuykhanh
06-14-2016, 05:26 PM
Truyện “người đàn ông số vất vả” chị Khanh mang về dễ thương quá.
Cảm ơn chị thương nhiều nhiều.:z57: Em đang tìm chọn một số truyện ngắn như thế này.


Cảm ơn Kim:z57:

Chiều nay chị chụp được vị này ở sân sau, dễ thương không?
Nếu có truyện nữa, chị sẽ đăng vào đây và tùy em chọn nha.

Big hugs to you!




http://i.imgur.com/locDVzm.png




PS: Quành lại chào HX:z57::z57:

hoài vọng
06-15-2016, 01:06 AM
http://i.imgur.com/locDVzm.png




Cách đây 2 , 3 năm trên sân thượng cũng có một con ...mới đây tôi nhìn thấy 3 con dạo chơi , buổi trưa nghe tụi nó gọi nhau nghe cũng thích .

thuykhanh
06-15-2016, 12:27 PM
Cách đây 2 , 3 năm trên sân thượng cũng có một con ...mới đây tôi nhìn thấy 3 con dạo chơi , buổi trưa nghe tụi nó gọi nhau nghe cũng thích .

Con này mới chừng hơn tháng tuổi anh Hoài à. Chim mẹ ấp trứng ở phía ngoài cửa sổ nhà bà hàng xóm,
đối diện với phòng máy vi tính nên tôi biết. Còn một con nữa, cả hai chưa dạn bay nên còn quanh quẩn
nơi sân sau. Tên nó là chim Cu đất, phải không?


http://i.imgur.com/BtmZXk4.png​


Tôi không biết chúng kêu ra sao nhưng mấy con chim sẻ thì ríu rít suốt ngày.

chieubuon_09
06-15-2016, 05:37 PM
Chào chị Thuỵ Khanh, em đi theo text của Kim để đọc mẫu truyện ngắn NGƯỜI ĐÀN ÔNG SỐ VẤT VẢ, truyện dễ thương, cảm động, và kết thúc có hậu, đã làm cho Chiều chợt nhớ đến người đàn ông mà em mỏi mòn mong gặp lại hơn 10 năm chỉ để nói lời xin lỗi, và em đã gặp được như đã trút xuống một tãng đá nặng trĩu trên vai mình, phần kết cuộc không được như trong truyện nhưng em vẫn vui và hạnh phúc khi biết được anh ta vẫn mạnh khoẻ.

Cám ơn chị đã bỏ công tìm kiếm và chia sẻ cùng Phố :z57:

thuykhanh
06-15-2016, 07:03 PM
Chào chị Thuỵ Khanh, em đi theo text của Kim để đọc mẫu truyện ngắn NGƯỜI ĐÀN ÔNG SỐ VẤT VẢ, truyện dễ thương, cảm động, và kết thúc có hậu, đã làm cho Chiều chợt nhớ đến người đàn ông mà em mỏi mòn mong gặp lại hơn 10 năm chỉ để nói lời xin lỗi, và em đã gặp được như đã trút xuống một tãng đá nặng trĩu trên vai mình, phần kết cuộc không được như trong truyện nhưng em vẫn vui và hạnh phúc khi biết được anh ta vẫn mạnh khoẻ.

Cám ơn chị đã bỏ công tìm kiếm và chia sẻ cùng Phố :z57:



Chị chào em,

Gặp được bài viết hay hay, mang vào đây chia sẻ với các bạn cũng là niềm vui của chị.
Cùng chung cảm nghĩ với Chiều, chị thấy truyện ngắn Người Đàn Ông Số Vất Vả mang những đặc điểm
mà người đọc, nhất là phái nữ có thể tìm được phần nào của mình trong đấy, lại có hậu nữa nên thấy nó
dễ thương.

Cảm ơn em đã tâm sự và mừng em trút bỏ được gánh nặng. Thương Chiều quá, em là người có tâm hiền
và giàu tình cảm, chị biết hơn mười năm là một thời gian dài.
Đủ rồi, bây giờ là lúc lo cho mình, se sẻ ha!

kim
06-15-2016, 07:08 PM
Em cảm ơn chị Khanh. :8: Mấy loại chim cu, bồ câu, se sẻ nhìn hiền và dễ thương chị ha.

Chiều ơi, câu chuyện dễ thương, kết thúc có hậu nên đọc xong thấy vui vui trong lòng.
Những gì đã qua, nói ra được là nhẹ lòng nhiều.
Chiều sống nội tâm và có trước có sau nên mới cư xử như vậy sau cả chục năm ròng.:z57:

chieubuon_09
06-16-2016, 09:16 AM
Mang truyện sang trang




NGƯỜI ĐÀN ÔNG SỐ VẤT VẢ



Nguyễn Thị Thanh Dương


Năm tôi lên 9 anh Cu 12 tuổi, anh đang học lớp 6, tôi cùng lớp cùng tuổi với con Hảo em út anh
nhưng tôi chơi với cả ba anh em nhà anh vì chúng tôi ở cùng xóm, hai nhà chỉ cách nhau vài căn..

Từ trong gia đình đến hàng xóm toàn gọi anh là Cu, chẳng cần biết tên thật anh là gì.. Những bà
hàng xóm thường réo tên anh thoải mái:
– Cu, mẹ mày có nhà không?
– Thằng Cu, ra mà xem con em gái mày đang bị ngã ngoài ngõ kìa

Hảo đã giải nghĩa cho tôi Cu là tên loài chim Cu chứ không phải nghĩa “kia”, nhưng tôi vẫn lanh chanh
hỏi lại anh cho chắc:
– Anh Cu ơi, tên anh nghĩa là loài chim Cu hay là………..
Anh trợn mắt và tức giận búng vào tai tôi đau điếng không cho tôi nói hết câu::
– Con nhỏ nhiều chuyện, tên Cu chỉ là tên gọi ở ngoài, tao tuổi con khỉ tên là Thân mày nhớ chưa?
Tôi vừa nói vừa bỏ chạy vì sợ bị anh búng tai lần nữa:
– Em cứ gọi là anh Cu, dễ nhớ hơn.

Cha anh mất sau một cơn bạo bệnh cách đây hai năm, thế là gánh nặng gia đình một mình mẹ anh
lo toan, bác gái phải chạy chợ từ sáng sớm đến chiều buông mới về, bác bán hàng ở chợ Gò Vấp.
Ở nhà anh Cu bỗng trở thành người nội trợ chăm sóc hai em là thằng Toàn và con Hảo, sáng anh
đi học trưa về là đâm đầu vào bếp nấu cơm rồi giặt giũ quần áo, quét dọn nhà cửa và làm đủ thứ việc
trong nhà..
Tôi thường sang nhà anh chơi với Hảo và Toàn, có nhiều lúc tôi ngồi chồm hổm xem anh Cu thái quả bầu,
vo gạo, xem anh rán trứng, …cho tới lúc ba anh em ngồi vào mâm cơm tôi cũng chưa chịu về để anh Cu
phải mời:
– Mày có muốn ăn cơm không?
Tôi mừng rỡ:
– Cho em ăn với…
Thằng Toàn thì lườm tôi:
– Sao mày không về nhà mày ăn cơm ngon hơn, ở đây cơm nhà nghèo…
Tôi ăn cơm với trứng rán lộn xộn mà thấy ngon lành nên đáp thật thà :– Anh Cu nấu ăn ngon hơn.
Anh Cu giải thích:
– Trứng rán với một tí mỡ đảo lộn xộn lên làm gì mà ngon cho được, tại mày ăn cơm nhà lạ nên cảm
thấy ngon .
– Em nói thật mà, với lại em thích ăn cơm nhà anh vui hơn.. Ở nhà mẹ em cứ bắt ăn cơm với ruốc
cho lành, ăn thịt cá cho bổ, em ngán lắm.
Ngoài món trứng rán lộn xộn tôi ăn món canh bầu nấu với tôm khô cũng thấy ngon hơn nhà mình. Lạ thật,
chẳng lẽ anh Cu có tài nấu ăn đến thế.

Tôi ăn chực nhà anh Cu vài lần thành quen, thành ghiền, có lần tôi lẽo đẽo theo anh ra sàn nhà sau nhìn
anh rửa bát và …năn nỉ:
– Mai mốt em lớn anh Cu lấy em nhá, nấu cơm với canh bầu trứng rán lộn xộn cho em ăn nhá…
Anh Cu bỗng đỏ mặt mắc cở, anh lấy tay hất nước trong chậu rửa bát vào người tôi và đuổi tôi::
– Con nít con nôi ăn nói tầm bậy…về nhà mày đi.

Một buổi chiều thứ bảy tôi sang nhà anh Cu chơi như thường lệ, vừa vào trong nhà thì cũng là lúc có
hai chị nữ sinh mặc áo dài trắng dắt xe đap dừng lại trước cửa nhà anh, tôi đoán là bạn học cùng lớp
với anh, không thấy anh ở nhà trên tôi biết anh Cu đang ở dưới bếp nấu cơm nên gọi ầm ĩ lên:
– Anh Cu ơi, anh Cu ơi…có bạn anh đến..
Gọi to thế mà chưa thấy anh lên, từ dưới bếp nhìn lên nhà trên anh Cu có thể thấy thấp thoáng hình dáng
hai cô bạn anh rồi mà, tôi liền chạy xuống bếp thì thấy anh đang vội vàng bắc nồi canh bầu ra khỏi bếp,
xong anh quay ra….kéo tai tôi thật đau và mặt anh đỏ bừng lên vì tức giận:
– Sao mày gọi tên Cu thế hả ? này…này…lần sau chừa không được gọi Cu nếu có bạn tao đến chơi.
Anh lau tay, sửa lại quần áo cho ra vẻ dù chẳng chỉnh tề thêm là bao và đi lên nhà, tôi đi theo thấy
hai chị nữ sinh nhìn anh cười cười và thay nhau trêu đùa:
– Hình như ở nhà bạn có tên…gì lạ lắm nhỉ?
– Ừ, tên …. nghe kêu lắm…
Anh Cu lại đỏ bừng mặt và liếc nhìn tôi với vẻ…căm hờn. Tôi cảm thấy mình có lỗi bèn tìm cách chuộc tội,
tôi khoe:
– Hai chị ơi, anh C…
Suýt nữa thì tôi lại nói anh Cu, may mà tôi dừng kịp và vội vàng sửa lại:
– Anh Thân đang nấu cơm dưới bếp, anh ấy nấu cơm rất giỏi, ngày nào anh cũng cho nhà ăn món canh bầu
và trứng rán lộn xộn ngon lắm…
Tưởng rằng lời khen của tôi sẽ làm anh vừa lòng hãnh diện không ngờ anh lại ném cho tôi cái nhìn tóe lửa
làm tôi ngạc nhiên và e ngại không dám ở lại nhà anh mà lủi thủi đi về..

Hôm sau tôi sang chơi nhà anh Cu, anh vẫn không tha cho tôi, anh vẫn còn giận lắm:
– Tại sao mày lại kể với hai bạn là tao nấu cơm hả?
Tôi cãi ngay:
– Thì ngày nào anh chẳng nấu cơm, em nói có gì sai đâu..
– Nhưng đấy không phải là công việc của con trai. Còn nữa, sao mày lại khai ra nhà tao toàn ăn cơm với
trứng và canh bầu hả?
Tôi lại cãi:
– Em thấy anh hay nấu món ấy, mà hai món đều ngon. Anh sợ gì? Thế lần sau em sẽ kể thêm món rau
muống luộc và đậu hũ kho hả anh?
– Trời ơi, sao mày ngu thế. Không kể gì hết, hiểu chưa?
Thấy anh càng giận thêm tôi sợ hãi líu ríu:
– Vâng, em…. hiểu rồi.
Mà thật ra tôi không hiểu gì cả. Anh giỏi giang, anh nấu ăn ngon mà sao lại cấm tôi không được khoe
cho người khác biết.?

Chúng tôi vẫn ở chung xóm và lớn lên, tôi vẫn gọi anh bằng tên Cu như bấy lâu nay trong nhà và
hàng xóm vẫn gọi, chẳng ai thắc mắc hay ngại ngùng gì cả. Tên Cu cũng bình thường như bao cái tên khác.
Càng lớn tôi càng thấy tên Cu của anh…kỳ kỳ và đã hiểu ra cha mẹ anh gọi âu yếm thế vì anh là con trai,
cũng như con gái thì người ta hay gọi là cái Gái, cái Tẹt gì đó để phân biệt giới tính, chứ không phải đặt
tên anh cho giống loài chim Cu như Hảo đã nói cho đỡ “quê “ anh của nó.
Anh Cu đã là một thanh niên, anh vẫn ngoan hiền đảm đang thay mẹ lo cơm nước chăm sóc hai em và
làm bao nhiêu công việc nhà.

Năm tôi 14 tuổi tôi biết mắc cỡ không ngồi lì nhà anh để đợi anh Cu mời ăn cơm nữa, mà anh có mời tôi
cũng chẳng dám ăn. Món trứng rán lộn xộn và canh bầu anh nấu vẫn là món ngon trong đời tôi.
Tôi cũng hiểu ra nhiều điều, vì quả bầu và trứng là món rẻ tiền nên nhà anh ăn thường xuyên chứ không
phải là món họ yêu thích.
Nhà anh dọn đi nơi khác, đến gần chợ Gò Vấp để mẹ anh thuận tiện việc đi lại buôn bán
Chia tay ba anh em mà tôi chỉ nhớ một người, chỉ nhớ anh Cu .
Từ nhà tôi đến chợ Gò Vấp không xa, chỉ chừng hai cây số nhưng tôi không thể ngày nào cũng sang nhà
anh Cu chơi được nữa.
Hôm anh về thăm xóm cũ, vừa trông thấy anh tôi mừng rỡ chạy ra và kêu lên không kềm hãm được::
– Anh Cu…anh Cu…
Lạ quá, anh không tức giận khi tôi gọi anh bằng cái tên này dù anh đã là một thanh niên cao ráo đẹp trai.
Anh 18 tuổi rồi.
– Em và bố mẹ em có khỏe không?
Dĩ nhiên bây giờ anh không xưng hô với tôi “mày, tao” nữa. Tôi cũng biết điều tự ý sửa lại:
– Cả nhà em vẫn bình thường, hôm nọ Hảo nói với em là anh Thân đã thi đậu vào đại học sư phạm phải không?
– Ừ, anh sẽ học sư phạm
– Anh giỏi qúa, giỏi việc nhà lại học giỏi nữa.
Anh không e ngại như xưa mà còn đùa:
– Số anh…vất vả mà, bây giờ anh cũng vẫn vừa đi học vừa nấu cơm và chăm sóc hai đứa em chứ đã xong đâu.
Này, anh vẫn còn làm món trứng rán lộn xộn và canh bầu, em dám…ăn không?
Tôi vẫn nhớ lời tôi đã năn nỉ và mong ước mai này lớn lên anh Cu sẽ cưới tôi vì tôi thích ăn hai món này
của anh. Anh còn nhớ không hay anh chỉ vô tình nhắc lại?
Hình ảnh anh Cu ngày xưa và bây giờ luôn ở trong trái tim tôi, một thứ tình cảm nhẹ nhàng, trong veo,
là tình trẻ thơ hàng xóm lâu năm, tình bạn hay tình của tuổi mới lớn bâng quơ ?

Hai năm sau cả nhà tôi đi xuất cảnh sang Mỹ, tôi không có dịp tham dự ngày anh ra trường tốt nghiệp
đại học như có lần tôi đã hứa với anh, mà ngược lại anh là người đưa tiễn tôi ra phi trường cái điều mà anh
và tôi đều không hẹn trước..
Hôm ấy tôi buồn lắm chỉ nhìn anh mà không nói nên lời, mãi tôi mới nói được:
– Chúc anh ở lại bình an, anh sẽ ra trường và dạy học giỏi nhé..
Anh cũng buồn buồn:
– Sang Mỹ em có thèm ăn món trứng rán lộn xộn và canh bầu nấu tôm khô thì một ngày nào đó về đây
anh sẽ nấu mời em..

******************
Sau khi tôi sang Mỹ anh em Hảo và tôi thỉnh thoảng có liên lạc qua lại.
Rồi tôi và anh Cu đều đã có gia đình riêng, mỗi người bận rộn cuộc sống của mình,
Tôi và anh Cu hai phương trời cách biệt, hai cuộc đời, hai lối rẽ khác nhau.

Anh em Hảo và tôi không thân như thuở nhỏ nữa, những người bạn hàng xóm cũ của tôi đã nhạt phai dần
theo chồng chất của thời gian và cuộc sống..Tất cả chỉ còn trong kỷ niệm.
Bỗng một hôm tôi nhận được điện thoại từ anh Cu. Thì ra gia đình riêng của anh đã xuất cảnh sang Mỹ
nhiều năm nay.
Anh vừa tình cờ gặp một người hàng xóm cũ nào đó ở Mỹ và người này cho số điện thoại của vài hàng xóm
khác, trong đó có số điện thoại của tôi để anh Cu hỏi thăm hàng xóm láng giềng nơi xứ lạ quê người..
Khi tôi hỏi thăm gia đình anh thì anh Cu nói rất ít và chỉ nói chung chung. Anh hẹn khi có dịp sẽ nói nhiều hơn..

Tôi không là đứa trẻ con năm xưa xồng xộc chạy vào nhà anh và biết hết mọi ngõ ngách tâm tư của
cuộc sống từng người trong nhà anh nữa..
Và tôi cũng chỉ khoe với anh là các con tôi đã ăn học trưởng thành.
Thế là tôi và anh Cu cùng nhau nhắc lại những kỷ niệm xưa nơi xóm nhỏ khi chúng tôi còn nhỏ.
Ngày liên lạc được với tôi cũng là dịp con thứ hai của anh tốt nghiệp đại học, anh mời vợ chồng tôi tham dự,
anh nhắc lại ngày xưa tôi đã không thể tham dự anh ra trường thì ngày nay hãy dự ngày ra trường của con
anh và cũng là dịp bạn bè gặp lại..
Tôi đã vui vẻ nhận lời.
Nơi anh Cu ở cách nơi tôi không xa, chỉ gần một tiếng lái xe.
Tôi lái xe đến nhà anh, đây là lần đầu tiên chúng tôi tái ngộ kể từ ngày tôi đi xuất cảnh năm tôi 17 tuổi.
Vừa thấy anh, y như ngày xưa, hôm anh từ Gò Vấp lần đầu tiên trở về thăm xóm cũ tôi lại bật thốt lên mừng rỡ :
– Anh Cu……
Anh tuổi con khỉ tên Thân tôi biết thế mà sao vẫn cứ quen miệng gọi là anh Cu . Có lẽ cái tên anh Cu đã
thân mến in sâu vào tâm khảm tôi suốt cả thời trẻ thơ .
Anh chẳng phiền toái tôi chút nào vì tôi vẫn dùng cái tên mà ngày xưa tôi đã có lần làm anh mắc cở với bạn bè,
trái lại nét mặt anh cũng vui mừng rạng rỡ.

Anh ngạc nhiên thấy tôi đi một mình, bây giờ tôi mới kể anh nghe chồng tôi đã qua đời cách đây vài năm
vì một tai nạn xe cộ khủng khiếp đã làm tôi bàng hoàng đau đớn, vì lẽ đó nên tôi ít khi nhắc đến cái chết
của chồng.
Tôi ngạc nhiên hơn khi biết chuyện gia đình anh, người vợ đã lìa bỏ chồng con đi theo tiếng gọi tình yêu khác,
anh đã ở vậy nuôi hai đứa con ở tuổi dở dang như các em anh ngày nào.
Anh từng có kinh nghiệm chăm sóc hai em nên săn sóc hai con rất chu đáo kể cả công việc nấu nướng
cho con từng bữa ăn,. Căn bếp vắng lạnh không có bóng dáng người mẹ đã có người cha thay thế….

Suốt những năm qua anh không nghĩ đến chuyện tái hôn chỉ vì muốn gần gũi để thương yêu bù đắp cho
các con đã thiếu thốn tình mẹ, để các con không bị tổn thương thêm lần nữa. Mẹ đã bỏ rơi chúng, nếu cha
sau đó cũng tìm hạnh phúc mới lấy vợ khác chúng sẽ cảm thấy bơ vơ và tủi thân dường nào.

Tôi cảm phục anh đến nghẹn ngào:
– Anh là một người cha tốt, là một người đàn ông tốt, từ khi người đàn ông trẻ con 10 tuổi cho đến bây giờ..
Người đàn ông có tâm hồn bao la yêu thương và biết cả nấu cơm quét nhà giặt giũ, biết chăm sóc người thân
của mình .….
Anh lại vui đùa :
– Ngày xưa anh đã nói với em anh là người đàn ông có số vất vả mà.

Tôi và anh cùng lẻ loi cô độc, có phải ông trời cố tình xô đẩy cho chúng tôi gặp lại nhau không?
Sau lần hội ngộ ấy anh và tôi dần dần thân nhau lại như xưa, anh thường lái xe từ thành phố anh
đến thành phố tôi..
Hảo từ Vệt Nam được tin tôi và anh Cu đã gặp lại nhau nó mừng vui lắm luôn gọi phone nói chuyện
để khuyến khích chúng tôi đến với nhau vì các con của tôi và con anh đều đã trưởng thành . Hảo nói với tôi::
– Ngày nhỏ bạn thích anh Cu lắm mà, khi lớn bạn cũng thích anh ấy nhưng đã vội ra đi, tuy bạn không nói ra
nhưng chơi với bạn, gần gũi bạn, tôi đã hiểu thế.. Bạn có biết là anh Cu đã mơ ước sau khi tốt nghiệp đại học
sư phạm anh sẽ hỏi cưới bạn làm vợ không? Ngày bạn đi anh Cu buồn và hụt hẫng như một người vừa đánh
mất tương lai.
Tôi cũng buồn và cảm thấy hụt hẫng như thế. Tôi và anh cùng tâm trạng mà cùng non trẻ vụng về chưa ai kịp
nói lời yêu…..
Không cần cô em út nói giùm..Anh đã đến thăm tôi với một bó hoa hồng đỏ thắm để cầu hôn tôi:
– Anh xin cưới em nhé. Em còn yêu anh không?
Tôi vờ ngây thơ vì chẳng còn ngây thơ như xưa nữa :
– Sao anh lại hỏi thế? Em yêu anh hồi nào mà còn hay hết ?…
– Anh còn nhớ có con bé năm lên 9 tuổi đã lẽo đẽo theo anh ra sàn rửa bát sau nhà năn nỉ anh mai mốt
lấy em,
nấu canh bầu, trứng rán lộn xộn cho em ăn. Ngoài hai món “đặc sản” nhà nghèo ấy từ ngày chăm sóc
hai con anh còn biết nấu những món ăn Âu Mỹ nữa ……
– Em chỉ thích ăn món “nhà nghèo” của anh thôi, trứng và canh bầu nấu tôm khô thôi.. Thế thì số anh
vẫn…khổ, vẫn vất vả. Ngày xưa nấu nướng hầu hạ cho các em của anh, rồi cho các con anh, nếu cưới em
anh lại…phải nấu nướng cho em, cho cô vợ cuối mùa này nữa.
Anh vui vẻ:
– Chăm sóc cho những người mình yêu thương là anh vui rồi, anh tình nguyện làm người đàn ông số vất vả
suốt đời.
Tôi dịu dàng nắm bàn tay anh:
– Em thử lòng và đùa với anh thôi, lẽ nào để anh chiều em mãi thế, em có còn là con bé hàng xóm của anh
năm xưa đâu. Em sẽ thay đổi số mệnh cho anh, không để anh phải vất vả nữa. Em sẽ nấu cho anh những
bữa cơm ngon để cám ơn anh ngày xưa từng mời em ăn cơm cũng như cám ơn anh đã thực hiện lời…năn nỉ
của em, hôm nay xin cưới em …
Anh kéo tôi sát vào người anh và ôm tôi, vòng tay đàn ông yêu thương che chở, vòng tay này đã từng của
hai em anh, của hai con anh và hôm nay thuộc về tôi:
– Cho anh xin lỗi ngày xưa đã mấy lần nổi giận búng tai và nhéo tai em nhé. Em biết không, khi ở tuổi lớn lên
anh đã từng mong được bên em để nói lời xin lỗi này..
Tôi nũng nịu trách:
– Anh nhắc lại chuyện cũ em bắt đền anh đấy. Làm sao bây giờ? chả lẽ em…nhéo lại tai anh ?
– Đừng em, anh sẽ đền em bằng những nụ hôn, tuy muộn nhưng vẫn là những nụ hôn đầu đời của tình yêu
đầu đời chúng ta nhưng vì duyên số nên đến gần cuối đời chúng ta mới đến với nhau.

Nguyễn Thị Thanh Dương.
( May 10, 2016)

chieubuon_09
06-16-2016, 09:30 AM
Cảm ơn em đã tâm sự và mừng em trút bỏ được gánh nặng. Thương Chiều quá, em là người có tâm hiền
và giàu tình cảm, chị biết hơn mười năm là một thời gian dài.
Đủ rồi, bây giờ là lúc lo cho mình, se sẻ ha!

Em cảm ơn chị Khanh. :8: Mấy loại chim cu, bồ câu, se sẻ nhìn hiền và dễ thương chị ha.

Chiều ơi, câu chuyện dễ thương, kết thúc có hậu nên đọc xong thấy vui vui trong lòng.
Những gì đã qua, nói ra được là nhẹ lòng nhiều.
Chiều sống nội tâm và có trước có sau nên mới cư xử như vậy sau cả chục năm ròng.:z57:

Cám ơn chị Thuỵ Khanh & Kim, qua lời cảm thông của chị và Kim đã làm cho mắt của Chiều rưng rưng, dạ sau lúc từ giã ấy, em cảm thấy lòng thật nhẹ, nên sau này em cười nhiều, thích cười hết mình và nhìn về phía trước để ngắm những cành hoa xinh xinh đong đưa trong gió ....

Thoáng đọc Kim sẽ thâu âm, Chiều mua chiếc ghế VIP ngồi chờ :) :z57:

kim
06-16-2016, 10:48 AM
Cảm ơn Chiều nhiều
Cô bạn thân nhờ K một việc riêng. K muốn làm cẩn thận nên xin anh Năm giúp đỡ.
Không dám dán ở diễn đàn, vì ông chủ K kỹ lắm.:1:

Trừ khi ông chủ cho phép Osin làm.

Đậu
06-16-2016, 02:30 PM
NGƯỜI ĐÀN ÔNG SỐ VẤT VẢ
...

... Anh đã đến thăm tôi với một bó hoa hồng đỏ thắm để cầu hôn tôi:
– Anh xin cưới em nhé. Em còn yêu anh không?


Ông này gần có tuổi mà còn phải lấy vợ. Đúng là có số vất vả thì có chạy đằng Giời. :z13:

TL4
06-16-2016, 02:38 PM
Em lại chỉ sợ cưới xong thời gian sau truyện lại đổi tựa. Người đàn ông có số vất vưởng...xin lỗi chị Thuỵ Khanh TL4 nói bậy cho vui:z14:

kim
06-17-2016, 09:06 AM
Ông này gần có tuổi mà còn phải lấy vợ. Đúng là có số vất vả thì có chạy đằng Giời. :z13:


Có lần đọc được câu thơ:

Ai bảo yêu em là khổ ???
Cho anh xin một đời đau khổ để yêu em !!!

Lúc đó nhận ra một điều: Âm thanh não nề và da diết nhất không phải được phát ra từ tiếng đờn bầu,
mà là từ tiếng rên của đ.ờ.n - ô.n.g.

Ngoc Han
06-17-2016, 10:48 AM
Xin phép chị Thuỵ Khanh đăng lại bài Tình Già cuả Phan Khôi, tình già lúc nào cũng đẹp, :)
Tình Già
Tác giả: Phan Khôi (http://poem.tkaraoke.com/10025/Phan_Khoi/)
Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa.
Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ,
Hai cái đầu xanh kề nhau than thở:
- Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng,
Mà lấy nhau hẳn là không đặng,
Để đến nỗi, tình trước phụ sau,
Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau.
- Hay! mới bạc làm sao chớ?
Buông nhau làm sao cho nỡ!
Thương được chừng nào hay chừng nấy,
Chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!
Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng.
Mà tính việc thủy chung?
Hai mươi bốn năm sau. Tình cờ đất khách gặp nhau.
Đôi cái đầu đều bạc.
Nếu chẳng quen lung đố nhìn ra được.
Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi,
Con mắt còn có đuôi.

(Phong Hóa, 24 janvier 1933)

hoài vọng
06-17-2016, 06:19 PM
Xin phép chị Thuỵ Khanh đăng lại bài Tình Già cuả Phan Khôi, tình già lúc nào cũng đẹp, :)
Tình Già


Mà lấy nhau hẳn là không đặng,
Để đến nỗi, tình trước phụ sau,
Chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau.
- Hay! mới bạc làm sao chớ?


Con mắt còn có đuôi.

(Phong Hóa, 24 janvier 1933) Anh NGOCHAN sao người xưa và người nay giống nhau thế , không biết :z51:

Đậu
06-18-2016, 11:00 PM
Có lần đọc được câu thơ:

Ai bảo yêu em là khổ ???
Cho anh xin một đời đau khổ để yêu em !!!



Em xin nhận định đây là nhời tỏ tình đặng lòng phụ nữ nhất thế gian vì họ vốn giầu lòng thương xót. Chả nhỡ cấm đoán người khác yêu mình. Người sáng tạo đặng câu này chả sợ buồn suốt đời. Thế nào rồi cũng có chị rũ lòng ban phát tình yêu cho.
:z13:

thuykhanh
06-19-2016, 05:59 AM
Mến chào các anh chị, các bạn :z57::z57::z57::z57::z57:

Năm nay Ngày Từ Phụ cũng là ngày QLVNCH.
Nhớ ơn những người năm xưa đã gian khổ hy sinh bao nhiêu
năm để chiến đấu bảo vệ Tự do cho người dân miền Nam Việt Nam.

tk tạm dán bài hát này ở đây với lời cầu chúc an vui, hạnh phúc



Người Yêu Của Lính



https://app.box.com/shared/static/8uk58bmdnq5tz27bvoft.mp3

thuykhanh
08-01-2016, 07:22 PM
**





CHỊ HAI CUA ĐỒNG !

(Truyện ngắn)

Vùng quê nhỏ bé nằm bên bờ sông Tiền này được thiên nhiên ưu đãi về địa thế. Cây trái và đồng ruộng do phù sa bù đắp quanh năm thành một vùng trù phú! Nơi đây người ta không cần biết đến địa chỉ, vẫn có thể tìm được nhà nhau một cách dể dàng bằng phương thức hỏi thăm tên!

Vì thế khi hỏi nhà Hai Cua Đồng thì sẽ có ngay một cậu nhóc dẫn bạn đến tận nhà! Không phải chị Hai là người nổi tiếng hay giàu có gì, thậm chí chị khá nghèo so với những người khác và hình thức thì cũng không hơn ai!
Không nhiều người biết tên thật của chị, nên ngày từ nhỏ; khi chị chuyên đi bắt cua bán cho mấy bà bún riêu ở chợ,
cái tên Hai Cua Đồng có từ đó!

Theo lời bà Tư kể thì chị hai khi còn nhỏ là đứa trẻ nhìn xinh xắn như bao đứa con nít khác! Rồi nhà chị xảy ra hoả hoạn, ba chị mất mạng, chị cũng bị lửa táp phỏng nặng!!! Sau đó di chứng xảy ra khiến chị bị nhiều vết sẹo lớn và chân rút gân khiến dáng đi của chị không bình thường, ngay thẳng như người khác!

Năm chị mười lăm tuổi, Má chị qua đời bởi nhiều năm đau bệnh, bỏ chị trơ trọi trên cõi đời với mái nhà xiêu vẹo!
Tuy hình dáng xấu xí làm nhiều đứa con nít khác khiếp sợ, và trải qua nhiều biến cố như thế nhưng chị Hai không lấy làm buồn phiền! Ai cũng nhìn nhận chị là người tốt với chòm xóm, nhà ai có chuyện, chị tới giúp như người nhà của mình!!!

Năm chị 27 tuổi, buổi chiều như bao ngày chị đi bắt cua về rồi đem giao cho mấy bà ở chợ. Nhưng khi trở về nhà vào chập choạng tối, ngang qua khu nghĩa địa, chị nghe tiếng con nít khóc! Chị sởn cả tóc gáy khi nhớ đến những câu chuyện bà con kể quanh nghĩa địa này và thầm nghĩ lẽ nào có ma? Chị cố gắng bước nhanh.

Tiếng con nít vẫn vọng theo gió kéo bước chân chị! Chị đắn đo "lý nào sớm vậy có ma?". Ma có nhát ai chứ làm sao dám nhát chị, bởi chị còn xấu hơn nó kia mà! Hay là tiếng mèo hoang kêu rồi thần hồn nát thần tính nhưng lỡ đó là con nít thật thì sao???

Đắn đo mãi, cuối cùng chị quyết định bước vào nghĩa địa và lắng nghe xem tiếng khóc phát ra từ đâu? Chị đã định được hướng và đi về phía chòm mả của ông Cả Thượng được xây kiên cố, khang trang ở một góc nghĩa địa!
Ngay giữa chòm mả ấy có một đống vải trơ trọi và tiếng khóc phát ra từ đó!!! Chị Hai rón rén bước đến với sự sợ sệt.
Trời chập choạng tối, ở giữa nghĩa địa vắng vẻ cộng với tiếng trẻ con khóc, khiến khung cảnh có cái gì đó ma quái làm chị nổi cả gai ốc!!!

Gom hết can đảm, chị Hai thò tay vào đống vải ấy, khi chạm được cái khối thịt tuy có phần lạnh, nhưng chị Hai xác định đó là da thịt con người; chứ chẳng phải ma quái! Điều đó, khiến chị mạnh dạn và giở những lớp vải phía trên ra!
Đúng như chị nghi ngờ, chính giữa là một đứa con nít đang bị kiến bu cắn đỏ cả người, có lẽ nó khóc từ lâu lắm nên tiếng khóc bắt đầu khàn đặc!!! Chị phủi kiến và cứ như thế ôm nó đi về nhà!

Nghe tin chị Hai nhặt được đứa con nít ở chòm mả một cách kỳ lạ như vậy, người ta kéo lại chật cái chòi của chị.
Vài bà dì thương xót, phụ chị ủ, ẵm, pha sữa cho nó!!! Theo kinh nghiệm của họ, thằng bé sinh ra chưa tới một tháng.
Đôi người đoán non, đoán già, ai mà bỏ con chắc cũng có nỗi khổ! Người thì rủa kẻ nào ác đức, "núm ruột" mà còn đem bỏ, nhỡ chị Hai không tới kịp, nó chết thì sao? Duy có chị Hai không bàn tán cũng chẳng ý kiến gì, chị ngồi yên lặng bên cạnh thằng bé, rờ nhẹ cánh tay của nó như sợ làm nó đau! Nhìn vết kiến lửa cắn chưa phai, chị ứa nước mắt!!!

Vốn đã nghèo, chị Hai tự nhiên "được thêm" cái khổ! Bởi chị ăn hà tiện được, nhưng sữa cho thằng bé thì hà tiện làm sao? Bị cái tật ở chân, chị đi đứng đã khó khăn, còn ẵm thêm thằng bé! Nhiều người lắc đầu xót thầm cho chị!!!

Bây giờ chị Hai kiêm luôn cái nghề lượm ve chai. Thấy cái gì có thể bán được, chị nhặt nhạnh đem về. Bà con thương chị, có cái nồi nhôm bể, hũ. lọ... cũng kêu chị để cho! Coi như cách phụ chị nuôi con bởi bà con ai cũng nghèo chứ khá giả gì đâu???

Vất vả, thiếu thốn là thế! Nhưng thằng bé bụ bẫm, ít bệnh vặt! Trộm vía trời thương nó, nó háu sữa và lớn lên thấy rõ!!!
Năm nó giáp thôi nôi có ông người Hoa ở xóm chợ nhà toàn con gái, không con trai; nên ngỏ ý muốn xin nó làm con!
Ông hứa nếu chị Hai đồng ý, ông cho chị Hai tiền đủ mua ba công đất hẳn hoi! Nhiều người khuyên chị nên cho nó đi đỡ khổ thân chị, thân nó cũng hưởng sung sướng! Ba công đất đâu có ít ỏi gì?

Với người như chị Hai, đó là niềm mơ ước! Nhưng chị Hai không giải thích hay trả lời gì, chị chỉ lắc đầu khi nhìn nụ cười của nó!!!

Năm tháng trôi qua, thằng bé tới tuổi đi học. Chị Hai càng chồng chất vất vả, chị làm không ngừng tay! Miếng đất nhỏ sau nhà chị biến thành vườn rau. Gà gáy sáng, chị đã ra đó. Có lẽ thấu hiểu lòng chị, thằng bé Hải (tên chị đặt cho nó) học rất giỏi. Ngoài giờ học, nó không chạy giỡn như bao đứa trẻ khác. Chị đi đâu, nó theo đó như bóng với hình!
Chị làm gì, nó cũng phụ!!!

Năm nó mười một tuổi được lãnh thưởng học sinh giỏi toàn trường cuối cấp. Chị Hai nghỉ bắt cua một bữa, diện cái áo mới nhất đi coi con nhận thưởng! Nhìn nó đứng trên bục cao mà chị thầm hạnh phúc! Chị nghĩ không biết nó có nhận ra chị giữa đám người lố nhố thế này không???

Buổi lể tan, nó ôm phần thưởng chạy ào tới chị, hỏi :
- Má đứng lâu mệt không Má?
Chị lắc đầu cười, lau mồ hôi trên trán rồi lật đật lấy chai nước đem theo đưa cho nó uống. Sau lưng chị có tiếng xì xào:
- Thằng nhỏ trắng trẻo, lớn con đẹp trai mà Má nó nhìn thấy ghê vậy? Đúng là Mẹ cú đẻ con tiên!
Một tiếng khác đáp lời:
- Con đâu mà con, lượm đó. Bả làm gì mà đẻ được vậy? Thằng nhỏ vô phước, xui khiến gặp bà sống khổ muốn chết!
Gặp người khác thì đỡ chút!!!

Chị hai bủn rủn tay chân, nụ cười tắt hẳn, chị nói với thằng Hải :
- Trễ rồi, về thôi con; Má còn nhổ đám rau chiều nay!

Đang đi, thằng Hải chợt hỏi chị:
- Má, người ta nói Má lượm con phải không Má?

Điều chị hai sợ nhất cuối cùng đã xảy vào lúc này. Chị đã biết trước có ngày này, nhưng không ngờ nó sớm thế!!!
- Chị chảy nước mắt gật đầu.
Thằng Hải hỏi chị tiếp:
- Má con là ai, sao bỏ con hả Má?
Chị hai lắc đầu nói trong nước mắt:
- Má không biết... Nhưng Má biết Má thương con hơn mọi thứ trên đời!!!

Thằng Hải cắn môi im lặng rồi hỏi tiếp:
- Sao má khóc vậy Má?
Chị lấy tay áo lau nước mắt nói:
- Con lãnh thưởng, Má mừng, Má khóc, ráng học cho sau này đỡ khổ, nghe con! Đừng có dốt, không biết chữ như Má, cực khổ lắm!!!
Thằng Hải nhìn mặt chị nói một cách mạnh dạn:
- Má đừng buồn, đừng khóc nữa Má. Con lớn, con đi làm kiếm tiền, cất nhà đẹp cho Má ở nghe Má!!!
Chị xoa đầu nó cười...

Học hết cấp hai ở xã, Hải phải lên thị trấn đi học, vì xã không có trường trung học! Từ thị trấn về nhà hết tám cây số, thương con, chị Hai kêu nó ở trọ trong ký túc xá, để khỏi phải đạp xe hằng ngày vất vả! Nó kiên quyết lắc đầu!!!

Ngày hai buổi, nắng hay mưa, nó cũng đạp xe đi về như thế. Ngoài giờ học, công việc vườn rau nó làm thay chị.
Nhưng năm nào nó cũng đạt danh hiệu học sinh giỏi! Hàng xóm hay lấy nó làm gương cho con mình!!!

Người ta mừng cho chị có chỗ dựa an ủi tuổi già. Nó không cho chị bắt cua nữa, nhưng những buổi sáng nó đi học, chị vẫn lén lút đi! Chị muốn chắt bóp thêm để cho nó ăn học, bởi chị nghe người ta bảo, học trên Sài-Gòn tốn kém lắm!!!

Sáng hôm nay, đầu xóm, tụi con nít "bu" lại, nhìn ngó chỉ trỏ một cái xe hơi đang đậu. Trong xe, ở băng ghế sau còn có một bà ăn bận thật đẹp, người cứ thơm phưng phức! Phía trước bên lề, có một bà kia đang hỏi lũ nhỏ nhà chị Hai Cua Đồng ở đâu, chỉ giúp bà; bà cho tiền mua bánh! Gì chứ, chị Hai Cua Đồng, ai mà không biết, thế là lũ nhỏ nhao nhao chỉ trỏ!!! Một lát sau thì chiếc xe dừng trước nhà chị Hai. Bà kia nói với người đàn bà ngồi băng ghế sau:

- Dạ em hỏi kỹ rồi bà chủ, không sai đâu!. Cậu nhỏ bây giờ học lớp mười. Mười sáu tuổi ạ! Ở xóm này, ai cũng biết chị ấy lượm được con nít! Em đã điều tra rõ ràng rồi!!!
Người đàn bà đẹp thở dài, đưa khăn lên lau giọt nước mắt vừa tràn ra.

Buổi trưa, thằng Hải đi học về nhà như thường lệ. Điều đập vào mắt nó là cái xe hơi đang đậu trước sân. Chưa hết ngạc nhiên, bước vào nhà, nó thấy Má nó đang khóc. Kế bên có một người đàn bà lạ cũng đang sụt sùi.
Bên bộ ván có một người đàn ông và một người đàn bà nữa đang ngồi.

Khi nó bước vô nhà thì bà đó nói:
- Dạ, cậu Hải về kìa bà chủ!
Nó cởi nón, gật đầu chào theo thông lệ và hướng ánh mắt về chị Hai, thay câu hỏi ai vậy? Bởi xưa giờ, trừ người ta
đến mua rau nhà nó, có khách bao giờ đâu mà mua rau cũng đâu ai sang trọng vậy???

Chị Hai kêu nó:
- Đi rửa mặt cho mát rồi vô Má biểu.
Khi nó trở vô, chị kéo nó ngồi xuống kế bên nói:
- Dì này là Má ruột của con đó! Má ruột của con tìm con vất vả lắm! Lại gọi Má đi con!!!
Nói tới đó thì chị Hai nghẹn lời, vì nước mắt!
Người đàn bà kia òa khóc lớn và nắm tay nó nói:
- Má xin lỗi con, không phải Má bỏ con đâu! Bao năm nay Má ăn không ngon, ngủ không yên, kiếm tìm con!!!

Thằng Hải nghe như đất dưới chân nó sụt xuống vậy. Dù từ lâu, nó hiểu nó không do chị Hai sinh ra, nhưng nó không ngờ rằng Má ruột đến tìm nó trong hoàn cảnh này! Trong lơ mơ, giữa những đoạn kể đứt quãng vì nước mắt của người Má ruột, nó nghe câu được câu mất là:

- Má con nhà giàu, sống cùng Cha và Mẹ kế! Má thương Ba con từ thời đi học, nhưng Ba con nhà nghèo. Bà Mẹ kế muốn Má lấy cháu ruột của bà ta; vì gia sản của ông ngoại! Khi Má sinh ra con, vì sợ ông ngoại, Má phải giao con cho bà ta! Bà ta nói sẽ đưa con cho người khác nuôi giùm, nhưng thật sự bà ấy sai người vứt con đi!
Sau đó, cả gia đình ngoại con đi nước ngoài. Trời thương, cuối cùng Ba Má gặp lại nhau! Sau khi Mẹ kế qua đời, ông ngoại con cũng hiểu ra, không ngăn cản như trước. Hiện con còn có thêm một đứa em trai nữa! Khó khăn lắm
Má mới tìm được tung tích con. Vì ông ngoại con bệnh già, nên Ba con không về cùng Má được! Gặp lại con như vầy, ông ngoại với Ba con mừng lắm! Con thương Má, đừng trách Má tội nghiệp!!!

Khi Má ruột kể thằng Hải nghe như vậy, chị Hai tới cái tủ thờ, lục lọi gì đó. Khi nó quay qua hỏi chị Hai:
- Như vầy là sao hả Má?

Chị Hai mếu máo nói:

- Đúng rồi đó con, Má con nói đúng, cái bớt son của con và cái lắc bạc đeo ở chân con. Khi Má mang con về không cho ai biết bí mật này hết! Má gói giữ đây, định con lớn, giao cho con để con biết gốc tích của mình! Má con khổ bao năm nay rồi!!!

Hải ngỡ ngàng sự thay đổi khi cuộc đời mình tự nhiên có thêm bà Má, Ba, em trai! Trước khi Má ruột đi về, Ba nói chuyện điện thoại với nó, bảo sẽ nhanh chóng đón nó qua đó cho trọn gia đình! Nó mừng vì mình có gia đình như bao người chứ không trơ trọi!!! Xóm làng ai cũng vui lây. Một bước sung sướng, con nhà giàu.

Nhưng nhiều lần nó cũng dò ý chị Hai khi nó đi rồi chị làm sao? Nó hy vọng chị ngăn cản nó! nhưng lần nào chị cũng nói:
- Đi đi con, cho có tương lai! Qua đó được ăn học, đỡ cực khổ, sống với Má mười mấy năm cực khổ rồi con!!!
Ráng học thành người, trả hiếu Má chưa muộn, Má còn khỏe, Má lo được, không sao hết con, còn chòm xóm bà con...

Nó cũng yên tâm phần nào vì không thấy chị Hai buồn phiền gì hết. Nhưng có một lần, nó đi học về sớm, khi ra vườn, nó thấy chị Hai vừa tưới rau, vừa quệt nước mắt. Cái dáng xiêu vẹo của chị in trong trời chiều như một dấu chấm hỏi!!!

Má nó về, dẫn nó đi làm thủ tục. Sau khi đi tới đi lui cũng thở phào nhẹ nhõm khi cầm trên tay cái visa. Chiều ngày mai thì nó theo Má về gia đình thật của mình! Nhưng sao nó không thấy vui hay háo hức như nó nghĩ.
Ngược lại, nó thấy như nó đang đánh mất cái gì đó quý lắm!!! Nó ngồi trước sân, miên man suy nghĩ, nhìn ra cây xoài đang ra trái non. Nó thấy lại hình dáng ngày xưa của mình với Má!

Hai Má con cùng trồng rau. Nó nhớ cái dáng xiêu vẹo khi Má xách thùng nước, nhớ đôi tay Má chai sần và đầy vết cua kẹp chứ không mềm mại, mát rượi như tay Má ruột nó!
Bỗng tiếng chị Hai vang lên, cắt ngang dòng suy nghĩ của nó:
- Ngồi chi ngoài đó gió lạnh đó con. Tranh thủ ngủ sớm, mai Má con xuống đón sớm đó.
Vô đây Má có chút chuyện dặn con. Khi nó ngồi ngay ngắn trên bộ ván, chị Hai miệng nói, tay kéo cổ nó xuống:

- Sợi dây chuyền này Má tính để dành cho con sau này đi học, có cần thì dùng! Bây giờ, Má nghĩ không cần nữa rồi.
Má cho con làm kỷ niệm! Má biết Má con dư giả nhưng vạn nhất, chuyện gì con cũng có cái phòng thân! Má nghe mấy dì ngoài chợ nói xứ đó lạnh lắm! Con nhớ cẩn thận sức khoẻ, con hay bị khò-khè khi chuyển gió!
Mới lại, về bên đó, ăn nói từ tốn, ngoan ngoãn cho người ta thương ha con! Cố gắng học nghe con!!!

Thằng Hải "nghe" vài giọt nước nhỏ lên cổ và giọng Má đang nghẹn lại, nó biết Má đang khóc!
Nó an ủị:
- Dạ, con biết rồi Má. Nhưng sợi dây Má giữ đi, phòng thân có mình Má bên đây, lỡ Má đau bệnh. Con đi vài năm, con về với Má liền!!!

Miệng nói, tay nó lần muốn tháo sợi dây chuyền ra. Chị Hai giơ tay ngăn lại, nói tiếp:
- Đừng lo cho Má, từ đó tới giờ Má cũng sống vậy. Má con có ngỏ ý gởi cho Má số tiền ở trong ngân hàng phòng thân! Nhưng Má bảo không sao, để số đó lo cho con học hành! Giờ nhà mình cũng đâu khó khăn như xưa!!!

Sáng sớm, khi Má ruột xuống đón Hải đi, bà con lại đến đưa tiễn, chúc nó lên đường bình an! Ai cũng ngỡ chị Hai sẽ khóc lóc, nhưng trái với thông lệ; chị tươi cười vui vẻ, giống như thằng Hải đi học bao ngày; chứ không phải là đi xa không biết bao lâu mới về!

Khi xe chạy rồi, bà con ai về nhà nấy, chỉ còn duy nhất chị, chị ngồi bệt ngoài sân, dựa vô góc xoài nức nở khóc!!!

Xe Chạy tới Bình-Chánh, ngoại ô Sài-Gòn, Má thằng Hải nói:
- Chút về tới khách sạn, ăn xong, kiểm tra hành lý rồi Má con mình ra sân bay. Con đừng lo cho Má con nhiều.
Má mang ơn chị ấy không hết, Má không để chị ấy thiếu thốn hay thiệt thòi gì đâu! Mỗi năm, Má sẽ gửi tiền để chị ấy không phải vất vả, con yên tâm đi, vài năm con về thăm chị ấy!!!

Thằng Hải nhìn Má nó rồi nói:
- Má kêu xe dừng lại chút được không Má? Con khát nước quá! Con muốn nghỉ mệt chút, con đi xe không quen!!!
Xe tắp vô một cái quán võng bên lề. Sau khi uống nửa ly nước, thằng Hải tự nhiên xoay qua Má nó, nói một hơi như sợ ai cướp lời nó:
- Má... con không giận, không buồn gì Má hết, con vui vì con biết hồi xưa Má không phải vứt con như con nghĩ!
Gặp má, con mừng lắm, bởi con có cội có nguồn! Con thương Má nhiều vì con biết bao năm nay Má tìm kiếm con vất vả, buồn rầu, lo lắng cho số phần con!!! Nhưng... con thương Má của con hơn, Má không có con, Má còn có Ba, có em. Còn Má con có một mình con! Khi nào Má con không còn nữa, con sẽ về bên Má. Má... con xin lỗi Má!!!

Trong khi Má thằng Hải còn đang chưa biết phải làm sao trước sự cố bất ngờ như vậy, thì nó chạy ào qua thanh chắn phân cách hai làn xe...

- Hải! Hải!!!

Nó đưa tay vẫy chiếc xe đò ngược chiều mà không thèm nhìn coi xe đi tỉnh nào? Nó nhảy phóc lên xe! Xe chạy đi trước sự ngỡ ngàng của Má nó bên kia lề và chú tài xế đang cố băng qua đường về phía nó !!!




***



Trời về chiều, những tia nắng từ hướng tây chiếu xuống cái sân trước nhà. Bếp núc lạnh tanh dù sáng giờ, chị Hai chưa có hạt cơm bỏ bụng! Chị ngồi trong góc bếp hàng mấy giờ đồng hồ. Chị muốn đứng dậy đi ra sau vườn làm gì
đó, nhưng tay chân chị bủn rủn, không có sức lực! Chị thầm nghĩ: "Giờ này, chắc Hải đang ngồi trên máy bay như mấy bà ở chợ nói!". Chị tự dặn lòng phải mừng cho con, chứ sao mà ngồi ủ-rũ như vậy?

Chợt chị nghe nhà trên có tiếng động, sợ con mèo mun nhảy lung tung như thường ngày, làm đổ bể cái gì, chị níu cây cột đứng lên, cố nheo mắt nhìn coi! Có cái bóng đen che ngang trước cửa nhà và tiếng thằng Hải gọi như bao lần đi học về:

- Má ơi!!!

Chị quỵ chân xuống, môi cười mà nước mắt tuôn như mưa!
Ngoài sân, trời về chiều, gió ngoài sông thổi nhẹ từng cơn !!!




Song Nhi

thuykhanh
08-14-2016, 07:06 PM
***

Nâng cấp Ô sin.



Sao các đại gia không vào hành lang bệnh viện mà tìm tình một đêm? Năm trăm đô, hai trăm đô cũng được.
Tôi cao 1m68, ba vòng đủ chuẩn, mặt xinh, da trắng. Tôi sẽ bán tôi ngay để đủ tiền phẫu thuật cho mẹ.

***
1.
Đã một tuần ăn chực nằm chờ trong bệnh viện, nhưng tôi vẫn không thể nào thích nghi được với không khí
ở đây. Từ khoa điều trị của mẹ muốn xuống căng tin phải đi qua lối vào nhà xác.
Mỗi lần hai mẹ con dìu nhau đi, tôi cứ phải cố dấn bước cho nhanh và mắt nhìn thẳng tắp. Để bảo vệ chút
mạnh mẽ còn lại mà không đổ gục. Nhà tôi, mẹ góa con côi, nếu tôi cũng quỵ, sẽ chẳng còn ai làm chỗ dựa
cho mẹ.
Hết một tuần, tất cả kết quả xét nghiệm đều đi đến chung một kết luận: Khối u của mẹ lành tính nhưng bắt
buộc phải phẫu thuật. Nỗi vui mừng chưa kịp nhen nhóm thì số tiền dự tính phải chi trả đã tàn bạo bóp nghẹt
trái tim tôi lần nữa.
Tôi có bán răng, bán tóc, bán máu, bán cả nhà cũng không thể đủ một nửa con số trăm triệu đồng. Huy động
tất cả người thân, bạn bè quen biết được vỏn vẹn hai chục triệu. Cây vàng mẹ định để dành làm của hồi môn
cho tôi phải bán đúng lúc giá chạm đáy cũng chỉ gom thêm được bốn chục triệu nữa.
Con số sáu mươi triệu đồng còn lại cứ như cái thòng lọng treo lơ lửng trên đầu tôi.
Không có nó, mẹ không thể phẫu thuật được. Thời gian càng kéo dài, xác suất an toàn sẽ càng giảm. Chưa
bao giờ tôi lâm vào tình trạng quẫn trí như lúc này.
Sao các đại gia không vào hành lang bệnh viện mà tìm tình một đêm? Năm trăm đô, hai trăm đô cũng được.
Tôi cao 1m68, ba vòng đủ chuẩn, mặt xinh, da trắng. Tôi sẽ bán tôi ngay để đủ tiền phẫu thuật cho mẹ.

***
Mỗi buổi sáng, bác sĩ điều trị cho mẹ đi qua thăm khám đều hỏi han về tình hình chuẩn bị của chúng tôi.
Tôi chưa bao giờ khóc trước mặt bác sĩ, nhưng sắc mặt tôi trông còn thảm hơn cả khóc, nên bao giờ anh
cũng ái ngại quay đi.
Phòng bệnh của mẹ có mười hai người, chen chúc trong sáu cái giường cá nhân. Buổi sáng hôm thứ sáu,
bác sĩ điều trị của mẹ đi vào, mang theo mười hai cái phong bì, bảo là của các nhà hảo tâm gửi tặng.
Mười một cái đều chỉ có một triệu đồng, riêng cái của mẹ tôi là năm triệu đồng, kèm theo tín hiệu "bí mật".
Có nhiều tiếng khóc cùng lúc sụt sùi. Bác sĩ thấy ngại sao đó mà đi ra ngay, còn bảo tôi cuối giờ lên khoa gặp.

Ai đã từng vào chăm bệnh nhân trong viện mới cảm nhận được hết cái thấp thỏm trong câu hẹn gặp với
bác sĩ. Thường là vì tình trạng bệnh tiến triển không tốt bác sĩ điều trị mới phải gặp riêng người nhà. Cũng
có khi vì phí điều trị tự nhiên lại đội lên quá cao. Với người giàu mà nói, đây không phải là khó khăn gì
ghê gớm. Nhưng với dân nghèo như chúng tôi, mức độ sát thương của nó như các cư dân mạng hay nói,
đúng là "vô đối".
Cho nên, suốt cả ngày hôm ấy tôi hết đi ra lại đi vào, giơ tay xem đồng hồ liên tục, đến mức chính mẹ cũng
bị lây cảm giác căng thẳng. Khi kim giờ chỉ đúng số năm, tôi lao như tên bắn qua hành lang bệnh viện.
Ngồi trong phòng của anh rồi, hơi thở vẫn chưa điều hòa nổi, lòng bàn tay tôi túa mồ hôi lạnh toát. Không có
tiên liệu xấu nào cả. Anh chỉ cho tôi thêm một con đường sống.

Tôi phải cấp tốc mua bảo hiểm cho mẹ, trước thời gian phẫu thuật. Anh thậm chí còn giới thiệu người
có thể giúp tôi đẩy nhanh và hợp thức hóa các thủ tục. Tôi trào nước mắt cám ơn. Anh lại lúng túng:
Cũng không giúp được gì nhiều đâu, vì ca mổ của mẹ em là tự nguyện, nên bảo hiểm chỉ trả giúp một phần
viện phí. Giảm được khoảng 20% tổng chi phí là cùng!
Tôi lẩm nhẩm trong óc, 20% của 120 triệu nghĩa là hơn hai chục triệu. Nghĩa là nỗi lo của tôi giảm xuống
chỉ còn hơn ba chục triệu nữa thôi. Một triệu đồng lúc này cũng quý, nói gì đến hơn hai chục triệu.
Nhưng một tuần sau đó tôi vẫn không biết làm cách nào để xoay ra hơn ba chục triệu đồng.

Túng quá hóa liều. Tôi một lần nữa gõ cửa phòng bác sĩ điều trị chính. Trong tay là một hợp đồng đã soạn
sẵn, ký sẵn. Tôi mạo muội đề nghị anh bảo lãnh cho ca mổ của mẹ tôi. Tôi biết điều này là bất khả thi.
Trong bệnh viện lúc nào cũng có người nghèo. Mạng ai cũng quý. Ai cũng muốn nhờ bác sĩ bảo lãnh.
Mà bác sĩ thì không là thánh.
Nhưng tôi có một niềm tin mơ hồ: Hình như anh để ý đến tôi. Có để ý mới đưa phong bị dày hơn những
người khác. Có để ý mới nói giúp việc làm bảo hiểm, không bác sĩ nào rỗi hơi lại đi mách bệnh nhân cách
lách luật rắc rối và có phần trái quy tắc như vậy?

Trong hợp đồng thảo sẵn, tôi đề nghị làm giúp việc không công cho gia đình bác sĩ trong 3 năm, bảy ngày
trên tuần, ba giờ mỗi ngày. Không ngờ, anh nhìn tờ giấy rồi cười, đẩy lại phía tôi không nói gì. Cuống quá,
tôi nói thẳng tưng mà không hề đỏ mặt: Hay là anh mua em đi, toàn quyền sử dụng trong một năm.
Em cam tâm tình nguyện! Lần này, anh đơ ra một lúc, mặt đỏ bừng.

Tôi gần như tuyệt vọng, thiếu chút nữa thì nằm lăn ra phòng anh ăn vạ. Một lúc sau anh bảo tôi chuẩn bị,
thứ ba sẽ mổ cho mẹ. Tôi gần như bay ra khỏi phòng anh, bất chấp nỗi ê chề bán thân vô tiền khoáng hậu
kia. Trước mắt tôi chỉ còn viễn cảnh mẹ sẽ được phẫu thật, sẽ khỏi bệnh, khỏe mạnh trở lại. Tôi làm gì còn
người thân nào khác trên đời này!

Ca phẫu thuật của mẹ rất thành công. Lúc này tâm trí tôi mới trở lại trạng thái bình thường. Nghĩ đến cái
hợp đồng vẫn bỏ lại trong phòng anh, không khỏi ngượng ngùng. Nhưng mãi vẫn không thấy khổ chủ
đòi nợ. Gần ngày mẹ ra viện, tôi lần nữa vác mặt mo đi đề nghị người ta "nghiệm thu" mình.


***
2.
Tôi ngoài ba mươi tuổi. Bác sĩ của một bệnh viện lớn. Độc thân nhưng hình như không có duyên lắm với
phụ nữ. Lần đầu nhìn thấy em đã rung rinh. Em rất đẹp, lại hiếu thuận. Chăm chút mẹ từng li từng tí.
Làm việc trong bệnh viện lâu rồi, tôi đã chứng kiến không ít cảnh các ông bố bà mẹ cô đơn vò võ điều trị
nội trú, toàn bộ việc chăm sóc phó mặc cả cho điều dưỡng viên, con cái một tuần tới điểm danh một lần
đã là nhiều. Thế nên, hình ảnh của em ngày ngày chăm chút mẹ tận tâm tận lực lại khiến tôi để tâm.
Mẹ em phải phẫu thuật, lần lữa mãi mà không thu xếp đủ tiền, tôi cũng có chút động lòng.

Mẹ tôi năm nay ngoài bảy mươi tuổi. Bố tôi mất đã năm năm, sở thích còn lại duy nhất của bà là chăm tôi
và làm từ thiện. Lương hưu của bà không đáng là bao, ngày ngày bà may áo, đan len, rồi cứ gom lại từng
tí một, thành một chục là hớn hở mang cho trẻ con nghèo.
Trước đây, mẹ cũng hay mang vào viện tôi nhưng từ khi tôi bảo: Bệnh nhân thường họ không thiếu mấy
thứ mẹ cho, cái họ thiếu nhất là tiền, thế là mẹ chuyển mục tiêu sang mấy xã ngoại thành và các xã vùng
núi theo chường trình của Hội Chữ thập đỏ.

Gần đây, mẹ vận động được cả các cô chú và bạn bè ở nước ngoài gửi tiền về làm từ thiện,thỉnh thoảng
được một cục, mẹ lại tất tả đem cho. Tháng trước, mẹ đi đường bị xe tông gãy chân, thế là phải nằm một
chỗ, không đi lại được. Cục tiền của mẹ, tôi phải làm nhiệm vụ mang vào viện phân phát. Thực lòng, tôi
không quen làm việc này nhưng trước sức ép của mẹ, đành chia ra các phần bằng nhau, đem chia cho
phòng điều trị của mình, năm phút là xong. Riêng phong bì của mẹ em, tôi cố tình nhét thêm bốn triệu đồng.
Cũng như muối bỏ bể mà thôi!

Tôi chưa bao giờ tưởng tượng được em lại đề nghị "bán mình" cho tôi với cái giá như vậy. Nhất thời không
biết phản ứng thế nào nên cứ ngồi ngậm hột thị. Nhìn gương mặt tuyệt vọng của em, tôi biết mình chẳng
còn lựa chọn nào khác. Thế là rút tiền túi ra giúp bệnh nhân. Cũng chẳng phải vì lòng tốt như mẹ tôi, mà
là vào cái thế không thể rút chân ra được nữa.

Ngày mẹ em ra viện, em lần nữa nhắc lại chuyện phải "thanh toán" hợp đồng. Tôi lại lần nữa bị ép phải
nói rằng: "Cứ coi như nợ anh, khi nào có tiền thì trả!". Không ngờ em "chốt hạ" ngay: Thế này vậy, nếu anh
đã chê em thì làm theo phương án thứ nhất đi! Em biết mẹ anh đang ốm, cũng cần người giúp đỡ. Từ tuần
sau, sau giờ làm em sẽ đến nhà anh giúp việc nhà. Em biết địa chỉ rồi, anh đừng ngại!

Em làm Ôsin cho nhà tôi được đúng sáu tháng thì mẹ tôi một hai đòi nâng cấp em làm con dâu.
Đến nước này tôi mà còn vờ vịt lập topic "có nên siết nợ bằng cách cưới con nợ hay không?" thì thật nhảm!!!

[Theo Trải nghiệm sống]

PS.- tk bịnh, phải nghỉ mấy ngày, hôm nay trở lại diễn đàn.
Cảm ơn ACE bạn hữu ghé đọc. Mong mọi người được bình an

NguyetHa
08-15-2016, 09:44 AM
.





QUOTE]


tk bịnh, phải nghỉ mấy ngày, hôm nay trở lại diễn đàn.


[/QUOTE]




Cám ơn chị Thụy Khanh mang truyện hay về, đêm qua em thức khuya đọc cho xong. Hai nhân vật dễ thương và có tình có nghĩa quá phải không chị.

Chị mới bịnh phải nghỉ mấy ngày, hôm nay chị đã khỏe hẵn chưa? Chị có ra sân chăm mấy cây hoa hồng đừng ra sớm quá và cũng đừng phơi nắng nhiều, dễ cảm lắm ạ. Hoa hồng nhà chị ddẹp quá, mầu hồng thật tươi mát.

Chúc chị luôn vui khoẻ nha. :z58::z58:

Em NH



ps. Em cám on chị thường vào trang của em. Em không vào viết thăm chị vì sợ không có giờ trở lại trả lời chị, dể lâu quá thất lễ nên ddành phải im lặng. Lúc này em có nhiều chuyện bận bất ngờ, loay hoay hoài không xong việc. :z51:

thuykhanh
08-15-2016, 07:13 PM
Chị mới bịnh phải nghỉ mấy ngày, hôm nay chị đã khỏe hẵn chưa? Chị có ra sân chăm mấy cây hoa hồng đừng ra sớm quá và cũng đừng phơi nắng nhiều, dễ cảm lắm ạ. Hoa hồng nhà chị ddẹp quá, mầu hồng thật tươi mát.

Chúc chị luôn vui khoẻ nha. :z58::z58:



Nguyệt Hạ thương,

Những giòng trên làm chị nhớ lại hồi đầu năm, có cơn bão tuyết lớn, NH gởi PM dặn dò
chị ở trong nhà, đừng đi đâu.
Cảm ơn tấm lòng của em đối với chị, NH an tâm, chị bớt nhiều và sáng nay đã đến gym
tập trở lại.
Em viết hay, chị thích đọc, không những ở đây mà còn nơi khác nữa.
Nhân dịp này, chị cảm ơn nhà văn với lối viết nhẹ nhàng, đằm thắm.
Con trai em có được về nhà nghỉ hè không?

Sẽ nhớ lời em dặn, mến chúc em và gia đình mọi sự an lành, đẹp ý.
Chị, tk.

http://i.imgur.com/2D89wr3.png?1

NguyetHa
08-16-2016, 08:52 AM
Chị Thụy Khanh thương, chị chịu khó ghê, vừa khỏi bệnh là đi gym tập trở lại, mong chị sẽ khỏe hơn.

Cám ơn chị hỏi thăm và chúc gia đình em, tụi em lúc nào cũng vui, con em đang nghỉ hè ở nhà. Có nhiều chuyện lặt vặt trong nhà, trong vườn, hai mẹ con cố thanh toán trong thời gian này. Năm nay nơi em nóng quá nên cây cỏ vườn tược cháy gần hết.

Một ngày vui và an lành với chị và gia đình:z57::z57:
Em NH

thuykhanh
10-23-2016, 07:40 PM
Truyện ngắn:


Trên du thuyền Norwegian

Điệp Mỹ Linh



http://www.gannett-cdn.com/-mm-/1936f8492c5c213736115c85a890d278c6c9ee96/c=168-0-3556-2547&r=x393&c=520x390/local/-/media/2015/11/03/USATODAY/USATODAY/635821328460787323-escapehorizontal.jpg




Cuối cùng, ban quản lý du thuyền Norwegian đồng ý để nhóm du khách Việt-Nam có một khu vực giải trí nhỏ, riêng biệt. Đêm đầu tiên nhóm người Việt gặp nhau, nhiều người vui vẻ ghi tên tham dự phần văn nghệ.
Mở đầu buổi họp mặt văn nghệ, xướng ngôn viên giới thiệu một người kể chuyện vui. Ông này chưa kể chuyện mà đã làm cho cả nhóm cười, vì phong cách của ông trông rất giống danh hề Phi-Thoàn.
Trong những cuộc vui, bao giờ Ngọc-Lan cũng cảm thấy lạc lõng, không thể hòa đồng được. Ngọc-Lan ngồi riêng biệt cạnh góc phòng. Nhìn những người bạn chưa quen, Ngọc-Lan chua xót nhận ra một điều thê thảm là ai trông cũng già nua, chậm chạp. Nhận ra được lẽ vô thường, Ngọc-Lan thầm hoảng sợ, vì chính Ngọc-Lan cũng ở vào lứa tuổi của những người quanh đây!

Bận suy nghĩ miên man, Ngọc-Lan không để ý đến lời giới thiệu của người phụ trách chương trình. Khi nghe tiếng vỗ tay vang lên, Ngọc-Lan choàng tỉnh. Ngọc-Lan thấy một người đàn ông bước lên bục gỗ, ôm Guitar dạo một tình khúc rất quen. Ngọc-Lan chăm chú nghe: “Anh đến thăm, áo anh mùi thuốc súng, ngoài kia mưa lê thê, qua ngàn chốn sơn khê…” (1)
Giọng của người hát khàn khàn, vì lớn tuổi; nhưng lời ca lại khơi dậy trong hồn Ngọc-Lan hình ảnh của Khanh, người yêu thời thơ dại của nàng.


Đến đoạn điệp khúc, người hát ưỡn ngực, cố lấy hơi để đưa giọng lên cao, nhưng tiếng hát của Ông vẫn nghẹn lại; hai câu kế tiếp Ông hát với tất cả nỗi niềm của Ông: “…Mấy ai ra đi hẹn về dệt nốt tơ duyên, chít lên vành khăn trắng, cầm tay nhau đi em, tơ Trời quá mong manh…”(2) Ngọc-Lan chợt cảm thấy bồi hồi xúc động như lần đầu tiên Ngọc-Lan nghe Khanh, sĩ quan Biệt-Động-Quân Biên-Phòng, hát giúp vui, khi Ngọc-Lan cùng nhóm học sinh ủy lạo binh sĩ tiền đồn đến viếng đơn vị của chàng.

Ngày xưa đó, trong khi đại diện cho đơn vị để hát giúp vui, Khanh nhìn nhóm nữ sinh xinh đẹp và ánh mắt của Khanh dừng lại nơi cô học trò có mái tóc dài, nét mặt hiền, sóng mũi cao và đôi mắt thật buồn. Cô ngồi riêng rẽ, cạnh những bao cát của hầm chống pháo kích. Khi tiễn nhóm học sinh ra về, nghe các cô gọi nhau, Khanh mới biết tên cô học sinh mà chàng để ý lúc trưa là Ngọc-Lan.

Gần nửa thế kỷ sau, lúc hát giúp vui cho nhóm du khách “golden age” trên du thuyền Norwegian này, Khanh lại bắt gặp những nét yêu kiều của Ngọc-Lan thuở xưa, nơi một thiếu phụ ngồi riêng biệt cạnh góc phòng.
Hát xong, Khanh rời bục gỗ trong những tràng pháo tay dòn dã. Sau một thoáng ngần ngại, Khanh không nén được tò mò, vội đi thẳng đến chiếc ghế trống, đối diện với Ngọc-Lan, hỏi:

- Xin lỗi bà, có ai ngồi ghế này không ạ?

Ngọc-Lan mỉm cười, lắc đầu. Khanh tiếp:

- Tôi có thể ngồi đây, được không, thưa bà?

- Dạ, ông cứ tự nhiên.

Nhận ra giọng nói của Ngọc-Lan, Khanh hơi mất bình tĩnh:

- Xin lỗi bà, có phải quý danh của bà là Ngọc-Lan hay không?

Ngọc-Lan sửng sốt:

- Thưa, ông là ai? Tại sao ông biết tên tôi?

Không đáp lời Ngọc-Lan, Khanh cúi mặt, đưa tay ôm trán như muốn ôm lấy nỗi đau và cũng như muốn che kín khuôn mặt đầy tàn tích chiến tranh của chàng!
Tàn tích chiến tranh trên khuôn mặt của Khanh đôi khi làm cho Khanh cảm thấy thiếu tự tin; nhưng mặc cảm đã không thể làm được gì để cứu đàn em của chàng, trong những ngày máu lửa cuối tháng Ba năm 1975, tại Thuận-An, thì lúc nào cũng gậm nhấm hồn chàng và đem đến cho Khanh nhiều mặc cảm tự ty!

Gần bốn mươi năm, khoảng thời gian đủ dài để hận thù lắng đọng; nhưng không đủ dài để xóa mờ những bi hùng có thật suốt đoạn đường khổ nạn mà đơn vị của Khanh được lệnh phải theo Lữ-Đoàn I Thiết-Kỵ về Phá Tam-Giang. Từ Phá Tam-Giang, Khanh lại nhận được chỉ thị phải đưa đơn vị của chàng về Thuận-An để chiến hạm Hải-Quân đón.

Đến Thuận-An, thấy sự hiện diện của Lữ-Đoàn Thủy-Quân Lục-Chiến và Sư-Đoàn I Bộ-Binh, Khanh nghĩ, nhiều đại đơn vị tập trung một chỗ sẽ là địa điểm tốt cho Việt-Cộng pháo kích. Khanh muốn liên lạc, trình thẩm quyền, xin cho đơn vị của chàng về Đà-Nẵng bằng đường bộ; nhưng đặc lệnh truyền tin bị Việt-Cộng xâm nhập, khuấy phá, không xử dụng được.
Thấy hai Dương-Vận-Hạm Cần-Thơ, HQ 801 và Thị-Nại, HQ 502, thấp thoáng xa xa, mọi người chưa kịp vui mừng thì đại pháo 105 ly và 81 ly của Việt-Cộng nã liên tục, nã tới tấp, nã hằng loạt vào nơi đoàn quân đang tập trung! Không biết bao nhiêu thân người bị hất lên, rồi rớt xuống, nằm yên! Thấy nhiều Thủy-Quân Lục-Chiến hối hả rời “bãi chết”, đi về hướng Nam, Khanh chụp ống liên hợp, muốn ra lệnh cho từng tiểu đơn vị của chàng đi theo, nhưng máy PRC25 trúng đại pháo, bất khiển dụng!

Khanh nghĩ rằng có thể Thủy-Quân Lục-Chiến, hoặc đã dùng tần số riêng để liên lạc với Hải-Quân, hoặc muốn âm thầm tách rời quân bạn, đi về Đà-Nẵng bằng đường bộ. Dù với lý do nào đi nữa, Khanh cũng nhận thấy hành động của Thủy-Quân Lục-Chiến là một giải pháp tốt. Khanh đứng thẳng người, vừa điểm điểm ngón tay trỏ về hướng Nam vừa ra lệnh: “Tất cả đi theo Thủy-Quân Lục-Chiến”.
Niên – hiệu thính viên của Khanh – kéo Khanh xuống, hét lớn: “Ông Thầy bị thương rồi! Ông Thầy nằm xuống.” Lúc đó Khanh mới thấy máu nhuộm đỏ chiếc áo hoa rừng của chàng. Khanh đưa tay vuốt máu trên mặt; nhưng Khanh vẫn chưa cảm thấy đau. Khanh hất Niên ra và vẫn đứng thẳng, lập lại: “Tất cả đi theo Thủy-Quân ...” Nói chưa dứt câu, Khanh quỵ xuống…

Thấy Khanh vẫn trong tư thế thiểu não, Ngọc-Lan bối rối:

- Ông ơi, ông! Ông bình an chứ?

Khanh ngẩng lên:

- Xin lỗi bà. Cảm ơn bà. Tôi không sao cả.

- Vậy thì ông làm ơn cho biết tại sao ông biết tên tôi?

Khanh lẳng lặng lấy trong ví thẻ căn cước quân nhân, trao cho Ngọc-Lan:

- Thưa, bà còn nhớ thanh niên này không?

Nhận ra tên, họ và ảnh trong thẻ căn cước, Ngọc-Lan run tay, không hiểu giữa người trong ảnh và người đàn ông ngồi đối diện liên hệ như thế nào! Ngày xưa, vì gia đình khắc khe, Ngọc-Lan chỉ liên lạc với Khanh bằng thư. Thỉnh thoảng Khanh về phép, Ngọc-Lan trốn học đi chơi với chàng; chỉ có vài lần lén lút hôn nhau vội vàng thì làm thế nào Ngọc-Lan có thể quen mùi da thịt hoặc nhận ra được những điểm đặc biệt trên mặt Khanh! Ngọc-Lan rơm rớm nước mắt:

- Thưa, ông liên hệ như thế nào với thanh niên này?

Khanh lại mở ví, lấy tấm ảnh đã nhạt màu, trao cho Ngọc-Lan:

- Bà nhận ra thiếu nữ này không?

Nhìn tấm ảnh rồi lật phía sau, thấy nét chữ của chính mình “Thương tặng anh Khanh để nhớ mãi những ngày vui. Đừng bao giờ quên em, nha.” Ngọc-Lan bàng hoàng:

- Ô, Trời! Anh!...

Sự xúc động đến quá nhanh, Ngọc-Lan hơi chồm về phía trước, muốn “hug” Khanh; nhưng ý tưởng ngại ngùng chợt đến, Ngọc-Lạn liếc nhanh sang nhóm bạn chưa quen:

- Chị đâu, thưa anh?

Khanh cười mỉm, lắc đầu nhưng đôi mắt lại buồn buồn. Ngọc-Lan tiếp:

- Nếu vậy thì…anh có muốn ra ngoài nói chuyện với em không? Trong này nhạc ồn quá.

Khanh và Ngọc-Lan lên sân thượng. Cạnh ba hồ bơi, nhiều người nằm duỗi chân trên mấy chiếc ghế xếp. Nhà hàng cung cấp nước uống và thức ăn nhẹ vẫn còn mở cửa. Sau khi chọn hai chiếc ghế xếp nơi góc vắng, Khanh bảo:

- Ngọc-Lan ngồi đi. Anh đi lấy nước. Ngọc-Lan uống gì?

- Dạ không. Cảm ơn anh.

Nhìn vùng không gian rực rỡ ánh đèn phía xa và nghe âm điệu Swing của nhạc khúc Istanbul phát ra từ nhà hàng, đôi vai của Ngọc-Lan lắc nhè nhẹ.

Khanh trở lại với ly rượu chát đỏ. Sau khi ngồi vào ghế xếp, Khanh nhìn Ngọc-Lan, không biết nên mở đầu câu chuyện như thế nào! May quá, Ngọc-Lan đi thẳng vào vấn đề:

- Chị và các cháu hiện tại ở đâu, thưa anh?

- Trước hết, anh yêu cầu Ngọc-Lan đừng thưa gửi gì hết. Ngày xưa Ngọc-Lan chỉ gọi “anh Khanh ơi!” chứ Ngọc-Lan có bao giờ thưa gửi gì đâu.
Cả hai người nhìn nhau, cười. Khanh tiếp:

- Chuyện dài lắm, từ từ anh kể cho Ngọc-Lan nghe. Nè, Ngọc-Lan nhớ bài Les Nuits Sans Toi không?
Ngọc-Lan gật đầu, nhưng trong tiềm thức Ngọc-Lan lại văng vẳng tiếng hát xưa:

…Les nuits m’éveillent
Quand Je sommeille
Guettant ton pas
Je crois entendre
Un passant dans la rue…(3)

Khanh tiếp:

- Ngọc-Lan! Ngày xưa em thường bảo, biến âm đột ngột ở chữ “rue” là một Mineur “chết người”. Nhớ không?

Ngọc-Lan gật đầu. Khanh cười buồn:

- Chính những chi tiết đó làm anh không thể nào quên được em.

- Mà anh có muốn quên em hay không?

- Thú thật với em, nhiều khi anh muốn quên em, cũng như anh muốn quên đi những dã man, những tàn bạo giữa con người đối với đồng chủng, tại bãi biển Thuận-An - để cho lòng anh bớt khổ - nhưng anh không thể quên được.

- Em không hiểu rõ những gì xảy ra cho anh và đồng đội của anh tại bãi Thuận-An. Nhưng em nghĩ, tất cả đã qua rồi, anh đừng nên tự làm khổ anh nữa.

Khanh im lặng. Ngọc-Lan cũng im lặng, nhìn mong ra khoảng không gian rực rỡ của Istanbul.

Trong khi Ngọc-Lan thi vị hóa vùng ánh sáng chói lòa của Istanbul, của cầu Galata và cầu Ataturk thì vùng ánh sáng đó lại khơi dậy trong lòng Khanh những khối ánh sáng xé không gian, rơi và nổ ngay nơi tập trung của những đại đơn vị thiện chiến Việt-Nam Cộng-Hòa!

Khanh nghe tiếng Niên gào to: “Ông Thầy! Có chiếc LCU vào, ưu tiên đón thương binh. Em cõng ông Thầy. Đi! Mau đi, ông Thầy.” Khanh quát:“Mày đi đi. Mày thấy đứa nào thì bảo nó đi luôn.” Niên xấn đến, khom người, quàng tay Khanh qua vai Niên. Khanh thu tay tại, rút “ru-lô”, chỉa ngay vào Niên: “Đi! Tao bảo mày đi. Mày không đi, tao bắn.” Niên lại gào lên: “Em không đi. Em không bỏ ông Thầy được.” Khanh hơi chếch mũi súng. Tiếng nổ vang lên. Niên sợ quá, quay lưng, vừa chạy vừa gào to: “Ông Thầy ơi! Ông Thầy!”

Khanh nghe, lẫn trong tiếng đại pháo còn có tiếng lựu đạn và súng nhỏ nữa. Khanh nhìn họng súng. Ý nghĩ táo bạo vừa lóe lên Khanh chợt nghe tiếng Niên: “Ông Thầy! Chiếc LCU tản thương đi rồi. Mấy LCU khác đang vào thì vài chiếc bị trúng hỏa tiễn tầm nhiệt AT3. Em với thằng Chắc trở lại, khiêng ông Thầy ra tàu.” Khanh cương quyết: “Tao bảo hai đứa mày tìm đường thoát đi. Tao không đi đâu cả. Tao nghe nhiều tiếng lựu đạn và súng nhỏ; như vậy là ‘cha con tụi nó’ sắp tới rồi. Tao phải ở lại ‘chơi’ với ‘cha con tụi nó’ cú chót.” Chắc gào to: “Không phải! Tiếng lựu đạn và súng nhỏ là do ‘tụi’ Thủy-Quân Lục-Chiến tự tử tập thể!” Khanh giận dữ: “Mẹ! Đi lính là để ‘uýnh’ giặc chứ đâu phải đi lính để tự tử!”
Nói xong Khanh mới chợt nhớ hành động nông nỗi của chàng lúc nãy! Chắc và Niên vừa nắm tay và chân của Khanh vừa gào: “Uýnh gì nữa mà uýnh! ‘Tụi’ Thủy-Quân Lục-Chiến hết đạn rồi!” Khanh vung tay khỏi tay Chắc rồi rút “ru-lô”, chỉa về Chắc: “Tao bảo hai đứa mày tìm đường thoát đi. Đi! Đi ngay không tao bắn!” Niên và Chắc chần chừ, nhìn nhau. Khanh lại bắn dọa một phát nữa. Chắc và Niên hãi quá, chạy đi…


******


Dân làng chia thành nhiều nhóm nhỏ. Nhóm đào huyệt. Nhóm ra bãi cát tìm xem quân nhân nào còn sống, đem về làng chữa thương.
Hoa – tốt nghịêp Sư-Phạm cấp tốc Qui-Nhơn, về dạy trường tiểu học Bình-An – đi theo nhóm người tìm quân nhân bị thương. Nhìn ánh nắng mai hững hờ long lanh trên triền sóng của một bãi cát ngập xác người, Hoa đau lòng.

Vừa sờ tay lên ngực của từng xác người Hoa vừa nghĩ đến cảnh quân Đồng-Minh đổ bộ vào bờ biển Normandy, trong phim The Longest Day, do Paul Anka, Richard Burton và Eddie Albert thủ diễn. Trong xi-nê, cảnh đổ bộ ở Normandy bi hùng bao nhiêu thì cảnh thật ngoài đời, trên bãi biển nghèo này, lại thảm khốc bấy nhiêu!
Sờ tay lên ngực một quân nhân có bảng tên Khanh, cảm thấy ngực còn ấm và tim đập thoi thóp, Hoa reo lên: “Người này còn sống. Nhanh lên!” Nhóm đàn ông chạy đến, nâng thân người mềm nhủn của Khanh đặt vào chiếc võng, võng về trường Bình-An, nơi được dùng làm trạm cứu thương dã chiến.
Hoa đề nghị nên dùng kéo cắt quân phục đậm đặc máu của thương binh để dễ tìm vết thương và cũng để, nhỡ Việt-Cộng về làng, Việt-Cộng sẽ không thể biết ai là lính. Sau khi phụ y-tá băng bó vết thương, Hoa lại đề nghị không nên để thương binh tập trung tại trường học, ngại Việt-Cộng sẽ về giết hết. Mỗi gia đình nhận một thương binh.

Hoa đã cẩn thận đến như vậy mà tối đó, do du kích báo cáo, Việt-Cộng về, lục soát và đâm chết nhiều thương binh! Khanh thoát chết nhờ Hoa và một học sinh – ngay sau khi trời vừa tối – kéo chàng ra vựa củi sau nhà, dời một ít củi, để Khanh nằm vào chỗ trống, phủ mền lên rồi lấy củi che lại.

Khi cơn lốc kéo về miền Nam, miền Trung có vẻ êm dịu, Hoa vào Huế mua thuốc trụ sinh về chữa vết thương cho Khanh.
Tất cả công khó của Hoa, Khanh đều ghi nhận và chịu ơn. Khanh làm tất cả những gì chàng có thể làm để tạo dựng gia đình, đem hạnh phúc đến cho Hoa. Nhưng khi Hoa đề nghị Khanh vất tấm ảnh của Ngọc-Lan thì Khanh từ chối: “Ngọc-Lan không đem phiền nhiểu đến cho em. Ngọc-Lan cũng không phải là mối đe dọa hạnh phúc giữa em, anh và các con.
Đối với anh, Ngọc-Lan cũng như những quân nhân thuộc cấp của anh; họ gắn liền với tuổi trẻ và đoạn đường đầy chông gai, nghiệt ngã của anh. Không thể nào anh quên họ được.” Dù không hài lòng với biện luận của Khanh, Hoa cũng im lặng để chứng tỏ mình là người cao thượng. Nhưng, mỗi khi nghe Khanh ngân nga ca khúc Les Nuits Sans Toi, Hoa im lặng không được, thường mỉa mai: “Sống với vợ con mà tối ngày cứ Les Nuits Sans Toi! Được rồi, anh muốn Les Nuits Sans Toi thì tui cho anh Les Nuis Sans Toi!” Không bao giờ Khanh ngờ đó là lời cảnh cáo rất nghiêm khắc của Hoa; vì thật lòng chưa bao giờ Khanh có ý phản bội hoặc xa lìa Hoa để tìm lại Ngọc-Lan.


******
Chiếc du thuyền nhỏ vừa rời chiếc Norwegian một khoảng ngắn, hướng dẫn viên du lịch cầm micro, phát âm bằng Anh ngữ: “Kính thưa quý vị! Chiếc du thuyền nhỏ này sẽ đưa chúng ta đến Bosphorus bridge, chiếc cầu nối hai miền Âu-Châu và Á-Châu.” Khanh chỉ những ngôi biệt thự mái đỏ, ẩn mình sau những rạng thông xanh, hỏi Ngọc-Lan:

- Nhìn khung cảnh đó Ngọc-Lan nhớ gì không?

Ngọc-Lan nhìn Khanh, mỉm cười, gật đầu; vì khung cảnh này trông rất giống Dalat. Khanh tiếp:

- Quê hương đẹp thường sinh ra những người con gái đẹp.

- Thôi, anh! Giờ này mà đẹp gì nữa; chỉ có thê thảm thôi!

- Nếu em cho là thê thảm thì anh rất trân quý sự thê thảm của em.

Nhớ lại những người đã từng theo đuổi mình - từ thời còn đi học cho đến sau khi gia đình tan vỡ - đều là người Huế, Ngọc-Lan nửa đùa nửa thật:

- Em đã nói với anh rồi. Em vừa đạp “vỏ dưa”, thấy “vỏ dừa” em sợ. Em sợ…mấy chàng thanh niên Huế lắm! Nhưng không hiểu tại sao em cứ bị “ghét của nào Trời trao của đó” vậy?

Lúc này Khanh mới nói rõ giọng Huế:

- Chàng thanh niên Huế ni thủy chung với em suốt mấy mươi năm qua, còn chi nữa?

- Anh sống với chị Hoa mà anh cứ Les Nuits Sans Toi là unfair. Và em không thể chấp nhận cảnh sống như chị Hoa.

- Anh biết anh có lỗi với Hoa. Nhưng trái tim có lý lẽ riêng của nó, lý trí không thể kiểm soát được.

- Em hiểu. Nhưng làm thế nào em có thể tin được rằng, từ ngày chị Hoa xa anh cho đến bây giờ, anh không có một phụ nữ khác.

- Thắc mắc của em cũng có lý; nhưng, hãy để thời gian trả lời.

Cuộc đối thọai vừa đến đây, Ngọc-Lan và Khanh đều chú ý đến giọng rền rền vang ra từ bờ, phía Á-Châu. Ngọc-Lan hỏi hướng dẫn viên du lịch và được biết đó là tiếng niệm kinh từ ngôi đền rất lớn, bên bờ sông.
Chiếc du thuyền nhỏ cặp vào bờ. Khanh và Ngọc-Lan cùng nhóm du khách vào chợ trời mua quà kỷ niệm. Trong khi đi bên nhau, Khanh tiếp nối câu chuyện lúc nãy:

- Nghĩa là em vẫn không tin anh, đúng không?

- Không hẳn là em không tin; nhưng tâm trạng của em bây giờ như một người thấy một hồ nước đẹp, nhưng chưa biết nông hay sâu cho nên chưa dám tắm mát. Thôi, em cứ đứng bên bờ, khỏa nước cho vui.

- Anh chưa thấy ai ví von một cách tượng hình như em.

Đến một gian hàng, trong khi Ngọc-Lan chọn quà kỷ niệm, Khanh bảo:

- Em đứng đây, đừng đi đâu hết. Anh đi mua gạch Bát-Tràng, anh trở lại ngay.

- Gạch Bát-Tràng là gạch gì? Anh mua để làm gì?

Khanh chỉ cười, khoát tay.

Khanh trở lại, trao Ngọc-Lan một mảnh giấy:

- Đây, gạch Bát-Tràng, em đọc đi.

Ngọc-Lan nhíu mày. Khanh đi mua gạch mà tại sao lại đưa mảnh giấy, bảo đọc? Thấy Ngọc-Lan chần chừ có vẻ hoang mang, Khanh tiếp:

- Đọc đi, Ngọc-Lan.

Ngọc-Lan mở mảnh giấy, thấy nét chữ nguệch ngoạc: “Trên trời có đám mây xanh. Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng. Ước gì anh lấy được nàng. Để anh mua gạch Bát-Tràng về xây. Xây dọc rồi lại xây ngang. Xây hồ bán nguyệt cho nàng chao chân…” (4)

Ngọc-Lan nhìn Khanh với ánh mắt đầy xúc động rồi cười như mếu. Khanh dang rộng đôi tay tỏ ý muốn “hug” người xưa. Ngọc-Lan từ từ ngã vào vòng tay của Khanh, tựa đầu lên vai chàng. Bỗng dưng Khanh và Ngọc-Lan nghe nhiều tiếng vỗ tay. Nhìn quanh, Khanh bắt gặp những nụ cười chung vui của nhóm du khách cùng đi với chàng trên chiếc du thuyền nhỏ.

Sau khi trở lại du thuyền Norwegian, Khanh hỏi:

- Ngọc-Lan muốn dùng cơm trưa ở đâu?

- Mấy hôm nay chưa ăn buffet; anh muốn dùng thử không?

- Ý kiến hay. Em muốn về phòng thay đồ, rửa mặt gì không?

- Đây là du thuyền Free Style, không cần bày vẻ. Nhưng em sẽ vào phòng vệ sinh ngay thang máy để rửa tay, rửa mặt.
-Ừ. Anh cũng vậy.

Đang cùng Ngọc-Lan đi chầm chậm để xem thức ăn được trưng bày dưới những ngọn đèn để giữ cho thức ăn được nóng, Khanh nghe:
- Kenneth Nguyen.

Khanh quay lại và nhận ra người láng giềng:

- Hey, Richard! Thật không ngờ gặp bạn ở đây.

- Tôi cũng đâu biết bạn cùng du lịch trên chiếc du thuyền này.

- Tại sao tôi không thấy bạn ở phi trường New York? Bạn đến đây bằng ngã nào?

- Chúng tôi chỉ mua vé du thuyền thôi; còn vé máy bay chúng tôi mua riêng. Bằng phương cách đó hơi bất tiện, nhưng chúng tôi tiết kiệm được đôi chút. Về hưu rồi, nhớ không?

- Cathy đâu?

Richard chỉ về chiếc bàn phía cuối thân tàu:

- Đó. Bà ấy ăn xong rồi, đang ngồi phơi nắng.

- Lấy thức ăn xong tôi sẽ đến chào Cathy.

- Bàn của chúng tôi có bốn ghế, Kenneth muốn ngồi chung không?

- Ô, vậy thì tốt quá. Cảm ơn bạn.

Khanh xoay sang Ngọc-Lan, tiếp:

- Đây là Ngọc-Lan, người bạn cũ mà tình cờ tôi gặp lại cách nay vài hôm; và đây là Richard, người bạn ở cạnh nhà anh hơn mười năm qua. Ngọc-Lan và Richard chào hỏi và bắt tay nhau. Cả ba người đến bàn Cathy đang ngồi. Sau khi Richard giới thiệu Ngọc-Lan, Cathy và Richard đều xin phép chỉ gọi Lan thôi, vì cả hai không thể phát âm chữ “ngọc”. Cả bốn người vừa ăn vừa chuyện trò về thời tiết; về những chuyến excursions đã qua và sắp đến; về buổi trình diễn đặc biệt vào tối nay, tại rạp hát chính của du thuyền. Chợt Richard chuyển đề tài:
- Nè, Kenneth! Mai là sinh nhật của bạn, bạn có tổ chức gì không?

Khanh cười lớn:

- Phải rồi! Đó cũng là ngày bạn bị tụi “Vi-Ci” “bắn sẻ”, bi thương. Tôi không quên đâu. Mai mình sẽ có những mục đặc biệt.

- Thường thường, sinh nhật của bạn, bạn làm gì?

- Nếu tôi ở nhà, các con của tôi sẽ về đưa tôi đi ăn, đi chơi và tặng quà cho tôi. Còn ở đây…

Khanh dừng lại, nhún vai. Richard khen Khanh may mắn có những người con hiếu thảo, cuối tuần nào cũng về thăm và đưa Khanh đi chơi, đi ăn. Khanh cảm ơn Richard, rồi hỏi:

- Richard! Ăn gì thêm không? Tôi muốn lấy thêm một miếng carrot cake.

Hai người đàn ông rời bàn. Ngọc-Lan muốn nhân cơ hội này hỏi dò về Khanh:

- Cathy! Tại sao lúc nãy Richard chỉ nói về những người con của Khanh mà Richard lại không khen vợ của Khanh lời nào hết vậy?

- Ô, Richard và tôi chỉ mới “chấp nối” khoảng năm sáu năm thôi. Những gì trước đó, tôi không biết. Kể từ khi ở sát cạnh nhà Kenneth, tôi không thấy người đàn bà nào cả - ngoại trừ cô con gái của Kenneth. Lan có quen với vợ của Kenneth không?

Ngọc-Lan lắc đầu, kể vắn tắt chuyến ủy lạo binh sĩ tiền đồn năm xưa cho Cathy nghe. Cathy bảo:

- Richard và Kenneth hợp nhau lắm. Mỗi khi nghe hai ông kể về những cuộc đụng độ giữa Nam và Bắc Việt-Nam, tôi tự hỏi tại sao trên thế giới này lại có những đơn vị phải chiến đấu trong điều kiện nghèo nàn khí giới đến như vậy?
Ngọc-Lan chưa kịp giải thích cho Cathy thì Richard và Khanh trở lại. Ăn xong miếng bánh, Richard đề nghị:

- Bây giờ chúng tôi về phòng, nghỉ. Tối nay, sau khi xem show ở rạp hát, chúng tôi sẽ đến chung vui với nhóm người Việt để nghe Kenneth hát. Hai bà đồng ý không?

Ngọc-Lan và Cathy đứng lên, vừa xách ví vừa đáp: “Sure! Sure!”

Đưa Ngọc-Lan về đến phòng, trong khi Ngọc-Lan đưa thẻ nhựa vào ổ khóa để mở cửa, Khanh hỏi:

- Anh vào phòng em được không?

Ngọc-Lan lắc đầu. Khanh tiếp:

- Mấy mươi năm rồi mà em vẫn khó như xưa.

- Em không còn gì nữa cả, ngoài chút tự trọng…

- Anh hiểu.

Nghe giọng không vui và thấy nét mặt buồn buồn của Khanh, Ngọc-Lan muốn làm cho Khanh cười:

- Anh là Biệt-Động-Quân, tốc độ tiến quân nhanh nhưng cũng phải dè dặt chứ. Anh “làm cái vèo” khiến em bối rối, tưởng anh đã trở thành phi-hành-gia!
Khanh cười, vỗ nhẹ lên vai Ngọc-Lan:
- Em vào nghỉ. Trước khi đi ăn chiều, anh gọi em, hẹn giờ. Em nhớ, em nên chọn chiếc áo nào em vừa ý nhất mà mặt cho tối nay, nha.


******


Tuy là chuyến viễn du Free Slyle, nhưng tối nay nhóm người Việt lại “diện” những bộ quấn áo đẹp nhất.
12 giờ đêm, phần văn nghệ tạm ngưng. Giữa khi mọi người khui champagne thì Richard và Cathy xuất hiện với y phục rất trang trọng. Richard đặt lên bàn một hộp lớn. Khanh giới thiệu Richard và Cathy với mọi người. Richard nói về Khanh với sự cảm mến rất đặc biệt và Richard xin mọi người cho vợ chồng ông cùng chung vui trong giây phút đầu tiên để mừng ngày sinh của Khanh. Mọi người vỗ tay.
Cathy mở hộp, lấy chiếc bánh có hình huy hiệu Biệt-Động-Quân ra, để lên bàn. Mọi người cùng “ồ” lên. Nhìn chiếc bánh, Khanh nghẹn ngào, không nói được một lời!
Đợi cho sự xúc động của Khanh lắng xuống, Richard, Cathy bắt giọng và mọi người cùng hát: “Happy Birthday to you. Happy Birthday to you…” Mọi người hát xong, Richcard đến bên Khanh:

- Bây giờ đến phần cắt bánh. Kenneth muốn cắt bánh hay Kenneth muốn Lan, người bạn cũ của bạn, cắt?

- Dĩ nhiên tôi sẽ dành vinh dự này cho Ngọc-Lan.

Sau khi ăn bánh, uống Champagne, Richard yêu cầu Khanh hát. Khanh tươi cười ôm Guitar đến micro:

- Kính thưa quý vị, tôi xin thành thật cảm ơn sự ưu ái mà quý vị đã dành cho tôi. Đây là một sinh nhật rất đặc biệt và rất khó quên của tôi.
Xoay sang Richard và Cathy, Khanh tiếp, bằng Anh ngữ:

- Xin cảm ơn Richard, người đã trải dài chuỗi ngày tươi trẻ trong những trận chiến kinh hoàng trên quê hương nghèo khó của tôi. Xin cảm ơn Cathy, bà láng giềng xinh đẹp và hiền thục của tôi. Và, xin cảm ơn Ngọc-Lan, người bạn yêu dấu.
Mọi người vỗ tay. Khanh tiếp:

- Tôi xin trình bày ca khúc Tôi Sẽ Đưa Em Về của Y-Vân.
Richard và Cathy đưa cao tay: “Yeah! Yeah!”

Khanh dạo đàn rồi hát: “Tôi sẽ đưa em về; về miền đất thân yêu; về kiếp sống cô liêu. Tình thương không còn thiếu…Tôi sẽ đưa em về mà không lo thiếu tình yêu.”
Hát xong, Khanh cúi chào, lấy Guitar ra khỏi vai. Nhưng Ngọc-Lan lại ngạc nhiên khi nghe cả nhóm người Việt đồng ca tiếp tình khúc đó – do sự sắp xếp của Richard và Khanh.

Trong khi cả nhóm người Việt tiếp tục hát, Richard đưa Khanh về phía Ngọc-Lan, mời nàng đứng lên. Ngọc-Lan chưa biết chuyện gì xảy ra thì Richard đặt tay Ngọc-Lan vào tay Khanh rồi đẩy nhẹ hai người về phía cửa:

- Hãy đi đi! Hai bạn hãy về nơi không thiếu tình yêu.

Nhóm người Việt đứng dậy, vừa tiến về phía Ngọc-Lan và Khanh vừa hát vang hai câu cuối:“…Tôi sẽ đưa em về… mà không… lo… thiếu….tình…yêu.”
Vừa bước đi Ngọc-Lan vừa thẹn thùng cúi mặt. Khanh tươi cười, siết chặt bàn tay người yêu và ngẫng nhìn vùng không gian chói lòa của Istanbul như nhìn những vì tinh tú huyền diệu trong vùng trời đêm…



* “Mượn” vài chi tiết từ tài liệu lịch sử:Hải-Quân V.N.C.H. Ra Khơi, 1975 của Điệp-Mỹ-Linh.
1.- và 2.- Mấy Dặm Sơn Khê của Nguyễn-Văn-Đông.
3.- Les Nuits Sans Toi của Dalida.
4.- Ca dao.

Nguồn : Nguyệt san Việt Nam (http://nsvietnam.blogspot.com/2016/10/truyen-ngan-tren-du-thuyen-norwegian.html#more)

thuykhanh
10-31-2016, 11:30 AM
Đứa Con Dị Chủng

Tác giả:
Minh-Đạo & Nguyễn Thạch-Hãn
Bài số 3314-12-28544vb6072911


Tác giả đã góp một số bài viết đặc biệt về chuyện đời tị nạn, và được đề cử vào danh sách chung kết Viết Về Nước Mỹ 2011.
Bút hiệu gồm 2 người: Minh-Đạo là một vị cao niên 86 tuối, viết lách cho... vui, trong khi Nguyễn Thạch Hãn, cư dân Houston, Texas sinh năm 1945, là một cựu sĩ quan Pháo Binh VNCH, hiện làm việc trong một công ty Energy tại thành phố Houston.
Sau đây là bài viết mới nhất của ông.


***





Lúc gần đây báo chí và các đài TV Việt ngữ bán tán xôn xao về ông Phó Thủ Tướng Đức gốc Việt. Tôi thật sự cảm động muốn khóc, không phải vì ông là người có tài, đẹp trai, ăn nói khôn ngoan hay làm lớn mà vì nếu cha mẹ nuôi không mang ông về Đức, chắc hôm nay ông cũng đã là kẻ lang thang đầu đường xó chợ ở một nơi nào đó trên đất nước Việt Nam.


Bạn tôi muốn kể cho quý vị nghe về một đứa trẻ bụi đời, lang thang đầu đường xó chợ trên đất Hoa Kỳ, nhờ mẹ nuôi Việt Nam mang về chăm sóc, dậy dỗ đã trở nên người hữu dụng.
Tôi lượm được thằng Michael ở bên xa lộ 45 South Trên đường từ Houston đi Clear Lake. Dạo đó vào khoảng năm 1982, tôi mới ra trường và bắt được một job thơm phức làm cho cơ quan NASA ở Houston
trong Mision Control Center, do một ông bạn học cùng lớp giới thiệu. Cuộc đời tôi gặp bao nhiêu là may mắn bất ngờ, đúng là trời cho. Cho nên tôi vẫn nhớ ơn ông Trời, cố gắng học làm người tử tế, dù có chịu thiệt
thòi một chút cũng cam lòng.

Số là hôm đó tôi đi làm trễ, vừa từ xa lộ rẽ vô NASA road 1, thấy một thằng nhóc đi bộ lang thang bên lề đường, vai mang túi sắc to tướng, kiểu túi sắc quân đội, như ngày xưa tôi nhận được khi mới vào trường Võ Bị. Nhóc đưa ngón tay cái lên ngoắc ngoắc xin quá giang. Tôi vội dừng xe lại hỏi:


-Mầy muốn quá giang hả?
-Yes, Sir!


Hắn vội vã quăng cái “sắc” quần áo ra sau xe truck, với tay mở cửa và nhảy phóc lên ngồi cạnh tôi. Mùi mồ hôi bốc lên nồng nặc. Không chịu nổi, tôi phải quay vội cửa kiếng xe xuống. Tôi hỏi chàng “Trẻ Tuổi Bụi Đời”:
-Mày muốn đi đâu?
-Đi đâu cũng được!
-Nhà mày ở đâu?
-Tôi không có nhà, mới từ OMAHA quá giang xe xuống đây.
Tôi nghĩ trong bụng: "Gặp thứ thiệt rồi”.


-Tao phải đi làm bây giờ, thôi tao thả mày xuống Clear Lake Park, ở đó có đủ cả phòng vệ sinh và chỗ che mưa nắng đến trưa tao kiếm cái gì cho mày ăn.
Bà xã tôi hay cằn nhằn về vụ cho mấy tay “bụi đời” quá giang xe. Kể ra thì cũng nguy hiểm, chẳng may gặp anh chàng khùng nào đó coi mạng người như cỏ rác, vậy là giống như trứng giao cho ác! Nhưng tôi quan niệm khác, sống chết có số, ngày xưa lúc còn xông pha trận mạc, mình đâu có tránh đạn được, toàn là đạn tránh mình thôi. Cho nên mỗi khi lái xe một mình, gặp người xin quá giang, nếu thuận tiện tôi vẫn “dzớt” như thường. Kể như đền ơn những người từng cho tôi quá giang hồi mới chân ướt chân ráo bước chân đến đất Mỹ này. Hồi đó, mỗi ngày đi làm phải lội bộ hàng mấy cây số trên đường đầy tuyết. Nếu gặp xe nào cho quá giang thôi mừng hết lớn.



Từ sở làm đến hồ Clear Lake chỉ mất vài phút lái xe, tôi vẫn hay ra đó ăn trưa, dỡn với mấy con chim hải âu bằng cách liệng lên cao một miếng bánh mì sandwitch thế là cả đám nhào xuống kiếm mồi, bu lại chung quanh, tôi chỉ vung tay ra cũng túm được một chú. Đôi khi buồn ngủ quá bèn đánh một giấc như “Những Ngày Xưa Thân Ái”.
Buổi trưa tôi mua 2 phần ăn rồi lái xe đi kiếm “Chàng Bụi Đời”. Đậu xe vào parking, nhìn ra mấy bàn picnic sát bờ hồ, thằng nhóc ngồi đó đang chăm chú xem cuốn album cũ nát. Thấy tôi đến, nhóc vội đứng lên chào và rất mừng rỡ, có lẽ vì túi đồ ăn khá lớn tôi mang đến. Hắn đưa cho tôi cuốn album và giải thích:
-Tôi thấy sau kiếng xe của ông có dán cái huy hiệu nhảy dù, chắc ông là người Việt Nam?
-Sao mày biết?
-Ba tôi cũng từng chiến đấu ở ViệtNam, trên mũ cũng có cái huy hiệu giống như cái ông gián sau xe. Đây ông xem có đúng không?

Hắn vừa nói vừa chỉ vào tấm hình chụp một chàng lính Mỹ mặt non choẹt, trên dưới 25 tuổi, đầu đội mũ đỏ của lính nhảy dù ViêtNam thời xưa, cổ áo mang hai bông mai vàng đàng hoàng. Nếu không có cái mặt Mỹ ai dám bảo không phải là lính nhảy dù VN?
Tôi nhìn tấm hình thấy quen quen, đúng là thằng Doug Salvatore, Trung Úy trong ban Cố Vấn của tiểu đoàn tôi. Sở dĩ tôi nhớ tên anh ta vì hắn hiền khô ít nói, rất thích đội chiếc mũ đỏ nhẩy dù lệch hẳn qua một bên, gặp ai trong tiểu đoàn bất kể cấp bậc, cũng dơ tay chào miệng lẩm nhẩm “hảy đù kú gắn” . Ai cũng cười hiểu rằng hắn muốn nói “Nhảy Dù cố gắng”, Doug cũng cười theo. Hắn hiền khô ít nói, nhưng mỗi khi nhờ gì hắn đều giúp đỡ tận tình, từ việc gọi hải pháo, phi vụ oanh kích, máy bay tải thương đến xin vật liệu xây cất doanh trại.
Mấy chiếc xe của tiểu đoàn hết bình điện muốn nổ máy, kêu hắn đến là xong ngay, đẩy xe chạy băng băng một chút xíu, thả chân số là nổ máy liền. Hắn có thêm một biệt danh khác là “cargo 5 tấn”, ý nói mạnh như xe vận tải 5 tấn. Thỉnh thoảng hắn còn mua tặng tôi cả đồ trong PX nữa. Lính trong tiểu đoàn gọi hắn là “Đất”. Biệt danh đó cũng gần giống với tên thiệt. Mỗi lần gọi “Đất” hắn chỉ nhe răng ra cười. Sau này biết được ý nghĩa của chữ “Đất” hắn càng thích thú hơn. Một lần tôi hỏi hắn, sao tên của bạn là Salvatore,
hơi giống như Salvadore vậy, thế bạn có phải gốc Nam Mỹ không? Hắn nói chẳng có liên quan gì cả, tổ tiên hắn đến từ Tây Ban Nha.
Hắn đã cứu tiểu đoàn tôi nhiều lần trong các cuộc hành quân thời “Mùa Hè Đỏ Lửa” nhờ xin được kịp thời những phi vụ yểm trợ vũ bão từ đệ thất hạm đội hay từ căn cứ Utapao bên Thái Lan.



Trong trận giải cứu An-Lộc, tuyến phòng thủ của đại đội bị chọc thủng. Tôi bị một mảnh cối vào bụng, cắt hết nửa lá gan, máu ra lênh láng. Thằng Đất một tay bắn M16, một tay kéo tôi vào gốc cây cao xu. Hắn xin trực thăng tải thương vào bênh viện dã chiến Mỹ, nếu không tôi chắc đã đi luôn rồi. Tôi mang ơn cứu tử của Đất từ ngày ấy.
Sau trận An Lộc, hắn về Mỹ. Tôi mất liên lạc với hắn từ ngày tan hàng. Bây giờ lại gặp con hắn ở đây, đúng là số Trời. Tôi mừng rỡ ôm lấy thằng bé, hỏi cuống quýt:
Tao là bạn của Doug, ba mày bây giờ ở đâu?
Hắn rớm nước mắt:
-Ba tôi chết cách nay 5, 6 năm rồi.
-Kể tao nghe đi, sao vậy?
-Ổng bị đụng xe trên xa lộ bởi một người say rượu, chết ngay tại chỗ.
-Má mày đâu mà để mày đi lang thang như vầy?
-Má tôi có chồng khác, tôi không thể sống với cha ghẻ nên bỏ nhà ra đi.
-Mầy đi má mầy có biết không?
-Cả nhà còn ngủ, nào ai biết.

-Mầy còn nhớ số phone nhà không.
-Tôi có đây, nhưng giá nào tôi cũng không về đâu.
-Tao đâu có nói là bắt mầy về nhà, chỉ là gọi cho má mày yên tâm thôi, để bả khỏi báo cảnh sát, mầy hiểu không?
-Dạ hiểu.
-Thôi được rồi, quăng đồ đạc lên xe rồi đi theo tao.
Tôi dẫn thằng bé lại Motel 6 và book cho nó một đêm, thủng thẳng tính kế giúp đỡ. Dù sao nó cũng là con của người bạn đã có ơn cứu mạng với tôi, tôi quyết tâm cứu lại con bạn.
Có câu của Phật dạy “xây 7 cái gì gì đó, cũng không bằng cứu cho một người” * Biết đâu cha nó đã dẫn nó
lại cho tôi?
Tôi dặn thằng bé, tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo đàng hoàng, chờ tôi sẽ tới đón nó trong vòng 2 tiếng đồng hồ nữa.
Tôi lái xe về sở, nói chuyện hoàn cảnh của thằng nhóc với xếp và mấy người bạn làm cùng nhóm, xin xếp cho nghỉ vài ngày để giúp đỡ nó. Mỗi người khuyên một câu, đại khái nói tôi phải cẩn thận với mấy đứa trẻ bụi đời. Chúng nó có cả ngàn chuyện rắc rối, hút sách, đánh lộn, cướp giựt, có khi nó còn thưa ngược lại là mình lợi dụng làm chuyện bậy bạ v…v…
Tôi đã quyết tâm cứu nó nên bỏ ngoài tai tất cả những lời khuyên chân thành đó. Tôi chở thằng nhóc vào sở và giới thiệu với mọi người, đồng thời gọi điên thoại cho mẹ nó, cho biết nó đang đứng cạnh tôi và muốn nói chuyện với bà.
Tôi tránh ra một nơi để hai mẹ con nói chuyện được tự nhiên. Một lúc sau trở lại, nhóc nói mẹ nó muốn đươc tiếp chuyện tôi. Bả ngỏ ý trao toàn quyền cho tôi và cầu xin tôi giúp cháu, bởi vì đời sống trong nhà bà như ở địa ngục, cha ghẻ con ghẻ không ngày nào là không gây gỗ nhau. Tôi chấp nhận lời khẩn cầu của bà, yêu cầu bà viết cho tôi tờ giấy, giao thằng Mike cho tôi, hứa không kiện tụng gì cả và phải có thị thực chữ ký đàng hoàng. Tôi cho bà địa chỉ nhà tôi, số điện thoại sở và phone nhà, cần gì cứ gọi cho tôi biết. Tôi nghĩ, có thể sẽ gặp rất nhiều rắc rối sau này, nhưng chấp nhận vậy. Xưa kia tôi đã từng chấp nhận biết bao rủi ro nguy hiểm khi ra trận, bây giờ có chút đỉnh nhằm nhò gì?
Tôi phân vân không biết có nên nói thiệt với bà xã không? Chắc phải nói rồi, nhưng dẫn nó về nhà chắc là bả không thể nào chấp nhận được. Đành phải gởi thằng nhỏ lại bà chị. Chị có một quán ăn VN. Khi còn ở quê nhà, chị cũng mở nhà hàng nho nhỏ, từng nuôi nhiều tay anh chị trong quán cho nên du đãng không đứa nào dám phá phách hay đòi đóng hụi chết!.
Tính tình chị phóng khoáng cởi mở, mấy đứa du thủ du thực đều nể mặt.
Buổi chiều, tôi dẫn thằng nhóc lại nhà hàng, kêu cho nó một dĩa cơm đồ biển thật to, thằng nhóc chỉ ăn một loáng là hết sạch, như thể đã nhịn ăn cả tháng rồi. Dặn nó ăn xong cứ ngồi đó.
Đợi vãn khách, tôi gặp chị, nói rõ hoàn cảnh của nó xin chị mở rộng tay cứu giúp nó, chỉ có chị mới giúp được nó thôi. Xin chị cho nó một chỗ ở tạm, còn mọi thứ khác tôi sẽ lo. Chị hơi lưỡng lự một chút, thở dài:


-Thôi được, sau khi đóng cửa tiệm, cậu chở nó về nhà, chúng ta sẽ nói chuyện với nó.
Tôi mừng rỡ quá xá, cám ơn chị rối rít, tôi quay đi để che giòng lệ tuôn trào, chị lúc nào cũng quan tâm và che chở bao bọc tôi. Cha mẹ mất sớm, chị săn sóc và nuôi nấng tôi như mẹ, lúc nhỏ tôi vẫn sống với chị cho đến khi nhập quân ngũ. Những lần bị thương thập tử nhất sinh chị vẫn là người bên cạnh tôi.
Lớn lên mỗi khi gặp rắc rối trong cuộc đời, tôi đều chạy đến chị. Thật là Ông Trời đã cho tôi một bà chị để thay thế mẹ.
Chị góa chồng từ năm 1970, ở vậy nuôi ba đứa con trai. Tôi và gia đình chị đã may mắn thoát được trong những giờ phút cuối cùng của miền nam, nhưng đứa con thứ nhì của chị đã ra đi vĩnh viễn trên đường vượt biên, trong lúc con tàu còn lênh đênh trên đại dương.

Qua Mỹ, hai chị em xin được việc làm trong một nhà hàng tàu. Chị phụ nấu bếp, còn tôi làm chân “chạy bàn”. Chị bắt tôi phải đi học, chỉ cho làm cuối tuần thôi. Nhiều khi thấy chị vất vả quá, tôi xin chị cho tôi nghỉ học để phụ giúp gia đình nhưng chị cương quyết từ chối. Chị nhắc nhở tôi đó là bổn phận của chị đã được cha mẹ giao phó trước khi nhắm mắt, phải lo cho tôi ăn học đến nơi đến chốn, thành gia thất đàng hoàng, nếu không sau này làm sao nhìn mặt các người nơi suối vàng.
Mỗi năm, vào ngày giỗ cha mẹ, chị bắt tôi phải thề trước vong linh các Người là không được bỏ học dù
bất cứ hòan cảnh nào, cho nên tôi cố gắng học, vật lộn với tiếng anh tiếng u, những phương trình đại số và toán giải tích. Những thứ đó chỉ còn lờ mờ trong trí óc cằn cỗi của tôi sau bao nhiêu năm lăn lộn ngoài chiến trường. Nhiều khi làm bài không kịp phải ngủ đêm ngay tại trường trong các phòng học. Có lần mệt mỏi quá, tôi đã ngủ gục khi lái xe về nhà, rõ ràng tôi đã thắng xe lại khi đến đèn đỏ, thế mà vẫn tông vào đít xe trước mặt. Báo hại phải năn nỉ chủ xe rồi bỏ tiền túi ra thường.
Đã bao lần tôi muốn bỏ cuộc nhưng tôi tự nhủ “Nhảy dù cố gắng!” nhưng phần lớn vẫn là không muốn phụ lòng mong ước của chị. Ngày tôi ra trường, khi nhìn thấy tôi được gọi tên lên lãnh bằng, chị là người la to nhất hơn cả mấy đứa nhóc. Chị sung sướng hơn cả tôi, tôi ra trường, nhưng mảnh bằng là của chị, công lao là của chị. Hai chị em ôm nhau chụp hình kỷ niệm mà nước mắt chị ướt trên ngực áo tôi. “Thế là tâm nguyện của chị đã thành, chỉ còn việc cưới vợ cho cậu nữa là xong” chị nói với tôi như thế trong buổi tiệc ăn mừng.
Tôi đã già đầu rồi, bao nhiêu năm chiến trận, đã từng chỉ huy hơn một đại đội nhảy dù, thế mà chị vẫn nghĩ
tôi còn con nít.



Trở lại chuyện thằng nhóc, 10 giờ tối, tiệm bắt đầu dọn dẹp đóng cửa. Tôi dẫn nhóc lại giới thiệu với chị và xin phép chị chở thằng nhóc về nhà trước.
Tôi cắt nghĩa qua loa về phong tục tập quán của người Việt, kính trọng người lớn tuổi hơn mình, nhất là người già cả, thế nào là tiên học lễ hậu học văn, kính trên nhường dưới.
Những điều căn bản đạo đức của người Việt không tìm thấy trong sách giáo khoa ở trên đất Mỹ này. Nhóc hứa với tôi từ nay sẽ chăm chỉ học hành không la cà hút sách nữa. Nghe vậy tôi cũng yên lòng. Tôi thấy thương nó như chính con tôi vậy.
Buổi tối, cả nhà quây quần trong family room. Thằng nhỏ được mang ra trình diện:
-Đây là Mike, còn đây là bà Ánh, hai người con của bà là Dũng và Trí.


Cả nhà bắt tay nhau và nói lời chúc tụng xã giao. Bà chị tôi dặn thằng Mike:
-Từ nay con gọi ta là Má Ba, mặc dù tên của ta là Ánh, ta đã nhận con là con, ta sẽ đối xử với con như hai đứa con của ta, con có chịu không?
Thằng nhóc nói lý nhí:
- Yes Má Ba.
-Con bao nhiêu tuổi?
-Dạ 13.
-Thằng Trí 16 là anh Hai, thằng Mike ta đặt tên VN là Mai là anh Ba, thằng Dũng trẻ nhất 12 tuổi là Út cũng gọi là thằng Tư nghe chưa. Tất cả đều dạ ran, thằng Mike chẳng hiểu đầu đuôi ra sao tôi phải cắt nghĩa cho nó hiểu.


- Con lớn nhất của Má Ba nick name goi là number two, nó được gọi là number three, trên thằng Tư một bực.
Nó thắc mắc sao không có number one. Má Ba trả lời đó là luật lệ. Còn luật nữa là ở nhà chỉ nói tiếng Việt thôi. Bắt đầu từ ngày mai, thằng Mai cũng phải nói tiếng Việt. Má Ba cho một đặc ân, trong mấy tháng đầu, nếu thằng Mai không biết tiếng Việt cho phép thằng Hai và thằng Út nhắc nhở.
Chị tôi nói tiếp:
-Ngày mai cậu Út dẫn thằng Mai đi xin học, về nhà phải học và làm bài tới 9 giờ tối, sau đó muốn coi TV hay làm gì khác tùy ý, 10 giờ tối phải đi ngủ. Chủ nhật phải đi lễ sớm, thằng Mai phải ghi danh học Việt Ngữ ở trường Nhà Thờ như hai đứa kia. Thằng Út lên dọn phòng cho thằng Mai ngủ.
Tôi cười nói với chị:
- Toàn là “phải” này “phải” kia y như bà “xếp” của em vậy. Thằng Mai “phải” nghe lời Má Ba nghe chưa!
Nhóc vội vàng trả lời: “Yes, Sir!”
Chị lườm tôi:
-Mấy đứa này phải dặn kỹ càng như vậy mới được, còn không vào lỗ tai này ra lỗ tai kia mất cậu ơi!
Hướng về thằng Mai chị tôi hỏi:
-Sao mày bụi đời?


Thằng Mai rớm nước mắt, ngập ngừng một lúc mới thốt nên lời:
-Má Ba ơi, con rất cô đơn và buồn khổ, lớn lên không cha. Cha ghẻ của con là một người cọc cằn, khó tánh và nghiện rượu, trong nhà cãi lộn xảy ra hàng ngày. Tất cả giận dữ của mẹ và cha ghẻ đều đổ lên đầu con. Cuối cùng con phải bỏ nhà ra đi.
-Rồi mày ở đâu, làm sao mà sống?
-Con phải ngủ dưới gầm cầu hay trốn vào mấy căn nhà bỏ trống. Ăn cắp đồ, lục thùng rác hay bán cần sa ma túy để kiếm sống.
Chị xoa đầu thằng nhóc và khuyến khích nó rồi dẫn tôi đến thắp nhang bàn thờ cha mẹ, hứa sẽ chăm nuôi thằng Mai như con chị. Chị nói với tôi có lẽ Chúa mang thằng Mai cho chị, để an ủi chị những lúc thương nhớ thằng con đã bỏ chị ra đi.
Thế là chị lại có ba đứa con như xưa. Tôi thấy chị lau vội hai giọt nước mắt vừa lăn trên má.


Bà chị tôi áp dụng luật lệ giang hồ và rất nghiêm khắc với mấy đứa con. Anh rể tôi qua đời từ khi mấy đứa còn rất nhỏ.
Anh là một Phật tử thuần thành, vẫn hay đi Chùa vào những dịp lễ lớn. Chị là con chiên của Chúa, hai người khác đạo nhưng vẫn sống với nhau hòa thuận, đạo ai nấy giữ, mấy đứa con thì vừa cho đi nhà thờ vừa cho đi chùa. Sau khi anh mất chị ở vậy, làm ăn vất vả để nuôi con ăn học. Qua Mỹ, tôi và chị đi làm công một thời gian, hai chị em để giành được một số vốn nhỏ rồi mở tiệm ăn VietNam. Bạn bè Mỹ của mấy đứa cháu đến nhà chơi phải nói tiếng Việt và ăn đồ ăn Việt Nam. Có lần chị giải thích với mấy đứa con:
-Chúng mày tới nhà bạn phải nói tiếng Mỹ, tiếng của cha mẹ chúng nó phải không? Ăn đồ ăn của cha mẹ chúng nó phải không? Vậy thì chúng nó cũng phải nói tiếng Việt và ăn đồ ăn của tao, thế mới công bình chứ.
Mấy đứa con hết ý luôn.

Mấy đứa nhóc Mỹ ăn đồ ăn VN riết rồi đâm ghiền, món gì cũng không từ, nước mắm, mắm tôm cũng mê luôn. Chúnggọi mắm tôm là mắm “con chuột”.
Chỉ một thời gian ngắn, thằng Mai đã có thể nói chuyện thông thường hằng ngày bằng tiếng Việt. Nó lớn lên trong tình thương gia đình của chị tôi, nó rất hãnh diện có một mái nhà ấm cúng và một người mẹ thương yêu chăm sóc cho nó .
Ngày thường cả ba đứa nhỏ đều đi học. Ngày Chủ Nhật, sáng đi lễ nhà thờ rồi theo học lớp Việt ngữ tại đó, chiều đi lên chùa học võ VOVINAM và họp Hướng Đạo. Ngày này qua tháng nọ, thằng Mai đã thành một đứa nhỏ Việt Nam từ cách
ăn nói lễ phép, đi thưa về trình hẳn hoi, biết khoanh tay chào người lớn tuổi, biết cầm hai tay dâng đồ ăn cho Má Ba, biết quỳ lạy trước bàn thờ cha mẹ tôi. Ngày Tết cũng biết mừng tuổi chị tôi, biết cầm cờ vàng đi biểu tình ngày quốc hận.
Nó hòa đồng với tụi nhóc VN chẳng khó khăn gì. Gặp người Việt họ vẫn tưởng Mai là đứa con lai, ai cũng khen ngoan và lễ phép, có đâu ngờ rằng nó là thằng Mỹ con chính hiệu con nai vàng! Nếu mấy đứa con nít Việt Nam lớn lên trên đất
Hoa Kỳ bị gọi là “Chuối” , ngoài da vàng, nhưng trong đầu óc đã Mỹ hóa hoàn toàn! Thì phải gọi thằng Mai là bánh bao, ngoài thì trắng trong thì hầm bà lằng đủ thứ.
Mai và thằng Út học chung một lớp, đi đâu cũng có nhau, anh em rất thân thiết. Nó hay săn sóc hỏi thăm sức khỏe chị tôi, bắt chước thằng Út rót nước mời chị mỗi khi chị đi làm về, đôi khi còn nấu những món ăn nhà quê của người bản xứ mời chị ăn. Má con càng ngày càng thắm thiết. Chị cũng rất thương nó, có khi còn hơn cả mấy đứa con ruột của chị.
Chị vẫn hay than thở với tôi “Tội nghiệp thằng Mai, có mẹ cũng như không.”



Một hôm chị nhờ tôi vô trường xem có chuyện gì xảy ra cho thằng Mai và thằng Út, vì nhà trường yêu cầu chị đón chúng nó về nhà. Hai đứa đã đánh lộn với một đám học sinh khác trên xe bus và bị đuổi học hai ngày. Chị tôi chửi cho một trận nên thân và phạt đứng úp mặt vào tường 2 giờ và dặn lần sau không được đánh lộn nữa.
-Tại sao hai đứa mày đánh lộn, chị hỏi.
Thằng Mai giành phần:
-Tại mấy đứa học sinh trên xe bus chọc ghẹo thằng Út ăn hiếp nó, gọi nó là “chink choong” hay “Ê Chinese go home”.
Con đã nói thằng Út với con là anh em, chúng nó không chịu để yên thằng Út. Thế là đánh nhau.
-Lần sau phải thưa nhà trường, không được đánh lộn nghe không, tao bảo không nghe, tao không chửi bằng tiếng Việt nữa đâu. Tao sẽ ra trước cửa nhà chửi chúng mày bằng tiếng Mỹ cho tất cả hàng xóm nghe cho xấu hổ cả lũ.


Từ đó thằng Mai không giám đánh lộn nữa.




***


Mai và Út ra High School cùng một lượt, rồi ghi danh vào UT (University of Teaxas at Austin) cùng với anh Hai của chúng. Tôi mua cho hai đứa một chiếc xe Toyota nhỏ để thỉnh thoảng về thăm nhà. Tôi nhận phần
trợ cấp tài chánh cho ba đứa nhỏ thêm vào số tiền trợ cấp của chính phủ, để tiếp tục chương trình đại học. Chị tôi cuối tuần nào cũng lái xe lên Austin để tiếp tế đồ ăn cho mấy nhóc. Chị một đời làm thân cò lặn lội
bờ ao, nay tóc đã bạc quá nửa, con cái đã đi hết, nhà cửa thật trống vắng. Tôi mời chị qua ở chung với tôi, nhưng chị một mực từ chối, tôi phải biểu mấy đứa nhỏ nhà tôi qua thăm hỏi chị luôn. Đôi khi chúng ngủ
luôn lại nhà chị và coi chị như mẹ chúng.
Một hôm tôi nhận được cú điện thoại của thằng Mai gọi về:
-Cậu Út ơi, cứu con với.
-Mày làm sao vậy?
-Con đang ở City Jail! Cậu đừng cho Má Ba hay nghe, bả biết được, chửi con thì cả hàng xóm đều biết, con xấu hổ lắm không dám về nhà đâu.
-Mày biết xấu hổ sao còn làm bậy.
-Con bị oan Cậu ơi.
-Mấy thằng trong tù, đứa nào mà chẳng kêu oan.
-Cậu không tin con, chứ ai tin con bây giờ?
-Nói tao nghe thử oan nỗi gì.
-Con gọi điên thoại trong nhà tù, chỉ được gọi giới hạn thôi. Cậu lên đây bail con ra rồi con sẽ giải thích cho Cậu nghe,
Cậu phải tin con mới được.
Tôi sợ thằng Mai dính vào cần xa ma túy thì tiêu đời, tôi vội hỏi nó:
-Mày buôn bán ma túy phải không?
-Đâu có nào, con bị cánh sát gài bẫy, nói là con solicit prostitutes.
Tôi thở ra nhẹ nhõm, chỉ là tội thường phạm thôi, chắc chỉ bị cảnh cáo hay làm public service vài giờ là cùng.
-Thôi được, mai tao sẽ lên đó lãnh mày về.
Sáng hôm sau lên đến nơi, Mai đã được chuyển về nhà tù của County rồi. Tôi phải nhờ văn phòng “Bail Bond” để lãnh
nó ra, trả hết 500 Đô tiền bail và $250 tiền lệ phí cho văn phòng. Sau khi nạp tiền bail, thằng Mai được thả ra chờ ngày ra tòa. Tôi hỏi Mai:
-Mày nói cho Cậu nghe, làm sao mà cảnh sát bắt mày?
-Cậu ơi, oan con thiệt mà. Sáng hôm qua con đi đổ xăng, thấy có con nhỏ bị hư xe, con tới coi giúp nó, cuối cùng là chẳng có hư gì cả chỉ là hết xăng thôi.
-Nó ăn mặc sexy lắm phải không?
-Sao Cậu biết?
-Thì nó muốn làm mờ mắt mày để nó nói gì thì mày cũng OK, tao còn lạ gì chuyện đó.
-Cậu còn chọc quê con nữa! Con nhỏ nói nó đi bụi đời vì không ở nhà được với cha ghẻ, mấy hôm nay sài hết tiền rồi, chẳng còn xu teng nào trong túi. Con nghĩ tới hoàn cảnh của con ngày xưa nên muốn giúp nó, giống như Cậu đã giúp con vậy.
-Thế tao giúp mày tao có bị cảnh sát bắt không?


-Cậu đừng la con nữa mà. Nó nói cái gì nhỏ lắm con nghe không rõ con nghĩ là nó muốn xin tiền để đổ xăng. Dù nó không xin thì con cũng cho mà, thế là con đưa cho nó 20 Đô. Con nhỏ vừa cầm tiền là đám cảnh sát chìm nhào tới còng tay con liền. Con hỏi tại sao họ bắt con, họ nói là con mắc tội mua dâm. Con nói chỉ là cho tiền con nhỏ đổ xăng thôi, không tin cứ hỏi con nhỏ kia thì rõ, đám cảnh sát nói mai mốt ra Tòa mà cãi.
-Con nhỏ đó cũng là cảnh sát chìm để gài bẫy mày thôi, mầy xập bẫy rồi làm sao ra được.
-Con xin con nhỏ nói vài lời công bằng cho con, nó chỉ cười cười thôi. Con muốn đục cho nó mấy cái quá đi.
-May mà mày không đục nó, chỉ nặng tội thêm, thôi được đi kiếm cái gì ăn đã, tội mày cũng nhẹ, để tao nhờ luật sư lo cho. Lần sau muốn giúp ai phải cẩn thận. Mày phải lựa lời nói cho Má Ba biết, kẻo mai mốt bả biết được thì liệu hồn đó.
-Vậy tối nay con sẽ gọi cho Má Ba, Cậu nhớ nói giúp con một tiếng nghe, không thôi bả chửi con sặc máu đó.
-Người ta nói “oánh sặc máu” chứ chửi sặc máu sao được mày!
-Thì con nói vậy Cậu hiểu rồi, Má con chửi cũng sặc máu đó Cậu ơi!
-Biết dzậy sao còn làm bậy.


-Con oan mà Cậu.
Tôi nhờ văn phòng bail bond giới thiệu một luật sư, giá 300 Đô lệ phí.
Vì chưa có tiền án, thằng Mai chỉ bị phạt 2 ngày làm công tác công đồng thôi.*
Mai và Út ra trường cùng một lượt. Chị Ba và tôi cùng đi dự lễ mãn khóa, Chị rất mừng, ôm hai đứa con mà mắt đỏ hoe nói với chúng:
-Các con ơi, đây là sự thành công lớn nhất trong đời Má, tất cả các con đã thành tài và nên người.
Mẹ ruột của Mai vì bịnh nặng không thể đến được, ba ghẻ của nó cũng không muốn đến. Thằng Út được hãng Boeing ở Seattle nhận vào làm, Út ở chơi với Mẹ hai tuần rồi đi nhận việc. Thằng Mai đã có ý ở nhà với chị tôi, nên ngỏ ý:
-Má à, đã từ lâu con nghĩ, anh Hai và thằng Út đều đi làm ở xa, con muốn ở lại nhà để săn sóc Má, cho nên con đã nạp đơn vào trường Baylor College of Medecine ở Houston. Khóa Fall sắp tới sẽ nhập học. Con xin Má cho con về thăm Mẹ con ở OMAHA rồi trở lại ngay. Từ nay con sẽ mãi mãi ở nhà với Má và chăm sóc cho Má suốt đời.


Chị tôi rất cảm động khi nghe những lời chân tình đó, không cầm nổi nước mắt, ôm thằng Mai khóc vùi:
-Má rất cám ơn con đã lo cho Má, con không cần phải làm vậy, Má tự lo được mà.
-Má không sinh ra con nhưng đã cứu vớt con từ bãi sình lầy và ban cho con đời sống mới đầy ắp tình thương, chăm chút cho con từng miếng cơm manh áo. Không kể những ngày đau ốm bênh hoạn, Má luôn luôn ở bên con, cầu nguyện cho con chóng khỏi. Tha thứ cho con bao lỗi lầm.
-Thiên Chúa đã mang con giao cho Má, Má chỉ làm bổn phận của một người mẹ như bao nhiêu người mẹ khác trên thế gian này.
Mẹ ruột thằng Mai bị ung thư phổi, qua đời chẳng bao lâu sau đó. Tôi và thằng nhóc bay về Omaha đưa đám, đó là lần cuối cùng nó gặp lại mẹ và cha ghẻ. Ông nay cũng đã già lắm rồi, những chuyện cũ hầu như không nhắc lại nữa, nhưng khoảng cách thì vẫn còn đó. Khó cho ai mở đầu một cuộc hòa giải, mặc dầu cả hai đều muốn. Tôi phải làm một nhịp cầu để hai người bắt đầu đối thoại và tha thứ cho nhau. Chỉ là những hiểu lầm thôi. Ngày chia tay, Ông Già và thằng Mai ôm nhau khóc vùi, những giận hờn đều trôi theo giòng nước mắt.




***


Mấy năm qua thật mau, Thằng Mai ra trường và nội trú tại Texas Children Hospital trong khu vực Medical Center ở Houston.
Nó muốn trở thành một Bác sĩ con nít để săn sóc cho trẻ em, nhất là những trẻ em bụi đời. Thằng Mai bây giờ đã là một Bác Sĩ, nhưng với tôi nó vẫn chỉ là thằng nhóc bụi đời. Nhóc được rất nhiều trường hoc và Juvenile Probation Center mời đi nói chuyện về đề tài “Run Away From Home”. Trẻ Em Bụi Đời..
Nó trở thành một thần tượng của đám con nít vô gia đình. Nhưng không phải đứa nào cũng may mắn như nó, phải có một cơ duyên và một quyết tâm sắt đá mới vượt qua bao thử thách. Đường đời có bao nhiêu ngã rẽ, được mấy khúc phẳng phiu?



* chú thích: Dù xây chín vạn phù đồ,
Không bằng làm phước cứu cho một người (cadao)

Nguồn:Trang nhà Quảng Đức (http://quangduc.com/a59540/dua-con-di-chung)

thuykhanh
02-20-2017, 12:10 PM
Hai Trăm Quả Đại Bác


Sáng chủ nhật, trời Florida thật đẹp. Chúng tôi về chùa Long Vân cầu siêu cho mẹ một người bạn vừa khuất núi.

Vừa bước vào hậu liêu của chùa, tôi gặp ngay mấy người bạn thân đã tề tựu, trong đó có một người mà tôi quen gọi là ông Quận. Anh là cựu
sĩ quan Võ Bị Đà Lạt và từng giữ chức vụ quận trưởng một quận của miền Nam trước năm 1975. Tôi bắt tay bạn bè. Đến lượt bắt tay ông Quận
tôi cười:
- Chào ông Quận! Anh luôn luôn đúng giờ. Khỏe không anh?
Ông Quận cũng cười tươi:
- Khỏe, khỏe. Anh thì sao? Dạo nầy ít thấy anh đến chùa.
- Tôi đi du lịch xa nên phải vắng mặt ở chùa mấy tuần.
Chúng tôi ngồi chuyện vãn chờ đến giờ làm lễ cầu siêu. Tôi chợt nhớ ra một câu hỏi dành cho ông Quận. Tôi quay sang anh:
- Ông Quận nầy, tôi định viết lại câu chuyện anh kể cho tôi nghe mấy tháng trước mà tôi lại quên lửng mấy chi tiết nên chưa viết. Anh nhắc lại
dùm tôi vài chi tiết nhé!
Ông Quận cười:
- Chuyện gì? Mà anh quên chi tiết gì?
- Chuyện Hai Trăm Quả Đạn Đại Bác đấy.
Ông Quận lẩm bẩm:
- Hai trăm quả đạn đại bác, hai trăm quả đạn…
Rồi chợt nhớ ra, anh vội chắp hai bàn tay trước ngực, mắt lim dim:
- Mô Phật! Mô Phật! Tội lỗi! Tội lỗi!
Tôi bật cười lớn. Các bạn ngồi quanh không hiểu sao tôi cười lớn nhưng nhìn dáng dấp ông Quận, các bạn cười theo. Tôi giải thích cho các bạn:
- Ông Quận bạn tôi bây giờ hiền như Bụt nhưng ngày xưa là tay sát thủ nhà nghề. Từ ngày qua Mỹ, gần 40 năm nay, đã theo vợ đi chùa sám hối
tội lỗi rất nhiều. Tôi vừa nhắc chuyện xưa đời lính của ông nên ông Quận giật mình.
Ông Quận nhìn tôi:
- Nhắc lại thôi sao? Anh còn định viết lại thành truyện cho thiên hạ đọc mới chết tôi chớ. Tôi chót dại đã kể cho anh nghe quá nhiều về đời lính
của tôi. Tội lỗi! Tội lỗi!!
Tôi hạ giọng:
- Tôi không có sức mà viết lại hết cuộc đời chinh chiến của anh đâu, tôi chỉ gắng viết vài chuyện để chia xẻ cùng bạn bè và để dành cho con cháu
mình đọc cho chúng biết cha ông chúng chiến đấu bảo vệ quê hương Việt Nam như thế nào…
Vài bạn cũng tham gia khuyến khích ông quận:
- Nên viết lại chuyện chinh chiến xưa lắm anh. Tôi cũng có những điều muốn viết mà đâu có khả năng viết được. Một mai mình nằm xuống thì
coi như mình mang theo quá khứ vui buồn, không thể chia xẻ cùng ai…

Từ ngày quen nhau ở chùa, chúng tôi trở thành bạn thân, thường kể cho nhau nghe chuyện đời học sinh, chuyện đời lính. Chuyện chiến đấu
gian nguy khắp mọi miền đất nước của anh hấp dẫn tôi vô cùng. Một ngày nắng ấm tràn ngập sân chùa, anh kể cho tôi nghe chuyện anh đi làm
quận trưởng một quận của miền Nam:
- Những ngày chiến đấu ở Quảng Trị thật gian khổ. Ngày đêm, chúng tôi thường phải sống dưới hầm. Có lần vợ tôi đến thăm bị pháo kích suýt
nguy tính mạng. Tôi cũng dần dần thấm mệt nên chấp nhận thuyên chuyển về miền Nam làm quận trưởng.

Cái quận mà tôi được biệt phái về cũng đang trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng. Ban đêm du kích hoành hành. Chúng bắt cóc thanh niên, ép họ
đi theo chúng, chúng ám sát cán bộ, thường dân, những người không nghe, không làm theo lệnh chúng. Tôi về đó phải tổ chức lại mọi cơ cấu,
huấn luyện lại binh sĩ và cán bộ, dần dần loại trừ được nội tuyến, xây dựng lại cơ sở phòng thủ và sắp đặt kế hoạch tấn công tiêu diệt địch.
Dân chúng bắt đầu yên tâm, giúp đỡ chúng tôi một cách âm thầm để tránh bị du kích trả thù. Binh sĩ và cán bộ tin tưởng nơi tôi nên hăng hái
chiến đấu, phòng thủ và tấn công. Nhiều binh sĩ tình nguyện giả làm du kích, ban đêm đi ruồng bắt những người mà họ biết chắc là địch, ban
đêm là du kích, ban ngày giả dạng thường dân hiền lành. Tin tức tình báo từ dân rất có hiệu quả. Chúng tôi dần dần thanh toán được những
thành phần địch ẩn náu trong dân gây kinh hoàng cho thôn xóm.

Một hôm, một người dân trong quận, giả làm người bán hàng rong, đến quận báo cho chúng tôi biết là một toán du kích từ trong rừng ra,
đã bắt cóc thằng cháu 10 tuổi của ông và đòi tiền chuộc một triệu đồng. Một tiệu đồng thời đó giá trị rất lớn. Chúng biết ông có đủ lúa để chuộc
thằng cháu. Ông cho biết nếu ông trễ nãi không chuộc cháu kịp thời hạn chúng đưa ra thì chúng sẽ thủ tiêu thằng cháu duy nhất của ông. Thấy
người dân bị du kích làm điêu đứng tôi đau lòng. Chúng tôi an ủi ông và hứa sẽ tìm cách giúp đỡ. Ông về rồi, tôi cho người thân cận điều tra
và được biết chuyện bắt cóc đòi tiền chuộc là có thật và rất thường xảy ra trong quá khứ. Du kích đã sử dụng chiến thuật nầy từ lâu và thu góp
được rất nhiều tiền của, lúa gạo của dân để nuôi quân.

Bộ tham mưu của tôi giúp tôi bàn tính kế hoạch giúp đỡ người bị nạn và đáp ứng thích đáng với hành vi ăn cướp của du kích. Ông X, người dân
đang bị nạn bằng lòng hợp tác hoàn toàn với kế hoạch của chúng tôi. Đúng ngày giờ hẹn với du kích, một bà cụ từ gia đình ông X mang trên vai
bao tiền một triệu đồng đi vào một khu rừng được du kích chỉ định cách quận lỵ chúng tôi mấy cây số.
Bà cụ được chúng tôi dặn dò kỹ càng rằng sau khi trao bao tiền cho toán du kích thì mau mau dẫn thằng bé đi thật nhanh ra khỏi khu rừng.

Tôi đứng trên chòi canh cao của quận đường, dùng ống nhòm quan sát cử động của bà cụ. Đợi hai bà cháu bà cụ vừa ra khỏi khu rừng
một khoảng cách an toàn, tôi ra dấu cho chi đội pháo binh của quận tác xạ ngay vào khu rừng. Đạn đại bác 105 ly nổ vang, nổ chụp lên khu rừng
rộng khoảng 1km vuông. Binh sĩ pháo binh của tôi bắn hăng say và liên tục. Khu rừng tan nát, sụm xuống, buị lửa mù trời. Khi tiếng đại bác vừa
ngưng, toán biệt kích của tôi tràn vào khu rừng kiểm soát kết quả. Máu thịt, súng ống, quần áo của nguyên một trung đội quân du kích và một triệu
đồng tiền giấy vung vãi khắp nơi, trên mặt đất và trên cây lá. Chắc không còn sinh vật nào sống sót trong vòng 1 km vuông rừng đó. Tôi hỏi viên
trưởng toán pháo binh bắn hết bao nhiêu đạn. Anh ta cho biết chỉ dùng 200 viên đạn cũ để lâu chưa dùng, số đạn mới nhận để dành khi cần.
Anh ta nói thêm, “Chúng em muốn đưa nguyên đám bọn chúng về chầu diêm vương một lần với nhau để cho dân lành bớt khổ và cũng để cảnh
cáo tên nào còn muốn đi ăn cướp thì có dịp ăn đạn…”

Từ sau trận bị pháo kích, bọn du kích từ bỏ luôn chiến thuật bắt cóc đòi tiền chuộc. Những người dân từng bị chúng hành hạ, áp bức cũng thấy hả
dạ. Chúng không còn công khai hoạt động gieo kinh hoàng cho dân lành.

Kể xong câu chuyện, anh ngồi yên lặng một chặp như để hồi tưởng một thời khói lửa, chết chóc trong chiến tranh. Tôi hỏi nhỏ:
- Sau trận đó, cảm giác anh ra sao?
- Buồn! Cho tới bây giờ, đôi khi đêm tôi còn nằm mơ thấy đạn pháo nổ chụp trên cánh rừng, còn thấy máu thịt vung vãi khắp nơi. Nhưng nếu
họ có đủ lương thực, vũ khí mà tấn công chúng tôi thì chính thân xác chúng tôi cũng sẽ bị họ bằm nát ra thôi. Biết bao nhiêu đồng đội của tôi đã
nằm xuống trên khắp các mặt trận mà thân xác không còn nhận ra…
- Tôi chỉ hỏi cho biết cảm giác của anh thôi chứ không ai có thể trách anh đã thi hành nhiệm vụ của một chiến sĩ giúp dân, cứu nước.
Tôi hỏi anh thêm về ngày đơn vị anh di tản:
- Làm sao anh đưa được cả đơn vị gồm binh sĩ, cán bộ và thân nhân của họ thoát đi ra biển an toàn ngày anh phải di tản, trước khi Bắc quân
tràn vào quận anh?
- Tôi luôn luôn chuẩn bị trước đường tiến đường lui. Chúng tôi có giang thuyền. Tôi giải thích cho binh sĩ biết tình hình nguy ngập của miền Nam
và khuyên mọi người nên theo tôi di tản để tránh bị trả thù bởi Bắc quân. May thay, lính thương tôi như tôi thương họ nên không ai phản đối ý tôi
mà đòi ở lại.
- Qua Mỹ, anh có khi nào gặp lại được binh sĩ hay cán bộ dưới quyền?
- Có. Chúng tôi có gặp nhau đôi lần nhưng dĩ nhiên không được đủ mặt vì mỗi người ở một nơi, tứ tản bốn phương trời.

Tiếng chuông chùa ngân nga trong trời chiều. Chúng tôi chia tay nhau sau một lần chia sẻ những mẫu chuyện thời chinh chiến.

Nguyễn Trác Hiếu
Orlando, đêm 4 tháng 11 năm 2013



http://svqy.org/2013/12-2013/err/haitram.html

thuykhanh
03-05-2017, 02:23 PM
Chuyện trong nhà dưỡng lão : Tô Bún Riêu



Tác Giả: Khuyết Danh



Từ Auclair, theo đường Liên Tỉnh 53, ngược lên mạn Bắc là Salon Springs thì rẽ phải theo Hương Lộ “P” nhỏ hẹp ngoằn ngoèo lăn mình giữa những khu rừng phong ngút ngàn trùng điệp, tiếp tục thêm vào dăm vòng qua những lưng đồi thoai thoải dốc là tới thung lũng Nivagamond, Louisiana, trạm đặc khu của người da đỏ.




Trời vào Thu, rừng phong đã thay chiếc áo choàng màu hồng lựu. Hơn nửa giờ lái xe, không một bóng người ngoài tiếng gió thở dài, tiếng lá khô xào xạc, tiếng rừng cây trăn trở, không còn một âm thanh nào khác. Tôi cảm tưởng như lạc vào một hành tinh xa lạ không sinh vật. Đồi lại đồi liền liền tiếp nối nhau sau cùng tới Nivagamond. Nơi đây có Viện Dưỡng Lão Lakeview mà theo lịch trình thì mỗi năm tôi phải đến
một lần để thanh tra y vụ.




Lần đầu tiên đến đây nên tôi không khỏi ngỡ ngàng tưởng dù hẻo lánh đến đâu ít ra cũng có xóm làng, một giáo đường nho nhỏ hay vài ngôi nhà be bé xinh xinh nhưng tuyệt đối không. Ngoài rừng phong đỏ lá chỉ có hồ nước trong veo xanh ngắt màu trời. Trung Tâm An Dưỡng Lakeview như tên gọi ẩn mình dưới tàng cây rợp bóng trên khu đất rộng.




Quay lưng vô rừng thông nhìn ra mặt hồ phẳng lặng như gương, tôi ngẫm nghĩ, nơi đây có thể là điểm
nghỉ ngơi lý tưởng cho những người quanh năm lao lực hoặc những ai muốn tìm sự quên lãng, còn chọn làm viện dưỡng lão thì hơi tàn nhẫn.




Tuổi già vốn đã cô đơn mà nơi đây lại hầu như tách biệt với thế giới bên ngoài. Trừ y tá, y công và vài chuyên viên dịch vụ thì chẳng còn ai, người nào cũng bận bù đầu, rảnh rỗi đâu mà tán gẫu với những người già. Nhất là sau buổi cơm chiều khi hoàng hôn buông xuống, ai nấy đều đã về nhà thì bóng đêm chắc phải thật dài.




Vừa đẩy cửa bước vào tôi đã giật mình vì gặp một hàng 6 chiếc xe lăn đang dàn chào. Trên mỗi xe là một lão ông hoặc
lão bà độ bảy, tám mươi, mái tóc bạc phơ, mắt hom hem sau làn mục kính. Có người trông còn sáng suốt, người thì như xác không hồn. Họ chăm chú nhìn tôi từ đầu đến chân như quan sát một quái nhân đến từ hành tinh khác. Có lẽ vì tôi là người Á Châu duy nhất tới đây chăng? Cô y tá hướng dẫn như đoán được cảm nghĩ của tôi bèn nhoẻn miệng cười:




– Ông ngạc nhiên lắm sao?




Tôi ngập ngừng:




– Bộ họ biết hôm nay tôi đến đây nên hiếu kỳ muốn trông thấy mặt tôi.

Cô y tá khẽ lắc đầu:




– Mỗi ngày đều như vậy. Sáng nào họ cũng ngồi đó để mong chờ.




– Chờ thân nhân tới đón?




– Dạ thưa không.




– Vậy hay là chờ bạn bè đến thăm?




Cô y tá phì cười pha trò:




– Ông nghĩ già ngần ấy tuổi mà còn hẹn bạn gái sao?




– Không, ý tôi là bạn thông thường đấy.




– Nếu những người bạn ấy chưa nằm xuống thì cũng đang ngồi xe lăn như họ tại một viện dưỡng lão nào đó thôi, rồi
ngậm ngùi họ mong chờ những hình bóng không bao giờ đến, xa xôi trong ký ức.




Rồi cô khẽ thở dài:




– Tôi làm việc ở đây hơn 10 năm, đã chứng kiến nhiều hoạt cảnh. Tháng nào cũng có người mới tới và cũng có người
vĩnh viễn ra đi.




– Chắc ít nhiều, lòng cô cũng có phần nào xao xuyến, phải không cô?




– Thật tình mà nói lúc đầu thì có đấy, nhưng mà bây giờ tôi đã quen rồi.




– Tôi nghĩ là cô rất mẫn cảm?




– Chỉ là do tập luyện thôi chứ bằng không thì sẽ ngã quỵ đó ông!




Chúng tôi vào thang máy lên tầng trên, một cụ già chống gậy tập tễnh vô theo. Cô y tá nhìn ông ta và hỏi:




– Ông đi lên thang máy hay là đi xuống?




Cụ đáp như cái máy, giọng nói khò khè yếu ớt khó nghe:




– Đi.. đi xuống, rồi đi.. đi lên, rồi đi.. đi xuống , đi lên.




Tôi nhận thấy ông ta chẳng nhìn ai cả, ánh mắt không hồn đang hướng về phương trời vô định. Dường
như quá quen thuộc với những hiện tượng này, cô y tá thản nhiên nói:




– Vậy thì xin ông bước ra chờ chuyến sau sẽ có người đi với, chúng tôi đang bận.




Cô bèn nắm tay dẫn ông cụ ra ngoài rồi lạnh lùng khép cửa. Tôi thắc mắc:




– Nếu ông ấy lại tiếp tục bấm nút thang máy thì sao cô?




– Chúng tôi đã lượng trước được điều ấy cho nên tất cả nút cắt điện trong viện đều gắn rất cao người
già không thể với tới.




– À thì ra vậy!




Công tác xong trời cũng về chiều, tôi từ giã, cô y tá tiễn tôi ra cửa. Đoàn xe lăn vẫn còn dàn chào.




Chợt trông thấy trong góc tối một ông lão độ trên dưới 80 đang cô đơn ngồi bất động trên xe lăn như pho tượng cũ.
Điểm khác biệt khiến tôi chú ý là ông ta không phải người da trắng và cũng không hoà nhập vào toán dàn chào. Da ông màu đồng nâu có nhiều vết nhăn đậm nét thời gian hằn trên mặt. Mái tóc bạc phơ rủ loà xoà trên trán, vóc người bé nhỏ, mắt hom hem trân trối nhìn tôi như muốn nói điều gì. Tôi đoán chừng ông là thổ dân da đỏ. Hiếu kỳ tôi hỏi cô y tá:




– Và vị dưỡng lão này cũng là người ‘Indian’ hở cô? Tôi nghĩ đó là trách nhiệm của chính phủ liên bang chứ?




Cô ta ngạc nhiên:




– Ủa sao ông lại hỏi vậy?




Tôi trỏ ông lão ngồi xe lăn:




– Vậy không phải ’Indian’ là gì?




Cô y tá phì cười:




– Ông ta là người Á Đông đó ông ạ.




Tôi giật mình:




– Người Á Đông?




– Dạ phải, dường như là Việt Nam đó.




Thêm một lần kinh ngạc, tôi không ngờ nơi vùng đất hẻo lánh đìu hiu lạnh lẽo này cũng có người Việt cư trú. Tôi bèn hỏi dồn:




– Sao cô biết ông ta là người Việt.




– Dạ thưa ông hồ sơ có ghi đó ông ạ.




– Vậy thì ông ấy vào đây lâu chưa cô?




– Hơn 10 năm.




Rồi cô khẽ lắc đầu:




– Tội nghiệp, ông ta rất hiền lành dễ thương ai cũng quý mến cả. Nhưng hiềm chẳng nói được tiếng Anh cho nên suốt ngày cứ thui thủi một mình không có bạn.




– Vậy thân nhân ông ấy có thường xuyên tới thăm ông ấy không?




– Một lần cách đây lâu lắm, hẳn có uẩn khúc gì đây.




Không cam tâm làm ngơ trước người đồng hương đang gặp cảnh bẽ bàng nơi đất khách, tôi tự giới thiệu tôi cũng là
người Việt Nam. Cô ta trố mắt:




– Ồ ! Thế mà tôi cứ đinh ninh ông là người Trung Hoa.




Tôi cười:




– Trong mắt người Tây Phương, thì bất cứ ai da vàng cũng là người Tàu.




Cô ta pha trò:




– Cũng đâu phải lạ, nhiều anh Tàu nhan nhản khắp nơi. Ngay trong xóm da đỏ hẻo lánh tít mù trên miền Bắc cũng có.
Lần nào qua đó tôi cũng ghé mua cơm chiên, chả giò vừa ngon vừa rẻ nhưng phải cái là…..




Tôi nhoẻn miệng cười:




– Mỡ dầu và bột ngọt hơi nhiều phải không cô?




Cô ta cười xoà:




– Phải nói là nhiều quá mới đúng. Khổ công tập thể dục cả tháng, chỉ ăn một bữa cơm Tàu là đâu vào đấy; có khi còn thặng dư là khác.




Tôi quay lại vấn đề:




– Tôi muốn tiếp xúc với ông lão người Việt để mà chào hỏi làm quen. Có thể ông ấy cũng đang cần nói chuyện vì lâu lắm chưa có dịp.




Cô y tá mừng rỡ:




– Hay lắm. Đó cũng là điều tôi mong muốn. Vùng này hẻo lánh quá nên không tìm ra người thông dịch, nhân tiện nhờ ông
hỏi xem ông ấy có nhu cầu hay đề nghị gì hầu chúng tôi đáp ứng không?




– Vâng, tôi sẽ cố gắng làm điều đó.




Thấy tôi đi tới ông lão ngước lên, nhíu đôi mắt hom hem nhìn chầm chập, vừa ngạc nhiên vừa thoáng chút ngại ngùng. Tôi gật đầu chào:




– Dạ thưa chào cụ ạ.




Nét mặt rạng niềm vui, giọng nói run run vì xúc động:




– Dạ chào. Chào thầy. Thầy người Việt à?




Giọng ông hơi nặng và chân thật. Tôi thân mật nắm tay ông.




– Thưa cụ cháu cũng là người Việt như cụ đấy ạ.




Ông lại nghẹn ngào:




– Cảm ơn Thiên Chúa. Cảm ơn Đức Mẹ Từ Bi đã cho tôi gặp được ông.




Tôi kéo ghế ngồi bên cạnh và bắt đầu trò chuyện.




– Thưa cụ, vì sao cụ cho là cuộc gặp gỡ hôm nay là do Thiên Chúa và Đức Mẹ sắp đặt.




– Tại đêm nào tôi cũng cầu nguyện ơn trên cho tôi gặp được người đồng hương.




– Có chuyện gì khẩn cấp không thưa cụ?




– Để được nói chuyện bằng tiếng Việt mình thôi.




Cụ thở dài:




– Lâu lắm rồi tôi chưa được nói hay là nghe tiếng mẹ đẻ.




Nhức trong tim, tôi bùi ngùi thương cảm, một ước mơ thật đơn giản mà sao lại quá xa vời. Chúng tôi bắt đầu trò chuyện.
Ông kể:




“Tên tôi là Tỉnh, Nguyễn Văn Tỉnh, trước kia ở Bình Tuy, làm nghề biển, có thuyền đánh cá. Tuy không
giàu, nhưng cuộc sống cũng sung túc. Tôi có vợ, 3 con trai, đứa lớn nhất còn sống thì giờ này cũng đã
gần 50. Năm 75, Cộng Sản tràn vào, cả nước kéo nhau chạy nạn, sẵn phương tiện trong tay, tôi chở vợ
con vượt thoát, nhưng chẳng may là sau 3 ngày lênh đênh trên mặt biển thì gặp bão lớn tàu chìm.
Tôi và đứa con út lên 6 được may mắn đã gặp tàu Mỹ vớt, còn vợ và 2 đứa con lớn thì mất tích thầy ạ.

Sau đó thì tôi được bảo trợ về Louisiana, nơi đây có đông người đồng hương nên cũng đỡ buồn. Tôi bắt đầu tái tạo sự nghiệp, hùn hạp với bạn bè mua tàu đánh cá làm việc ngày đêm, trước là để vơi buồn, sau
là tạo dựng tương lai cho thằng Út, giọt máu cuối cùng còn sót lại của tôi. Tôi ước mong thằng bé sẽ theo cha mà học nghề biển nhưng nó thì không muốn. Nó chỉ thích làm bác sĩ, kỹ sư ngồi nhà mát thôi chứ không chịu dãi nắng dầm mưa như bố, thế nên thầy biết không, vừa xong trung học là nó quyết chọn trường xa để mà tiếp tục theo đại học”.




Ông ngừng lại một chút để dằn cơn xúc động rồi ngậm ngùi kể tiếp:




“Tôi chỉ có mình nó, không thể sống xa con, nên quyết định là bán hết tài sản để mà dọn theo, bạn bè ai cũng ngăn cản thầy ạ, nhưng tôi quyết giữ lập trường, mang hết tiền dành dụm đến cái tiểu bang này mua một căn nhà nhỏ ở ngoại ô; còn chút ít thì gửi vào trong quỹ tiết kiệm lấy lời sống qua ngày. Hai cha con đùm bọc nhau, cuộc sống tuy chẳng sung túc nhưng chẳng nhẹ nhàng. Tuổi ngày một già thì sức khỏe
càng yếu. Năm ấy trời mưa đá, tôi bị ngã gẫy chân thầy ạ. Bác sĩ cho biết xương già thì không có lành
được và phải vĩnh viễn ngồi trên xe lăn. Thằng Út ra trường có việc làm ở Nữu Ước.




Tự biết là khó có thể theo con và không muốn làm trở ngại bước tiến thân của nó nên tôi xin vào viện dưỡng lão. Tôi lên tiếng trước thầy ạ cho nó khỏi bị khó xử. Nó giúp tôi làm thủ tục và hứa là khi nào làm
ăn yên ổn nó sẽ đón tôi về. Các viện dưỡng lão tương đối khá đều hết chỗ, may thay trong lúc đang bối rối thì có anh bạn học người da đỏ quen Út mách cho tôi nơi này.
Thấy con tôi buồn tôi bèn an ủi nó: ‘Nơi nào cũng là quê người, cũng giống nhau thôi, thỉnh thoảng con về thăm bố là bố vui rồi.’ Thế là cả ngôi nhà lẫn tiền dành dụm phải trao hết cho viện dưỡng lão, dĩ nhiên là tôi được nhận.”




Ánh mắt xa xôi nhìn về phía chân trời đang có đàn chim chiều đang soải cánh ông chép miệng:




– Chà nhanh quá, mới đó đã 10 năm rồi.




– Thưa cụ, thời gian qua chắc là anh Út vẫn thường xuyên về thăm cụ chứ?




– Ừ, một năm thì nó cũng trở lại, nó khoe tôi hình cô gái Mỹ và nó nói ‘dâu tương lai của bố đó.’ Rồi thầy biết không, từ đó biệt tăm luôn.




– Cụ hoàn toàn không biết tin tức gì về anh ấy sao?




– Không, mà thật tình tôi cũng không muốn biết nữa.




– Tại sao, anh ấy là con trai duy nhất của cụ mà? Cháu sẽ giúp cụ tìm anh ấy nhé?




Ông lão rơm rớm nước mắt:




– Tôi sợ lắm, thầy ơi. Thà biền biệt như thế mà tôi vẫn tin tưởng là nó đang sống tốt với vợ con ở một nơi nào đó trên quả đất còn hơn là biết tin buồn. Quả tình tôi không kham nổi.




Tôi nghẹn lời nói không được, lát sau qua cơn xúc động, tôi bèn hỏi:




– Giờ đây cụ có còn ước nguyện gì thì cụ cho cháu biết. Cháu sẽ hết lòng giúp với tất cả khả năng của mình thưa cụ.




Ông lão thở dài:




– Già rồi còn được mấy năm trước mặt hở thầy?




Ánh mắt chợt linh động, ông nhìn tôi và chép miệng:




– À, mà tôi thèm một bát bún riêu quá.




Hai tuần sau vào ngày Chủ Nhật, tôi nhờ chị bạn thân nấu giùm 2 bát bún riêu cua, bún nước để riêng, có đầy đủ chanh, rau, nước mắm, ớt hiểm tươi còn đặc biệt có thêm lọ mắm ruốc thật ngon.
Tôi cho tất cả vào túi xách đem vào viện dưỡng lão Lakeview. Mất hơn 4 giờ, sau cùng tôi đã tới. Như lần trước, ông vẫn ngồi trên xe lăn gần cửa sổ cuối phòng.




Bất ngờ trông thấy tôi ông mừng rỡ kêu lên:




– Ồ kìa thầy. Thầy lại về đây công tác hở thầy?




Tôi chạy tới nắm tay ông:




– Dạ thưa lần này thì cháu chỉ đến đây thăm cụ và cháu có một món quà đặc biệt mang biếu cụ đây.




Lộ vẻ cảm động ông cụ nhoẻn cười đôi mắt nhăn nheo:




– Bày vẽ làm chi hở thầy. Đến thăm tôi là quý rồi thầy ơi.




Tôi xin phép ban quản lý đưa cụ ra vườn vì thức ăn nặng mùi mắm ruốc nên tôi phải mang theo một lọ cồn nhỏ để đun nóng ngoài trời. Cụ chăm chú nhìn tôi bỏ bún ra tô, trộn rau ghém, nêm mắm ruốc, chan nước dùng nghi ngút bốc hơi, rắc chút tiêu thơm trên lớp gạch cua nổi vàng trên mặt. Nặn hai lát chanh tươi và sau cùng là ba trái ớt hiểm đỏ thơm nồng cay xé lưỡi. Không nén được thèm thuồng, chốc chốc cụ lại nuốt nước bọt.
Tôi đặt tô bún riêu trước mặt và mời cụ cầm đũa. Cụ run giọng:




– Cám ơn thầy. Không ngờ hôm nay tôi còn được ăn bát riêu cua. Mời thầy cùng ăn cho vui ạ.




– Cám ơn cụ, cháu đã ăn xong ở nhà. Xin cụ dùng tự nhiên. Bún riêu còn nhiều; hết tô này cháu sẽ hâm tô khác.




Cụ trịnh trọng húp từng muỗng xúp, gắp từng đũa bún, cắn từng miếng ớt cay ngon lành như chưa từng được ăn ngon, chốc chốc cụ dừng tay để lau mồ hôi và luôn miệng khen tấm tắc:




– Trời ơi! Bún riêu ngon quá mà mắm ruốc thơm quá thầy ơi.




Tôi cảm động đặt tay lên vai cụ:




– Thưa nếu cụ bằng lòng nhận cháu làm con, cháu sẽ thay anh Út và thường xuyên thăm viếng cụ nhé.




Cụ sững sờ nhìn tôi thật lâu như không tin ở tai mình rồi hai dòng nước mắt từ từ lăn dài trên đôi má hóp:




– Trời ơi ! Sao tôi có được diễm phúc như vậy sao trời!




Tôi yêu cầu ban quản lý ghi tên tôi vào danh sách thân nhân, và dặn dò khi có chuyện cần thì cứ gọi.
Năm sau, còn một ngày nữa là Tết, tôi đã chuẩn bị xong quà cáp có cả trà thơm, mứt ngọt dự định sáng hôm sau Mồng Một đầu năm sẽ mang lên Lakeview mừng tuổi cụ. Đang ngon giấc, chợt có chuông điện thoại, tôi nhấc ống nghe, bên kia đầu dây tiếng cô y tá trực của viện dưỡng lão Lakeview:




– Dạ thưa hỏi, có phải ông là ông Trần không?




– Dạ vâng ạ, là chính tôi đây.




– Dạ thưa ông, cụ Tỉnh đau nặng.




– Tình trạng thế nào có nguy không cô?




– À, cụ đang nằm phòng hồi sinh bệnh viện ở thành phố đó thưa ông.




– Cám ơn cô rất nhiều, ngày mai tôi sẽ đến cụ.




– À, ông nên đi sớm hơn đi là vì sợ không còn dịp nữa.




Tôi rụng rời, ngoài trời tuyết rơi càng lúc càng nhiều, trời trở lạnh, gió giật từng cơn, hoa tuyết bay nghiêng như ngàn vạn mũi tên bắn vào kính nghe rào rào như vãi cát. Không gian mờ mịt, rừng phong trắng xoá một màu, tuyết phủ lớp dầy trên mặt đất. Tôi rà thắng cho xe chạy chậm để khỏi rơi xuống hố. Sau cùng cũng tới được bệnh viện Hayward.




Cô y tá nhìn tôi ái ngại:




– Thưa ông, suốt đêm qua ông ấy cứ gọi tên một người nào đó. Không biết có phải là ông không ạ?




– Cô còn nhớ là ông gọi tên gì không?




– Chỉ một tiếng duy nhất, dường như là ‘Work’ hay ‘Wood’ gì đó.




Tôi đã hiểu là thằng Út.




Tôi hé cửa lách vào trân trối nhìn ông rồi ngồi xuống bên giường, người ông khô đét, hai mắt nhắm nghiền, hơi thở yếu ớt. Tôi nhẹ nhàng đặt tay lên vầng trán nhăn nheo. Ông chợt cử động rồi thều thào:




- Út... Út...




Nước mắt chực trào ra, giờ phút nầy tôi phải làm một điều gì để ông được mỉm cười khi vĩnh biệt. Tôi bóp nhẹ bàn tay gầy guộc và nghẹn ngào:




– Thưa cha, con đã về đây thưa cha.




Mi mắt ông động đậy, cố nhướng nhìn lên. Rồi kiệt sức nên từ từ khép lại nhưng môi còn mấp máy:




– Út... Út... Út con.




– Phải thưa cha. Con là Út đây cha. Con là đứa con bất hiếu đã quay về bên cha để xin cha tha thứ cho con.




Tôi cảm được các ngón tay khô gầy đang bắt đầu cử động trong lòng tay tôi, cố nắm giữ đứa con yêu
đừng có xa rời.
Nước mắt tôi vô tình rơi xuống làn môi khô nứt nẻ đang hé một nụ cười.




Gia tài ông để lại là một bọc vải nhỏ trong ấy có một tượng chúa Giê-Su bị đóng đinh trên cây thập giá
và tấm hình đen trắng đã trổ màu vàng chụp gia đình 5 người đoàn tụ, đứa nhỏ nhất còn bế trên tay, tôi đoán nó tên là Út.




Tuổi xuân giờ đã đi đâu

Còn đây tóc bạc phai màu thời gian…







Khuyết Danh

(Dường như do sự cố ý!? Người viết đã không để tên)







Trần Văn Giang (Ghi lại)

thuykhanh
03-22-2017, 05:33 PM
tk xin giới thiệu một chuyện có thật:



Bể Dâu
Nguyễn Sơ Đông




Trung tuần tháng Tám, năm 2006, trong một tiệc cưới, tôi ngồi cận Bác Sĩ BQM, bạn cùng khóa.

– M. Toa còn nhớ bị nhốt ba ngày trong conex không?

– Đâu phải ba ngày. Một tháng với ba ngày.

– Mà toa có viết cái thơ vỏn vẹn chín chữ đó không?

– Moi đâu có viết. Tụi nó chỉ nghi thôi mà nhốt moi suýt toi mạng.


Đêm hôm đó, bổng nhiên cả một khung trời dĩ vãng hiện lại trong trí tôi.



NHÂN DÂN CHO LÊN LON.



Đài phát thanh thông báo lệnh của Thượng Tướng Trần Văn Trà, chủ tịch Ủy Ban Quân Quản Thành Phố Hồ Chí Minh (tên mới của Sài Gòn):
Các sĩ quan chế độ cũ phải trình diện “học tập cải tạo”. Những sĩ quan cấp thiếu tá trở lên phải đi trình diện từ ngày thứ Bảy 15 và Chủ Nhật 16 tháng 6, 1975; thời gian “cải tạo” là 30 ngày và điạ điểm trình diện là các trường học rải rác khắp Sài gòn, Chợ lớn, Gia định như Petrus Ký, Trưng Vương, Hồ Ngọc Cẩn, Don Bosco…


Gia đình tôi ở đường Nguyễn Trãi, Quận 5, gần nhà thương Phước Kiến, căn phố lầu, tầng một và hai. Tầng trệt làm phòng mạch. Khuya thứ Hai 7-6-75 (hết hạn trình diện học tập cho cấp tá và tướng), có người nhận chuông. Nhìn đồng hồ: Một giờ sáng. Tôi xuống mở cửa, bực và lo. Không phải một, mà năm người: Bốn bộ đội với súng AK và một người đeo K54 mà tôi đoán là hạ sĩ quan. Vừa bước vào bên trong, hắn hỏi ngay:

– Anh tên Nguyễn Sơ Đông phải không?

– Phải.

– Sao anh chưa đi trình diện học tập?

– Đài ra thông cáo: cấp thiếu tá trở lên trình diện, tôi chỉ là đại úy thôi.

Tôi đưa cho hắn xem giấy tờ của Cao Đăng Chiếm, đại tá Công An/Tình Báo Cộng Sản ký.

– Tôi có lịnh mời anh đi trình diện học tập ngay.

Làm sao tôi cải lại được với AK và K54:

– Lệnh gấp như vầy, các anh phải cho tôi sửa soạn áo quần, thuốc men, thực phẩm chớ…

Vừa nói tôi vừa bước trở lạI hướng cầu thang để lên lầu.

– Không, anh không được đi đâu hết. Muốn gì, gọi người nhà anh lấy.

Đành chịu thôi. Bà xã tôi vừa sắp xếp áo quần, thuốc suyễn, thức ăn tiền bạc cho tôi, vừa khóc thút thít. Trước khi bước ra cửa, tôi còn bình tĩnh dặn:

-“Má” đừng sợ.. Nếu họ muốn giết thì chắc đã giết rồi chớ còn dẫn đi đi đâu.

Ra khỏi nhà, tôi đi giữa, bốn người bộ đội đi bốn góc. Thì ra chúng dẫn tôi xưống Chi Cảnh Sát chợ Hoà Bình. Vào trong Chi Cảnh Sát, đã thấy ba người tôi đoán là sĩ quan ngụy như tôi. Đến gần ba giờ sáng, lục đục bộ đội dẫn về thêm hai người nữa. Cộng với tôi là sáu. Chất lên xe cảnh sát cũ (màu xanh và trắng), chở lên Ty Cảnh Sát Quận Năm, đường Đồng Khánh. Chúng tôi được đưa vào một phòng nhỏ có vài cái bàn, mươi cái ghế và bốn năm người ngồi chờ. Mỗi người được phát một tờ giấy học trò.

Khai lý lịch. Cấm “liên hệ” với nhau. Gần bốn giờ sáng, một công an, có vẻ là sĩ quan đến, ngồi sau một bàn viết, kê ở góc phòng, gọi từng người, “khai thác“ lại.

– Anh khai là trung úy. Tình báo nhân dân bảo anh là thiếu tá. Tại sao?

– Dạ, vì tôi mang lon Hải Quân, bà con nhìn không ra chớ tôi mới 23 tuổi, làm sao lên thiếu tá được?

– Anh thì sao? Anh khai là binh nhì đào ngũ?

– Dạ phải, tôi thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh ở Lai Khê. Tôi đào ngũ. Vì tôi muốn o con nhỏ ở trong xóm, nên tôi mang đại lon thiếu tá giả. Tôi học chưa hết lớp ba, làm sao làm thiếu tá được?

– Anh thì sao? Tình báo nhân dân “nhất trí“ anh là thiếu tá mà? Hắn hỏi tôi.

– Tôi mang lon đại úy từ năm 68; lúc sau này, mỗi lần về thăm nhà, tôi mặc dân sự, bà con tưởng tôi lên thiếu tá rồi, chớ thật tôi còn là đại úy.

Mỗi người đều có một lý do riêng. Cuối cùng, tên công an bảo:

– Các anh xác nhận không phải sĩ quan cấp tá ngụy phải không?

– Dạ đúng.

– Khai man “cách mạng” kỷ luật nặng lắm. Được, tôi cho các anh về chờ lệnh.

Lục tục, chúng tôi mang đồ đạc hướng ra cổng Ty Cảnh Sát Quận Năm. Bỗng tên công an gọi lại. Hồi hộp. Hắn bảo: Mới 5 giờ sáng, còn giới nghiêm (cho đến 6 giờ), mấy anh ra đường bộ đội bắn chết. Thế là xe cảnh sát chở tôi về nhà. Hú vía. Nhận chuông. Bà xã tôi tưởng tôi “hiện thân về”.

TỰ CHUI VÀO RỌ

Chủ Nhật 23 - 6-75, khoảng một giờ trưa, bạn tôi, Nguyễn Lộc Thọ, giáo sư Trường Quốc Gia Nghĩa Tử đến chở Honda tôi đi trình diện “học tập cải tạo”.

Lần này, trình diện đúng ngày, đại úy thật, 10 ngày. Địa điểm: Trường Nữ Trung Học Trưng Vương, gần Sở Thú.

Sắp hàng. Vai mang túi áo quần, thuốc men… và một cái võng nylon.

Đến lượt tôi, đứng trước bàn một bộ đội tôi không biết cấp bực. Hắn ngồi ngay ngắn, nhìn tôi khá lâu và hỏi:

– Anh đứng trước cán bộ cách mạng mà còn mang kính?

Tôi chưa kịp hiểu anh ta nói gì, đã nghe lệnh:

– Gỡ kính xuống.

Gỡ thì gỡ. Tôi là kẻ bại trận mà. Tôi gỡ kính, cầm tay, không dám để trên mặt bàn.

– Ngồi xuống.

Ngồi thì ngồi. Giờ tôi như cá nằm trên thớt. Hắn đưa tôi tờ giấy, bảo khai lý lịch. Tôi cầm tờ giấy, chậm rãi:

– Kính thưa… Tôi không biết gọi anh ta bằng gì? Đồng chí thì không đúng và không được. Cấp bực thì tôi không biết. Gọi bằng ông sợ bị mắng.

– Cho phép anh gọi tôi là cán bộ.

-Vâng, kính thưa cán bộ, kính tôi mang là kính cận, tròng trong vắt, không phải kính râm. Tôi cố đọc trọ trẹ “râm-dâm”, sợ cán bộ không hiểu nếu tôi phát âm theo “Nam kỳ rặc” là “râm”. Gọi là kính mát, chắc chắn hắn không hiểu rồi. May mà tôi không mang verre fumé.

Cán bộ ra lịnh tôi gỡ kính xuống, tôi không thấy đường để viết, đọc gì hết. Hắn nhìn tôi, nhìn sang kính tôi đang cầm tay, gật đầu:

– Cho phép anh mang kính lại.


Tôi biết, từ đây đời mình sẽ còn nhiều giông bão.

Tập họp chia nhóm: 18 người thành một A. Tôi cũng không thắc mắc tại sao 18, không phải là 15 hoặc 20. Bốn A thành một B. Tôi thuộc A8 B12.
Lên lầu, vào lớp học, tạm trú.

Tôi đã đến trường Trưng Vương nhiều lần rồi. Trong những năm ở Đại học Y khoa ở số 28 Đường Trần Quý Cáp, tôi là giáo sư dạy giờ, môn vạn vật, Trường Petrus Ký. Năm nào cũng đi gác thi, chấm thi Tú tài I và II ở Petrus Ký, Gia Long, Chu văn An hoặc Trưng Vương.
Đâu ngờ, đây là lần cuối cùng… vào Trưng Vương “Tử Cấm Thành”.

Khoảng 5 giờ chiều, lệnh xuống sân lãnh cơm. Trời! Cơm do Nhà hàng Đồng Khánh mang đến. Tôi nghĩ là phải ngon lắm vì nhìn cũng giống cơm chiên Dương Châu mà mỗi lần đi dự tiệc cưới ở Đồng Khánh người ta hay đãi. Nhưng nuốt cho đỡ đói thôi chứ có biết mùi vị gì. Nhìn chung quanh, anh em đồng cảnh… cũng lặng thinh. Mỗi người một tâm sự, ánh mắt lo âu.

Ăn xong tập họp. Nghe lệnh. Những điều cấm không được làm… không được nói.

Màn đêm từ từ buông xuống.

Trở lên lầu, tìm cách giăng mùng giữa các bàn học, ngủ đỡ, qua đêm.Trằn trọc mãi.

Bao nhiêu câu hỏi. Tương lai về đâu? Bao nhiêu lo âu.

Nửa khuya, có tiếng tu huýt, lệnh trở xuống sân. Tập họp theo đơn vị A, B. Nhận lệnh mới. Di chuyển. Tuyệt đối cấm, cấm, cấm. Nhiều điều cấm lắm. Anh nào ra khỏi hàng là bắn bỏ. Thòng lọng ở cổ từ từ siết lại.

Xe Motorola chờ sẳn trước cổng Trường Trưng Vương. Lên xe. Kiểm soát. Tấm bạt mui xe khép kín lại. TrờI tối càng thêm tối om… như đời của kẻ bại trận. Có tiếng AK đạn lên nòng. Xe chuyển bánh. Quo vadis?

Sau nhiều lần quẹo, xe chạy thẳng và êm hơn. Mình ra xa lộ. Anh ngồi ngoài cũng hé chút mui cố nhìn và định hướng. Chạy mãi đến sáng thứ hai 24-6-75.

“Ê, mình đến Long Khánh rồi đó mấy cha. Vừa qua khỏi vườn cây của Đại Tướng Lê Văn Tỵ, chạy nữa. Đi đâu cà?” Cuối cùng, bộ đội mở tấm bạt. Xuống xe. Hai chân tê cóng. Anh nào đó nhìn ra: Đây là Long Giao, doanh trại cũ của Trung Đoàn 48, Sư đoàn 18 Bộ Binh, trước là căn cứ Black Horse của Mỹ.

Tập họp. Mỗi B gồm 72 người vào một nhà, gọi là lán, do một cán bộ gọi là quản giáo chỉ huy. Nhà trống, đầy bụi rác. Đủ thứ rác.

“Thế mình ở đây à?” Có giọng ngây ngô hỏi.

– “Ngủ ở đâu?”- “Nằm ngay trên sàn nhà mà ngủ”. Nhưng trước hết phải tìm cách quét cho sạch cái sàn nhà đã.

Một đoạn đời mới từ đây.

ĐỜI SỐNG VÔ SẢN

Mỗi người mang theo một túi vải, trong chứa áo quần, thuốc men. Đứa nào cũng có môt lon“gô” (lon sữa Guigoz bằng nhôm). Riêng tôi còn có thêm mấy lưỡi câu, dây nylon và cái võng nylon có mùng luôn. Thuốc suyễn uống và bơm. Hơn 100 viên chloroquine. Mỗi tuần một viên, tôi sẽ chịu đựng được trên hai năm. Tôi không tin mình sẽ đi 10 ngày, nhưng tôi dự trù có sáu tháng thôi. Đâu ngờ phải đi ở tù lâu quá vậy!

Mỗi người được 40 cm sàn ciment. Tôi nằm đong đưa trên võng, không đụng ai và rộng thêm chỗ cho hai bạn tù bên phải và trái.

“Khôn dại cùng chung ba thước đất
Giàu sang chưa chín một nồi kê!”

Vua Tự Đức mà còn cam ba thước đất, mình được bốn tấc… mà còn than nổi gì?

Tổ chức thành “tổ” (A) và lán (B) chia phiên bửa củi, kéo nước giếng, nấu ăn (gọi là anh nuôi) hoặc ra ngoài trại lao động. Thật tình, đối với những người không bị đưa ra Bắc, phần lớn là sĩ quan cấp úy, thì lao động không đến mức “cực hình, khổ sai” nhờ nhiều yếu tố. Bắt đầu cuối năm 1976, đầu 1977, họ nhận được thơ, thực phẩm, thuốc men của gia đình, nâng đỡ tinh thần lắm. Họ còn trẻ, trên dưới hoặc vừa bốn mươi ngoài, thân thể còn tráng kiện; thời tiết trong Nam không khắc nghiệt như ở thượng du Bắc Việt, trại Hà Nam Ninh, Hoàng Liên Sơn, Cổng Trời… tối đến lạnh xuống 3-4 độ Celsius; mỗi lần ra khỏi trại làm lao động gặp dân địa phương còn có cảm tình với “ngụy”, nhiều khi họ giúp cho thức ăn như chuối, bắp cũng thấy “ấm lòng”.

Đói vẫn cứ đói, mỗi ngày 400 gram gạo không thấm vào đâu. Tuy nhiên không ai than phiền gì vì bên ngoài, gia đình mình cũng vất vả lắm. Chỉ lo cho vợ con. Lấy gì sống? Đi kinh tế mới. Qua mấy lần đổi tiền rồi còn gì đâu!


ĐỜI SỐNG TINH THẦN

Người cải tạo rất khổ tâm về phương diện tinh thần. Những linh mục phải đi học tập vì là đại úy tuyên úy Công Giáo rất đáng khâm phục. Bất chấp ngăn cấm, kiểm soát chặt chẽ, các cha vẫn làm Thánh Lễ cho người tù Công Giáo. Lễ bỏ túi, lễ chạy, lễ di động. Nhưng vẫn có Thánh Lễ, nâng đỡ tinh thần với đức tin Chúa.

Ngược lại các cán bộ chỉ lập lại những lời tuyên truyền trước đây trong chiến tranh có thể áp dụng với dân chúng ít học nơi vùng quê hẻo lánh nhưng bây giờ đối tượng lại là những sĩ quan có trình độ, tối thiểu cũng đã tốt nghiệp trung học.

Luận về tội của người đi cải tạo: “Anh là giặc lái, lái máy bay bỏ bom toàn trẻ em và phụ nữ; bộ đội được huấn luyện kỹ thuật tránh bom, đâu có chết. Anh là quân y, chích thuốc kích thích cho lính ngụy nó hăng lên đánh phá cách mạng dữ dội. Anh là Cha, là Cố, làm phép cho lính Ngụy đạn bắn không trúng”.

Ngoài ra những buổi sinh hoạt “văn nghệ” làm tôi khổ sở lắm. Không muốn nghe, không muốn thấy cũng không được. Ngồi xoay qua xoay lại cũng bị phê bình. Ngồi ngủ gục tội còn nặng hơn nữa. Cuối cùng tôi có cách. Tuyệt chiêu! Tôi ráng nhớ hết tên quý cô giáo, thầy giáo, giáo sư trung học, giáo sư đại học khoa học, đại học y khoa…Tôi ngồi đó, như tượng gỗ. Ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh nhưng tôi không thâu nhận gì hết vì trí óc tôi đang bận với tên tuổi những người đã góp phần dạy dỗ tôi. Xong. Tôi nhớ hết.

Kế đến, lần sinh hoạt văn nghệ tới, tôi ráng nhớ tên mấy đứa bạn cùng lớp. Lẽ dĩ nhiên tôi đâu có nhớ hết nổi, nhưng đầu óc tôi đâu có rảnh để “tiếp thu” những lời vô nghĩa, chướng tai. Tôi ráng nhớ mấy bài “học thuộc lòng” (recitation). Vui lắm. Học từ những năm 1947-48.

Ví dụ bài ”Cắt Móng Tay”:

Đời xưa có thói dị thường
Những người sang trọng ngồi không tối ngày
Bởi nên không cắt móng tay
Để cho nó mọc ra dài uốn cong
Đời nay có thói lạ lùng
Móng tay họ cắt mà không cắt cùi
Mỗi ngày mài dũa lau chùi
Thoa son đánh phấn ra mùi Tây U…


Cũng có bài cảm động lắm như bài “Tan Buổi Học”:

Tan buổi học mẹ ngồi tựa cửa,
Nhác trông con đứa đứa về dần,
Xa xa con đã tới gần,
Mẹ con tề tựu quây quần bửa ăn.
Cơm dưa muối khó khăn mới có,
Của không ngon nhà khó cũng ngon.
Khi vui câu chuyện thêm dòn,
Chồng chồng vợ vợ, con con một đàn.


Hoặc bài ”Après la bataille’ của Victor Hugo, bắt đầu bằng câu:

Mon père ce heros, au sourire si doux,
…Donne lui tout de même à boire, dit mon père.

Đặc biệt bài “La maison paternelle” càng làm nhớ nhà thêm:

“Inoubliable est la demeure
Qui vit fleurir nos premier jours…”

Ngày lại qua ngày. Không ai dám đếm ngày đếm tháng nữa.


VỤ ÁN BÁC SĨ B. Q. M:


“Học tập cải tạo” đã hơn một năm rồi. Ngày về mù mịt như Tô Võ chăn dê. Bặt tin tức. Có “ai” đề cập đến liên lạc vớI gia đình đâu.Trái lại, hàng ngày cán bộ nhắc nhở lệnh: Cấm “liên hệ”với bất cứ ai, lúc ở trong trại cũng như lúc ra ngoài đi lao động (cuốc đất trồng khoai mì, chặt tre, đốn củi).

Không biết bằng cách nào, các bà vợ “tù cải tạo’ ở Sài Gòn biết được Trại Long Giao. Thế là ngày nào cũng có mươi bà lên đón mong gặp các toán tù “xuất trại để lao động”.

– Các anh ơi, tôi là vợ của Đại Úy X, trước ở Đơn Vị Y. Các anh nhắn dùm là gia đình bình yên. Ba đứa con tôi nuôi không nổI nên cho nó theo Cậu Z, theo chú nó hết rồi. OK Salem hết rồi.

Thế là chiều hôm đó thế nào cũng có màn: “Sáng nay tao thuộc tổ chặt tre, có thấy Bà Xã mày lên. Không làm sao nhận được quà cáp gì hết vì bộ đội kiểm soát chặt chẽ quá. Nhưng Bà Xã mày nhắn là gia đình bình yên, ba đứa con bả cho Cậu Z nuôi. Mẹ, Cậu Z “vọt” hồi 75 phải không mậy? Ê, còn đường không, cho xin một thẻ”.

Tối hôm đó, trong giấc ngủ chập chờn, Đại Úy X. mỉm cười.

Sau này, Bà Xã tôi kể lại: Đã lên Long Giao tám lần. Những ngày ấy, tôi không thuộc toán lao động ra ngoài. Những ngày tôi cuốc đất, vác củi ngoài trại, Bà Xã tôi không lên. Cũng dễ hiểu thôi: Còn lo chạy gạo, săn sóc bốn đứa con nữa chớ!

Mỗi buổi tối sinh hoạt, quản giáo nhắc lại: Cấm “liên hệ”.

Rồi giông tố nổi lên. Không biết cách nào đó, cán bộ bắt được một tờ giấy nhỏ với vỏn vẹn chín chữ: “Má và các con yên tâm, Ba bình an”.

Theo ngôn ngữ được dùng, tác giả là một tên Nam Kỳ. An ninh trại điều tra và quả quyết Bác Sĩ B.Q.M. là thủ phạm với bản án:
“Nhốt vào conex”. Thời gian sẽ quyết định sau.


Conex là một hộp sắt hình vuông, mỗi cạnh khoảng 1.5m, có hai cánh cửa, kín mít , dùng để chứa hàng hóa, gởi từ Mỹ sang. Người ta khoét hai lổ khoảng 10x20cm cho người tù thở. Conex để giữa “trời cao đất rộng”, không một bóng mát. Trong conex, tù không đứng thẳng được. Ban ngày nhiệt độ lên tới 105-110 F. Sắt giản ra bưng bưng (đâu có chuyện “ Nắng Sàigòn anh đi mà chợt mát,” đâu có “áo lụa Hà Đông”!). Người tù conex chỉ có một bộ đồ, cởi ra hết, che trên đầu, hy vọng đỡ nóng. Mắt đỏ hoe. Miệng khô đắng. Da sần lên như da cắt kè. Mỗi ngày được một lít nước. Tiểu tiện ngay tại chỗ. Nước tiểu vừa đụng sàn conex đã bốc hơi. Cục phân, nhỏ như cứt dê, cũng khô cứng.

Cửa conex chỉ mở ngày hai lần cho bạn tù mang nửa khẩu phần cơm tới. Rồi đóng lại ngay. Người ta không muốn tù được hưởng chút không khí trong sạch. Đúng nghĩa không khí trong sạch, không bóng gió gì hết.

Ban đêm lạnh thấu xương. Tù nằm cong queo nghe sắt co rút lại kêu răn rắc. Không còn sức để mà run.

Bị nhốt trong conex là kể như mình đã đặt một chân vào thế giới bên kia rồi. Chỉ cần rút nhẹ một chân nữa là xong một kiếp người ở cái tuổi chưa đầy bốn mươi. Vậy mà BS B.Q.M. còn sống nhăn sau một tháng cọng với ba ngày trong conex.

Đến nay, ba mươi năm sau, BS B.Q.M. vẫn BỐN KHÔNG (biết): Không biết ai là tác giả chín chữ đó, không biết tại sao an ninh trại lại quả quyết là mình, không biết tại sao được thả ra, không biết nhờ đâu mình sống được.


“VERTIGO” của BÁC SĨ NGUYỄN SƠ ĐÔNG


Một buổi chiều không đi lao động, tôi đang ngồi vá chiếc võng nylon thì có bộ đội chuyển lệnh: lên văn phòng làm việc với “Anh Lực”. Nghe tên Anh Lực, tôi lạnh mình. Mấy đứa bạn tù ngồi gần đó ngước nhìn tôi, nhìn tên bộ đội non choẹt vác AK mà ngao ngán dùm tôi.

“Anh Lực” là trung úy an ninh của trại Long Giao nổi tiếng “ác ôn”. Thật tình, tận mắt, tôi chưa có dịp thấy hắn hành hung, đấm đá gì ai. Nhưng nộ nạt, sỉ vả, chửi mắng, hăm dọa tù là chuyện cơm bữa đối với hắn. Tôi đã bị hắn gọi đích danh ra “trước hàng quân”… tù để sỉ vả:

– Lúc nhỏ, anh là con đẻ của thực dân Pháp (vì cái tội theo học ở trường Chasseloup Laubat của Pháp). Lớn lên, anh làm tay sai đắc lực cho Đế quốc Mỹ. Tội của anh đáng chết mười lần, anh có thấy nhục nhã không?

“Anh Lực” mà ra lệnh nhốt vào conex thì hết thấy mặt vợ con, anh em, bè bạn. Tôi lại nhớ đến hình dáng của Bác Sĩ B.Q. M.sau khi được dìu ra khỏi conex. Trắng xanh, mắt sâu hoắm, không còn chút sinh lực, ốm tong teo… Nhìn vào không thấy đâu hết, chỉ thấy bộ quần áo rộng thênh thang bay phất phơ trong gió. Đứng không vững. Nói không ra tiếng. Bây giờ, năm 2006, ngồi yên viết lại, chớ lúc đó tôi sợ lắm, bước chậm chậm như cái xác không hồn. Tôi ráng lấy can đảm, nắm chặt tay lại chớ chân tôi bắt đầu run run khi gần đến văn phòng Tiểu Đoàn Tù L2T1.

Đến cửa văn phòng, tự nhiên tôi quay lại nhìn trời. Biết đâu đây là lần cuối mình còn có thể nhìn lại chút bầu trời trong mát.

Bộ đội đứng nghiêm: “Báo cáo đồng chí…“, vừa báo cáo vừa để tay vào lưng tôi, “dìu” nhẹ tôi vào văn phòng. Toàn thân tôi nổi da gà. Tôi có cảm tưởng đao phủ đưa tội nhân lên máy chém.. Tôi bước vài bước vào đứng nghiêm trong văn phòng Trung Úy Lực:

– Kính xin báo cáo… Tôi vừa nói vừa nhìn hắn, cố lấy giọng bình tĩnh.

Hắn ngồi sau bàn viết, cố tình không nhìn tôi, như đang tìm kiếm gì đó, lấy ra một xấp hồ sơ (tôi nghĩ đó là hồ sơ của tôi vì từ khi vào trại đến giờ đã khai lý lịch trích dọc trích ngang hơn chục lần rồi). Rồi từ từ, hắn đứng dậy, kéo áo lại cho ngay ngắn, từ từ tháo dây thắt lưng có dính tòn ten bao da đựng cây K54, để nhẹ trên bàn viết, kế một tách trà đã vơi.

Nãy giờ cũng đã gần năm phút rồi, hắn vẫn không thèm nhìn tôi bằng nửa con mắt, không thèm phán cho tôi nửa lời. Tim tôi đập liên hồi, có cái gì ngăn ở ngực. Muốn ói. Tai ù. Mắt mờ. Như đang lạc vào thế giới huyền ảo. Cái sợ đã lên tới tột đỉnh.

Bỗng hắn đập mạnh nắm tay xuống mặt bàn. Rầm. Tiếng rầm kéo tôi trở lại thực tế. Tôi mở mắt to, há hốc nhìn hắn. Hắn quát:

-Tại sao tới giờ này anh còn dối cách mạng. Cách mạng đã tha tội chết cho anh… Thật là một lũ ngụy.

Sợ quá, tôi không biết lúc đó tôi có hiểu hết những gì hắn nói không. Hắn ra mặt giận dữ, vừa thét to, vừa đẩy xấp hồ sơ về phía tôi.

Như có phép lạ, trong thoáng giây, đầu óc tôi minh mẫn lại. Có lẽ ngọn đèn bừng sáng lên trước khi bị dập tắt. Tôi linh cảm trong cử chỉ, trong giọng nói của hắn có chút gì giả dối, có chút gì muốn áp đảo tôi.

– Xem đây, anh viết anh không hề vào đảng “Thằng Thiệu” mà sao lên cấp bậc đại úy. Mẹ, không vào đảng, lên đại úy. Dối cách mạng cho cải tạo mục xương.

Tôi tỉnh lại hẳn. Tôi cám ơn hắn đã lập lại câu nói “không vào đảng, sao lên đại úy”. Tôi không nghe sai. Tôi cảm được con người tôi hiện đầy sinh khí. Tôi muốn cười thật to, cho sướng. Tôi vẫn đứng nghiêm. Hắn còn hét to lên nữa, tiếp tục mắng chửi, hăm dọa đủ điều. Tôi đâu có nghe nữa. Tôi biết chắc chắn hắn hố rồi. Tôi biết chắc chắn không có gì để buộc tội tôi, ngoài cái tội ngụy. Và tôi không sợ nữa. Hắn mệt rồi. Hớp cạn tách trà, hắn ngồi lại xuống ghế, mắt mở to nhìn tôi như cố ý xem tôi “xanh mặt” đến mức nào. Run chưa?

Tôi chậm rãi để hưởng hết cái hương vị đậm đà của “chiến thắng”.

– Kính thưa anh cho phép tôi báo cáo.

Sau một thoáng suy nghĩ hắn gật đầu chấp thuận.

– Kính xin báo cáo anh mấy điều. Thứ nhất, anh xem lại bảng lý lịch của tôi, tôi không có mang cấp bực thiếu úy động viên vào quân đội … (tôi muốn nói Quân lực Việt Nam Cộng Hòa mà không dám)…

– Ngụy chứ quân đội gì, hắn cắt ngang.

– Động viên tháng 3 năm 1966, tôi mang ngay cấp bực trung úy (tôi cố tránh chữ ngụy). Thứ hai: Trong quân đội miền Nam …

– Tôi ra lệnh anh nói quân ngụy, hắn bực dọc lắm rồi.

– Vâng trong quân ngụy, không có cấp “thượng” như thượng úy, thượng tá, thượng tướng, nghĩa là từ trung úy lên ngay đại úy. Thứ ba: Tôi lên đại úy từ năm 1968 (đặc cách tại mặt trận, tết Mậu Thân, tôi không dám nói sợ hắn “quýnh” tôi) và đến năm 1975 vẫn còn mang đại úy. Như thế tôi vào quân… ngụy hơn 9 năm, lên có một cấp bực thì có đảng nào đâu!

Tôi vẫn đứng nghiêm, nghiêm để nhìn cái bối rối của hắn. Hắn vẫn trừng mắt nhìn tôi, trong ánh mắt có chút bẽn lẽn của một người vừa đánh… hụt. Hắn cố gỡ gạc:

– Cách mạng tìm được tài liệu anh là đảng viên đảng “Thằng Thiệu” thì sao?

– Kính xin báo cáo: Tùy cách mạng định đoạt.

– Thôi cho anh về. Cấm kể lại chuyện này cho bất cứ ai. Chết với tôi đấy.

Hắn gọi bộ đội đưa tôi lại lán B12. Trên đường về tôi huýt sáo nho nhỏ… “The Longest Day”. Về đến lán, anh em ngạc nhiên thấy tôi còn nguyên vẹn. Mắt không bầm, mặt không sưng. Tay chân còn cử động nhịp nhàng. Tuy nhiên không anh nào dám hỏi han gì hết. “Anh Lực” oai đến thế.


CHUYỂN TRẠI

Một ngày đầu tháng 3 năm 1977. Sáng sớm ban quản giáo ra lệnh: Hôm nay không học tập, không lao động, các anh mang hết đồ đạc ra sân khám xét.

Đây không phải là lần đầu. Trong quá khứ, thỉnh thoảng đôi ba tháng một lần chúng tôi bị “khám xét tổng quát”: Vũ khí nhọn (chống đối), cơm khô (âm mưu trốn trại), thư từ (liên lạc), tài liệu (tuyên truyền)… Sau khi ăn cơm trưa, xét tiếp đến xế chiều mới xong.

Anh em đang xếp đồ đạc lỉnh kỉnh cho vào túi vải bỗng quản giáo ra lệnh: “Cán bộ trung đoàn đến, tất cả đứng yên tại chỗ”. Cán bộ trung đoàn, gầy đét, mắt vàng sốt rét kinh niên, môi thâm thuốc lào trao một tờ giấy, quản giáo đọc: “Các anh có tên sau đây đứng qua bên phải, chờ lệnh”. Mười lăm, mười sáu tên, trong đó có tôi. Các anh khác mang đồ trở vô lán, đóng cửa lại. Cấm trở ra sân. Nhóm chờ lệnh, hoang mang. Nhóm trở vào nhà lo âu. Cả hai nhóm đều xanh mặt.

Sau đó, nhóm chờ lệnh mang túi đồ đạc được dẫn lên trước văn phòng tiểu đoàn L2T1, ngồi thành một hàng dọc cùng với nhiều nhóm khác. Tiếp tục chờ lệnh. Chờ lệnh trong sợ sệt. Chốc chốc lại có anh thì xin phép đi tiểu. Mờ tối, khoảng 8 giờ, một đoàn 5 chiếc Molotova tới. Bây giờ cán bộ trung đoàn mới cho biết: “Có lệnh chuyển trại các anh.” Giống như gần 2 năm trước từ “Tử cấm thành Trưng Vương” lên Long Giao, nghĩa là đi ban đêm, với bạt mui xe đóng kín; lệnh rất nghiêm nghĩa là ra khỏi hàng là bắn bỏ. Một chi tiết nhỏ: lần này, tôi không nghe tiếng AK đạn lên nòng. Molotova chạy suốt đêm, bỏ đường nhựa, chạy quanh co đâu trong rừng, dằn, xốc lắm. Sáng hôm sau, đoàn xe thả tù xuống một trảng tranh. Lần lượt nhảy xuống. Anh nào cao dưới 1.60 m không thấy đâu! Tranh cao khỏi đầu. Tập hợp. Chia tổ, chia lán. Đốn cây, dựng nhà, đào giếng. rành quá rồi. Địa danh: Katum, rừng già, nguyên là mật khu giữa Tây Ninh và biên giới của Việt Miên.



SỐNG GIỮA RỪNG GIÀ KATUM

Cán bộ nói chung quanh không có hàng rào, không kẽm gai, không bộ đội gác gì hết, nhưng các anh đừng có dại dột mà trốn trại. Không biết đường ra đâu. Đúng, chúng tôi bị nhốt giữa rừng già. Đi lao động thỉnh thoảng gặp hầm hố, công sự chiến đấu, doanh trại của cộng sản, trước 75, nay đã hoang tàn. Cuộc sống có vẻ đỡ gò bó và đỡ đói vì có “kiếm chác” được chút “ của trời cho”: cải trời, măng, trái cây rừng … Thích nhất là gặp những hố bom, mỗi hố đường kính rộng hơn cả 10m, không biết sâu bao nhiêu, nhưng đầy âm ấp nước; có nước là có sinh vật: Cá và ếch. Tôi mang lưỡi câu “thứ thiệt”, có ngạnh đàng hoàng, nhợ nylon, chặt trúc làm cần câu cá và ếch, thằng bạn cùng tổ làm việc ngạc nhiên lắm. –“Ở đâu mày có?” –“ Mang theo khi đi trình diện chứ ở đâu mậy. Tao đâu có tính 10 ngày mậy”.


Giữa rừng già, đêm xuống, trăn trở nhớ nhà lắm. Trăng rừng, bóng trăng xanh tải, lành lạnh. Chập chờn, ma quái. Mưa rừng reo rắt, buồn thúi ruột. Còn lòng dạ nào mà nhớ Thanh Nga … “Mưa rừng ơi mưa rừng giọt mưa, nhớ ai mưa triền miên”… Thấm thoát mà ở tù hơn hai năm rồi. Cách đối xử của cán bộ đối với tù vẫn hằn học và khinh rẻ. Họ là kẻ thắng trận, nhưng họ biết không khi nào họ “tẩy não” được chúng tôi. Vậy, họ còn giữ chúng tôi làm gì? Từ ngày lên Katum đến nay đã 4, 5 tháng rồi có “học hành” gì đâu. Những đêm trằn trọc nghe bạn tù mớ… mớ cha, mớ mẹ, mớ vợ, mớ con… mớ bạn bè.


THĂM NUÔI . VIVE LA “2CV”


Một ngày đầu tháng 6/1977, quản giáo ra lệnh: “Khẩn trương, đốn cây, cất thêm mấy căn nhà. Các anh sắp được thăm nuôi. Cắt tóc, chọn áo quần “tốt” mà đón gia đình”. Chúng tôi ghi nhận tin “thăm nuôi” bán tín, bán nghi. Lần này, như có phép lạ, “Cách Mạng” thực hiện điều mới tuyên bố. L’exception confirme la règle. Thế là tôi được gặp mặt vợ con.

Lại Nguyễn Lộc Thọ, cựu giáo sư Quốc Gia Nghĩa Tử, người đã chở Honda tôi đi trình diện học tập ngày Chúa Nhật 23/6/1975, nay chở vợ và bốn đứa con tôi lên Katum, bằng chiếc 2 CV cũ kỹ. Cảm động nhất, là có bà nhạc mẫu tôi. Bà ngoại, bảy mươi ngoài, lụm cụm lên thăm thằng rể “tù”.



ÁNH SÁNG CUỐI ĐƯỜNG HẦM


Tháng 8/77, một số chuyên viên y tế, kiến trúc, kỹ sư được “chuyển trại”. Không nói thẳng, nói thật, chuyển trại, thế thôi. Về bến mới đục hay trong? “Cũng liều nhắm mắt đưa chân”. Autant en emporte le vent. Sắp xếp hành trang lên Molotova… lần thứ ba.


Lần này, chúng tôi nhận thấy hai điểm “sáng sủa”, nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, là di chuyển ban ngày và bạt mui xe không khép kín lại, tuy vẫn có hai bộ đội với AK ngồi ngoài bìa hai băng xe. Có AK nhưng không nghe tiếng đạn lên nòng. Đến xế chiều, xe chạy vào một doanh trại cũ của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, không biết đơn vị nào, chỉ nghe anh ngồi ngoài bìa nói Tây Ninh. Xe ngừng. Lần lượt nhảy xuống đất. Bỗng nhìn lên vách một căn trại chữ phai mờ rồi nhưng còn đọc được: TD 252 PB. Mắt tôi hoen mờ. Môi tôi nghe mặn. Tôi đã khóc: Thì ra đây là một phần của đơn vị cũ của tôi, Sư Đoàn 25 Bộ Binh.

Tái diễn cái màn: Chia tổ, chia lán, nhưng khỏi dựng nhà. Hàng dãy doanh trại bỏ trống. Ở đây tôi gặp lại Dương Tấn Lợi, đại úy Quân Nhu, trong nhóm Chasseloup/ Jean Jacques Rousseau đi nhậu hàng tháng với nhau. Vợ anh Lợi “dân Tây” – Quốc tịch Pháp, thứ thiệt chứ không phải như tôi bị chửi oan, đã đem đứa con “hồi hương” về Pháp rồi. Khỏe ru. Nó khỏi lo con, cháu nó. Lợi kéo tôi ra một góc, “nói nhỏ cho mầy biết, tao còn hai con khô sặc, tao cho mầy một con”. Trời! Tôi không biết caviar, tôi không biết “khô lân chả phụng” ngon đến mức nào, chớ giờ đây, đổi con khô sặc rằn, rằn, rằn này… tôi không chịu.

Độ hai tuần sau, tôi được giấy xuất trại … Tưởng là tốt lắm. Có ngờ đâu, như thầy Huyền Trang Tam Tạng, sau 80 nạn rồi … chỉ thỉnh được mấy pho “vô tự kinh”.



SỐNG LẠI


Đúng như Tam Tạng qua bao nỗi “trần ai” chỉ thỉnh được mấy pho “vô tự kinh”.

Được giấy xuất trại chỉ là thả ra khỏi trại tù nhỏ Củ Chi … Để được giam trong trại tù lớn Việt Nam.

Chữ “Ngụy” được in vào hồ sơ, như được xâm lên trán, thời trung cổ.


Ngụy có nghĩa là:

– Mất quyền công dân.

– Bị áp lực đi kinh tế mới, giao nhà cửa cho nhà nước “cách mạng” quản lý.

– Lẽ dĩ nhiên không nơi nào cho mình việc làm, bất cứ ở tầng lớp nào trong xã hội.


Dẹp hết tự ái, tôi xin vào làm y tá trong phòng y tế của một xí nghiệp dưới sự “chỉ huy” của một “bác sĩ chuyên tu” Cộng Sản (chỉ mong có việc làm ở Sài Gòn, khỏi đi kinh tế mới). Vậy mà hai tuần sau, chi bộ đảng quyết định: Chỗ này phải dành cho “thân nhân liệt sĩ cách mạng”.


Tôi cắn răng chịu đựng mọi đắng cay: Ra Sở Y Tế (Tòa Lãnh Sự Trung Hoa Dân Quốc cũ, đường Hai Bà Trưng) thành phố Hồ Chí Minh, gặp Bác Sĩ Nguyễn Hải Nam, cùng khóa Y Khoa Sài Gòn. Nam bây giờ là VIP, vì là “cơ sở cách mạng” (nằm vùng) do anh ruột Đại Tá Công An Cộng Sản Nguyễn Hải Thọ gài trong Bệnh Viện Cảnh Sát/ Tổng Nha Cảnh Sát Việt Nam Cộng Hòa, đường Võ Tánh. Nam chỉ phán một câu: ”Anh về thu xếp đi kinh tế mới”.


Đứng xếp hàng mấy tiếng đồng hồ để mua “nhu yếu phẩm”, thì bà tổ trưởng dân phố bảo:

– Cậu là ngụy, không bán.


Cay đắng ở chỗ: Bà này bà con khá gần với mình, nhưng nay mình là ngụy: Hết bà con. Tôi cố xoay sở, cố nuốt nhục, mong gia đình được dễ thở chút nào. Nhưng sau đây là giọt nước mắt làm tràn ly.

Con trai đầu lòng, học hết lớp 9, xét lý lịch, con ngụy, không được tiếp tục lên lớp 10.

Vậy người Cộng Sản muốn đầy đọa bao nhiêu thế hệ gốc Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa?

Tôi xin viết rõ ràng, minh bạch cho thế hệ mai sau: tôi đã đi dạy trung học, đã là giám khảo thi Tú Tài I & II nhiều khóa, tôi đã hành nghề y khoa trong và ngoài giới quân đội, tôi chưa khi nào hỏi lý lịch thí sinh hay bệnh nhân. Thí sinh giỏi, tôi cho điểm tốt. Bệnh tôi chữa. Bị thương, tôi săn sóc. Nặng tôi gọi trực thăng tản thương không cần biết đó là chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa hay Việt Cộng. Đó là tôn chỉ của Việt Nam Cộng Hòa.

Vì thế, khi con tôi mang phải cái tội “con ngụy” bị từ chối lên lớp trên, tôi quyết định vượt biên.

Tôi bàn kỹ với nhà tôi, chấp nhận biết bao gian lao, nguy khổ, đem mạng sống cả gia đình đổi lấy tự do. Chúng tôi hy sinh, mong các con có một tương lai sáng lạn hơn hay ít nhất không bị trả thù.

Trong lịch sử, chưa có thời nào, chưa có dân tộc nào phải chấp nhận thương đau, chết chóc, tan nát … bỏ xứ ra đi nhiều như Việt Nam Cộng Hòa, sau 75. Một cách khiêm tốn, ước lượng 10 người vượt biên, 6 người thoát hiểm, 4 người chết ngoài biển khơi (giông bão, bệnh, hải tặc, đói …), thì nếu 300.000 (ba trăm ngàn) “boat people” đến được bến bờ tự do, đã có 200.000 (hai trăm ngàn) chìm sâu đáy biển.

Việc tôi không hiểu được là con số chết chóc quá cao như thế, đã làm thức tỉnh lương tâm cả THẾ GIỚI… mà chính quyền mới vẫn dửng dưng. Họ có lương tâm hay không?


VƯỢT BIÊN

Tìm cái sống trong ngàn cái chết, gia đình tôi rời Sài Gòn ngày 26/10/78. Lẽ dĩ nhiên đầy hãi hùng. Chúng tôi chấp nhận hết. Nhờ ơn trời, chúng tôi đến Pulau Bidong ngày 3/11/78: ngưỡng cửa trước khi vào chân trời mới.

Ở Bidong, cũng khổ cực, thiếu thức ăn, thiếu đủ thứ … và nhiều lo lắng, nhưng sống vẫn HY VỌNG. Hy vọng làm lại cuộc đời ở một “đệ tam quốc gia”… Úc, Mỹ, Pháp… gì cũng được. Nơi đó có chút tình người. Những ngày đầu đói lả người. Chồng 39 tuổi, vợ 38. Bốn con, đứa nhỏ nhất: 5 tuổi.

Gia tài: Mỗi người một bộ đồ, chứa trong túi vải cộng với bộ đang mặc là hai, cọng với 2 ponchos “nhà binh”: Một tấm trên nền cát, một làm mái che mưa nắng. Còn được 16 gói “gạo sấy”. Đồ hành quân của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Từ đó nấu thành cháo lỏng… ráng chịu đựng.

Không một dollar. Không một chỉ vàng. Đó là gia đình tôi khi cập bến Bidong.

Tôi đi vòng khắp đảo … tìm viện trợ. Hỏi Ban đại diện: không biết! Chính quyền Mã Lai không cho được hạt gạo, lít nước nào.

Ngày thứ sáu trên đảo. Hết gói “gạo sấy” cuối cùng. Tôi gặp lại Bác Sĩ Nguyễn Cẩm Thạch và Dược Sĩ Nguyễn Kim Sơn (trước ở Trung Tâm 3 Huấn Luyện), vợ chồng Bác Sĩ Trịnh Văn Chương và Bác Sĩ Mã Ngọc Phương, Bác Sĩ Đoàn Lân, không quen trước nhưng giờ làm quen … tiếp tế cho mì gói, gạo, chén, nồi và dầu (để nấu và đốt đèn). Quý hơn bát cơm Xiếu Mẫu. Trân trọng đội ơn năm bạn.

Vào thời điểm này tháng 11/1978, “dân số” Bidong khoảng 12 ngàn. Việc tổ chức “ban đại diện” rất phôi thai. Trại trưởng là Nha sĩ Đỗ Cao Minh (anh ruột Trung tướng Đỗ Cao Trí).

Chúng tôi làm thủ tục ghi tên. Tàu chúng tôi được xếp số thứ tự 76, để theo đó mà được gọi vào phỏng vấn khi có phái đoàn “đệ tam quốc gia” đến.

Ngày nào cũng có “vượt biên” đến: Hoặc đến “thẳng” từ Việt Nam, hoặc do chính quyền Mã Lai chở đến từ các trại khác. Exodus. 7, 8, 10 … 15 mười lăm ngàn vào cuối 1978.

Nha sĩ Minh rời trại. Bác sĩ Nguyễn Dương Đơn (con của bác sĩ Nguyễn Dương Đôn, Bộ trưởng Quốc Gia Giáo Dục năm 1954) thế. Bác sĩ Đơn đến đảo trước tôi nửa giờ, cùng với gia đình bên vợ là Bác sĩ Nguyễn Đình Hoàng, giáo sư Quang tuyến Y Khoa Sài Gòn (Tàu số 75).

Bác Sĩ Đôn rời trại rất sớm, Giáo Sư Lê Tấn Kiệt, cựu hiệu trưởng một trường trung học công lập ở Hậu Giang lên thế.

Người tị nạn ồ ạt đến. Việc tổ chức “ban đại diện” lần lần chu đáo hơn, liên lạc thường xuyên với Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc (UNHCR/ United Nations High Commissioner for Refugees)). Nhờ vậy trại Pulau Bidong được chính quyền Mã Lai tiếp tế thức ăn, nước ngọt. Tất cả chi phí do UNHCR đài thọ: 4(bốn) US dollar cho mỗi đầu người tị nạn, mỗi ngày.

Tàu tị nạn tiếp tục đến, vẫn có nhiều chiếc bị Hải quân Mã Lai kép trở ra hải phận quốc tế … Mặc cho sóng bão …


BÁC SĨ KOUCHNER VÀ “MỘT CON TÀU CHO VIỆT NAM”


Tàu bệnh viện L’Ile de Lumière

Nhắc đến Jean Blattes, lãnh sự Pháp ở Kuala Lumpur, Bernard Kouchner và nhóm cộng tác, thuyền Trưởng Francois Herbelin và thủy thủ đoàn, tôi chỉ có 6 chữ: THÀNH KÍNH TRI ÂN & CẢM PHỤC


Vượt bao khó khăn, trở ngại khắp mọi nơi, từ Paris đến Geneve, đến Kuala Lumpur, trở ngại ngay trong nhóm Médecins sans frontiere, trở ngại với IRC, với MRC (Malaysian Red Crescent), Bác Sĩ Kouchner đã thực hiện chương trình cứu trợ người vượt biển với tất cả con tim và khối óc của ông:

– Cứu trợ trực tiếp, đúng lúc, ngay trên biển cả.

– Đón người vượt biển, chữa trị và đưa đến bờ tự do THẬT SỰ.

Bác Sĩ Kouchner và nhóm cộng tác đã thuê một tàu hàng “trống lỏng” ở Nouvelle Calidonie. Ráp vào giường, máy quang tuyến X, phòng thí nghiệm, phòng vệ sinh… để biến thành tàu bệnh viện

L’Ile de Lumière.


Bao nỗi trần ai, bao nỗi nhọc nhằn với được chính quyền Mã Lai cho phép hoạt động. Tàu cập bến Bidong ngày 18 tháng 4, 1979.

Tôi đang làm trưởng trại, thế giáo sư Lê Tấn Kiệt đã được định cư. Cảnh thật là cảm động. Người tị nạn hoan hô dậy trời. Những người “may mắn” đến gần được phái đoàn, ôm chầm lấy họ, òa lên khóc. Khác màu da, khác màu mắt, khác ngôn ngữ … Sao họ chấp nhận xa vợ, xa con, quên no ấm, quên tiện nghi … tìm đến một góc trời xa thẳm để cứu giúp mình … Những người họ chưa hề quen.


Phái đoàn cứu trợ gồm có: Jean Blattes, lãnh sự Pháp, Bác Sĩ Bernad Kouchner, Bác Sĩ Vladan Radoman, Bác Sĩ Eric Cheysson, Bác Sĩ Patrick Laburthe, Bác Sĩ Pierre Bonniaud, Bác Sĩ Jean Claude Sénéchal và cô Ghislaine Martin, y tá.

Không người nào cầm được nước mắt. Các bác sĩ và y tá đã từng tình nguyện đi cứu trợ ở nhiều trại tị nạn rồi, nhứt là Bác Sĩ Bernard Kouchner đã từng đến Afghanistan, Biafra, Eritrea, Jordan, Kurdistan, Tchad … và Sài Gòn. Nhưng chưa bao giờ họ thấy tình trạng thê thảm như … “địa ngục trần gian Bidong”.

Bắt tay ngay vào việc. Khám bệnh. Cần thì chuyển lên “Ile de Lumière” … Quang tuyến X, thử nghiệm, giải phẫu. và … sanh … trên tàu.

Tàu rời Bidong ngày 5 tháng 7 năm 1979 với thành quả: khám bệnh 1927 người, 151 ca “giải phẫu” với gây mê, 18 em bé đã chào đời trên tàu, trong đó có 3 trường hợp sanh mổ.

Trước khi rời Bidong vì gần hết giao kèo và gần hết tiền quyên được, Bác sĩ Kouchner đã cho gỡ hết máy móc, dụng cụ, giường bệnh, máy phát điện … để giúp ban đại diện trại Bidong lập một bệnh viện 65 giường. Thuốc men, y cụ … cho lại hết để Ban Y Tế có thể tiếp tục hoạt động.

Bỗng nhiên tôi nhớ đến một chuyện trong “Bài tập đọc” lớp nhì: Một con vượn bị thợ săn bắn, biết mình sắp chết (hết tiền quyên được) bèn vắt hết sữa của mình cho con bú.

Bác Sĩ Kouchner đã gõ hết các cửa ở Paris từ Điện Matignon (Phủ Thủ Tướng Pháp) đến Quai d’ Orsay (Bộ Ngoại Giao) và đã được phép – với một quota khá cao – vớt được người tị nạn nào, chính phủ Pháp sẽ chấp nhận cho vào Pháp người đó..


Nhờ thế, sau khi rời Bidong, “con tàu cho Việt Nam” còn “tuần dương” dọc theo đường vượt biển Việt Nam – Mã Lai và Vịnh Thái Lan trong nhiều tuần.

Và nhiều người tị nạn được cặp bến bờ tự do … bờ sông Seine.


NHÂN VẬT ĐẾN ĐẢO BIDONG

Chắc chắn có nhiều vị đã từng giữ những chức vụ quan trọng trong hai nền Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa nhưng tôi không biết. Có rất nhiều kỹ sư, kiến trúc sư, luật sư. Đốc sự hành chánh …

Tôi chỉ xin ghi lại giới dân, quân y mà thôi:

Vào tháng 3, tháng 4 năm 1979, dân số Pulau Bidong đạt mức cao nhất: non 45.000 (bốn mươi lăm ngàn), khoảng 140 y nha dược sĩ đủ mọi khóa. Đặc biệt:

– Bác Sĩ Nguyễn Đức Tiến, y sĩ trung tá, trưởng khối Tê Mê Tổng Y viện Cộng Hòa … Thuộc hạng “sư” về khả năng chuyên môn. Đàn em gọi là Tiến “thầy”. Gia đình anh vượt biên làm hai nhóm, trước sau. Cả hai nhóm (hai cái ½ gia đình) đều gặp hãi hùng: Anh suýt bị hải tặc Thái Lan đạp xuống biển, tàu của chị cũng suýt bị đắm.

Mỹ, Nga phóng phi thuyền để ráp nối với trạm không gian… tí teo trong vũ trụ mênh mông. Dễ òm. Không ráp nối được mới là lạ, là trục trặc vì họ có đủ yếu tố kỹ thuật. Hai cái nửa gia đình anh chị Bác Sĩ Nguyễn Đức Tiến mà “ráp nối” nhau được ở Pulau Bidong mới không phải là lạ mà là PHÉP LẠ. Anh em ở giới Y chúng tôi nghĩ: Trời giúp bởi anh chị Tiến rất hiền, rất tốt với mọi người.

– Bác Sĩ Nguyễn Duy Cung rất hiền và đa tài. Anh đã là thuyền trưởng cận duyên và viễn duyên trước khi về học y khoa. “Interne Cung” (nội trú các bịnh viện). Chuyên khoa giải phẫu lồng ngực. Giám đốc bệnh viện Nguyễn Văn Học. Ngày 30/4/75, từ chối lời mời di chuyển, đứng giải phẫu với Bác Sĩ Bernad Kouchner cho đến khi bộ đội Cộng Sản vào chĩa AK đuổi cả hai ra khỏi phòng mổ.

Anh Cung vẽ rất tài, làm chirungie plastique rất có “hoa tay”.

Bác Sĩ Nguyễn Bội Hoàn, quyết định đi Pháp, rời đảo rất nhanh. Bác Sĩ Hoàn là trưởng nam của Giáo Sư Nguyễn Ngọc An, cựu bộ trưởng Bộ Chiêu Hồi.

Bác Sĩ Trần Dương Đôn (Dominique), em ruột Giáo Sư Trần Lữ Y (Louis), cựu bộ Trưởng Bộ Y Tế, ở đảo có mấy tuần. Vợ là Bác Sĩ Thái Ngọc Hoa (em của Thái Tường, tiến sĩ Dược, giáo sư Ký Sinh Trùng Học) và con đã “di tản” sang Pháp trước 30/4/1975 nên Son Excellence Consul de France à Kuala Lumpur, Jean Blattes chấp thuận lẹ.

Giới ca sĩ có Thanh Tuyền, Băng Châu.

Báo Nouvelle Calédonie, nơi xuấn xứ chiếc tàu bệnh viện L’ Ile de Lumiere, đài truyền hình Mỹ: CBS, Pháp: Antenne 2 đến Pulau Bidong … làm phóng sự, thu hình … có “dính” tôi trong đó. Nhờ vậy, một số bạn hữu ở Mỹ, Pháp biết tôi đã thoát khỏi “địa ngục trần gian” và viện trợ cho tôi, qua trung gian UNHCR.


TRỞ LẠI PULAU BIDONG hay 30 NĂM SAU, VIỆT CỘNG VẪN LÀ VIỆT CỘNG, VẪN TÀN ÁC VÀ NGU DỐT

Tháng 3, năm 2005, một nhóm thuyền nhân trở lại Pulau Galang và Pulau Bidong để tưởng nhớ những người đồng cảnh ngộ đã vắng số trên bước đường tìm tự do và tỏ lòng tri ơn chính phủ, hội đoàn, cơ quan, tư nhân … đã cứu giúp người tị nạn. Ở mỗi nơi họ dựng một tấm bia với những giòng như sau. Tôi xin ghi nguyên văn:

“In commemoration of the hundreds of thousands of Vietnamese people who perished on the way to freedom (1975 – 1996). Though they died of hunger or thirst, or being raped, or exhaustion or any other causes, we pray that they may now enjoy lasting peace. Their sacrifice will never be forgotten. Overseas Vietnamese communities, 2005”.

Tạm dịch:

Tưởng niệm hàng trăm ngàn người Việt đã bỏ mình trên con đường đi tìm Tự Do (1975-1996). Dù họ chết vì đói khát, vì bị hãm hiếp, vì kiệt sức hay vì bất cứ lý do nào khác, chúng ta thảy đều cầu nguyện để họ được yên nghỉ dài lâu.

Sự hy sinh của họ sẽ không bao giờ bị lãng quên.

CỘNG ÐỒNG NGƯỜI VIỆT HẢI NGOẠI, năm 2005.

Chính phủ Việt Nam làm áp lực với chính phủ Mã Lai Á và Nam Dương phá bỏ hai bia đá đó. Nhưng

Trăm năm bia đá thì mòn

Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ


LÀM LẠI CUỘC ĐỜI

Gia đình tôi đến Annandale, Virginia ngày 01 tháng 06 năm 1979. Lúc bấy giờ người “tị nạn” “boat people” chưa đông. Thủ tục trợ cấp xã hội, y tế (welfare, medicaid) rất nhanh …

Sáng sớm 4 giờ, tôi và ba đứa con lớn thức dậy đi … bỏ báo Washington Post. Nhớ bài học thuộc lòng từ lớp ba, năm 1948:

Tôi chỉ là một trẻ em bán báo

Khắp phố phường chân sáo nhảy tung tăng


Bán văn chương ai dám bảo nghề hèn …


Đến 6 giờ … “công tác phổ biến văn chương, chữ nghĩa” xong, cha con về ngủ lại một chút. 7:30 sáng thức dậy. Con đi học. Cha đi làm “thợ phụ” với một nhóm … sửa chữa nhà để có chút tiền bù vào “ngân sách” gia đình.

Tối về, cơm nước xong xuôi, các con làm “home work” vật vã với Anh văn cho học sinh ngoại quốc (English as a Second Language/ ESL), cha lo học thi ECFMG (bằng tương đương cho bác sĩ ngoại quốc).

Khóa ECFMG tháng 7/79 đã hết hạn nộp đơn rồi, hơn nữa biết gì mà thi – Tù đày cải tạo, gian khổ Bidong, trí óc có ngu muội, thì hợp lý thôi. Ráng “gạo” để thi khóa 02/80. Đến cuối năm 79, đành phải bỏ bớt cái “job” “bán văn chương” của Washington Post.

Đậu ECFMG luôn phần Y khoa và Anh văn, mừng hết lớn. Lo nộp đơn “xin một chỗ đứng dưới ánh mặt trời”: nội trú (residency). Ráng cho kịp niên khóa 80 – 81.


ECFMG, ĐỨA CON “VÔ THỪA NHẬN”

Tôi gởi ra tất cả là 62 đơn, khắp nước Mỹ, trừ những nơi người ta ghi rõ ràng: No FMG (Foreign Medical Graduates là bác sĩ tốt nghiệp trường ngoại quốc).

Đủ mọi ngành, trừ những ngành mình thấy rõ ràng … vô hy vọng như Giải Phẫu Thẩm Mỹ, Tai Mũi Họng, Nhãn Khoa…. Tiền làm bản sao, tiền bưu phí… muốn ói cơm.

Số trời còn thương. Được ba nơi gọi phỏng vấn … và chỉ một nơi nhận: Family Practice (Y Khoa Gia Đình) ở Delaware County Memorial Hospital, Drexel Hill, PA 19026.

Bấy giờ là tháng 6/ 1980. Lần đầu tiên, năm năm sau ngày Cộng Sản chiếm miền Nam Việt Nam tôi … thấy chút yêu đời.

Residency 3 năm. Cũng cực nhọc, cũng ê chề lắm! Một y tá hỏi: Biết “start an IV” không?

Một bà bệnh đuổi tôi ra khỏi phòng vì tôi không hiểu “Charlie horse” là gì?

Thôi, rán nín thở lặn qua sông, thôi noi gương Quốc Văn Giáo Khoa Thư… về nhà viết một trăm chữ NHẪN…


CHÂN TRỜI MỚI

Xong chương trình thường trú Family Practice tôi làm full time ER physician (bác sĩ khoa cấp cứu) ở Somerset Hospital, PA 15501.

Khoảng đầu tháng 3 năm 1985, bỗng nhiên tôi nhận điện thoại từ Los Angeles (L.A.).

– Bác sĩ xuống L.A. được không?

– Tôi đang đi làm, mà xuống L.A. làm chi? Ông là ai?

– Tôi đại diện CBS, muốn mời bác sĩ xuống L.A. “thu hình”, trong tiết mục “Ten years later”.

– Tôi không xuống LA được. Thời khóa biểu (schedule) của phòng cấp cứu (ER) nhà thương chặt chẽ lắm …

– Vậy bác sĩ lên New York được không?

– Cũng không được … job mà!

Ông ta suy nghĩ một chút:

– Thôi, bác sĩ không xuống L.A., không lên New York thì CBS team sẽ đến nhà bác sĩ ở Somerset, bác sĩ có chấp nhận không?

– Ông có thể cho tôi biết lý do nào tôi được hân hạnh này?

– Bác sĩ quên là hồi tháng 3 năm 79, CBS có thu hình bác sĩ ở Pulau Bidong?

– OK! OK! Hẹn ngày giờ ngay.


Tối hôm ấy tôi suy nghĩ: Cả đời không khi nào dám khoe khoang. Có được cái gì đâu mà khoe. Nhưng, lần này, khi CBS đến phỏng vấn, mình phải “gáy” một chút. Để chi?

Để nhắn rằng những sĩ quan ngụy, vượt biên, những người mà họ gọi là “non sông chối bỏ giống nòi khinh”… giờ cũng an cư lạc nghiệp ở nước ngoài và “đám con ngụy” mà họ trả thù không cho tiếp tục học trung học cấp III… nay đang theo học ở các Ivy League Colleges cả.

Bác Sĩ Nguyễn Sơ Đông

(Y Khoa Sài Gòn 65)
[Nguồn: Diễn đàn Cựu Sinh Viên Quân Y]
(http://svqy.org/2017/1-2017/bedau/bedau.html)

thuykhanh
05-15-2017, 06:51 AM
Đà Lạt Trời Mưa


Thứ Hai, 15 tháng Năm năm 2017 07:34
Tác Giả: Phạm Tín An Ninh



http://www.saigonecho.com/images/2017/Video/ho-xuan-huong-dalat.jpg





Tôi đến Đà Lạt đúng vào một ngày mưa. Mưa tầm tã. Ngồi trong nhà Thủy Tạ, nhìn những hạt mưa bay giăng kín rừng thông, phủ mờ khu phố Hoà Bình , và rơi lả tả xuống mặt hồ Xuân Hương, tôi mơ hồ như những giọt nước mắt của người góa phụ đã từng một thời nhan sắc.

Người con gái vừa đến gặp tôi làm cho tôi mỉm cười với sự so sánh lạ lùng này. Bởi cô ta cũng xinh đẹp, và dù có nở nụ cười tỏ ra mừng rỡ khi chào tôi, vẫn không giấu được nét buồn trong đôi mắt. Một nỗi buồn có cái gì xót xa sâu lắng lắm.

Tôi đã đến thành phố này nhiều lần. Lần cuối cùng vào mùa Giáng Sinh năm 1970, khi đơn vị tôi may mắn được lệnh về đây phối họp hành quân giữ an ninh cho một khóa Võ Bị làm lễ ra trường. Bao nhiêu năm trong rừng núi tây nguyên gió lạnh mưa mùa, rồi xuống bờ biển Phan Thiết với những động cát trơ trọi nóng như lửa đốt, bất ngờ được về Đà lạt, cho dù chỉ sau một ngày ở thành phố, đơn vị tôi lại được đổ xuống những rừng thông xa tít, nhưng đám lính tráng bọn tôi vẫn có cái cảm giác như được đi nghỉ mát.

Người ta nói đúng, Đà Lạt dễ thương như những cô gái với gò má trắng hồng và đôi môi mộng đỏ để ai một lần lên xứ Hoa Đào mà lòng không vấn vương. Đà lạt cũng là nơi có nhiều huyền thoại về những mối tình đẹp và buồn của các cô sinh viên với những chàng trai mang alpha đỏ theo nghiệp kiếm cung, mà tôi đã đọc được trong những bài thơ thật buồn của Lệ Khánh từng vang tiếng một thời.

Nhưng đó là Đà Lạt của ngày xưa. Còn hôm nay tôi đến Đà Lạt, với ngổn ngang những nỗi buồn nặng trĩu trong lòng, và Đà Lạt bây giờ chỉ là một thành phố chết.
Tôi ra tù, trong thời gian còn bị quản chế, trong túi không có bất cứ một tờ giấy nào. Ngay tấm “Giấy Ra Trại” cũng đã bị công an xã giữ. Nhờ thằng em cùng đơn vị cũ, có lò bánh mì ở Tháp Chàm, gởi tôi theo một chiếc xe bộ đội nhận mối chở bánh mì với tiền thù lao khá, tôi mới có mặt ở đây. Anh tài xế sau khi giao mấy thùng bánh mì, còn gởi tôi cho cô “chủ nhiệm” quán Thủy Tạ (bây giờ là của nhà nước), bảo là ông anh họ, để tôi yên lòng không bị hỏi giấy tờ.
Quán vắng tanh.Tôi chọn cái bàn nhỏ xa phía trước và gọi hai tách trà nóng. Tôi cũng chỉ đủ tiền để trà hai tách trà này.

- Anh chờ em có lâu không ?
Tôi giật mình khi nghe cô gái hỏi.
- Không sao, tôi chờ cũng đã khá lâu, nhưng được gặp chị hôm nay là tôi mừng lắm rồi.
Điều mà ai cũng ái ngại khi phải mang tin buồn đến cho một người. Đặc biệt người đó lại lại là một cô con gái đẹp, như cô gái đang ngồi trước mặt tôi đây. Tôi dè dặt :

- Chắc chị đã biết, như trong lá thư tôi gởi. Tôi là bạn tù của Thống, và hôm nay muốn gặp chị là để nhắn lại những điều Thống đã nhờ tôi.

- Em biết là anh Thống đã chết từ năm 1978, nhưng mãi đến năm ngoái , em mới được phường đưa “Giấy Báo Tin”. Em không biết làm sao báo cho mẹ anh ấy biết. Bà ở bên Mỹ nhưng em không liên lạc được.

Tôi bất ngờ, nhưng chợt thấy một chút yên lòng khi nghĩ là cô sẽ không còn đột ngột nhận một tin buồn từ chính miệng của tôi .

- Chị đã biết tin buồn về Thống. Như vậy cũng là may, chứ không phải người tù nào chết mà người nhà cũng được báo tin. Hôm nay, dù hoàn cảnh khó khăn, tôi cũng phải tìm gặp chị đề nói lại cùng chị những lời trăn trối cuối cùng, và trao cho chị những kỷ vật mà anh Thống nhờ tôi trao lại chị.

- Cả tuần nay lòng em rất bồn chồn, mong sớm được gặp anh. Vì em không biết anh Thống chết ở đâu và mồ mả ra sao. Nhiều lần nằm mơ, em thấy anh Thống, nhưng chưa bao giờ nghe anh ấy bảo là anh đã chết.

Tôi lấy trong túi ra để trên bàn một sợi dây đeo một tấm ảnh nhỏ được lồng vào trong cái khung có hình trái tim đẽo bằng gỗ mun -loại gỗ quý mà chúng tôi thường tìm được ở khu rừng Việt Bắc- , một chiếc vòng nhỏ làm bằng nhôm xinh xắn, có khắc đậm sáu chữ Lê Minh Thống & Hà Nhất Anh, và trịnh trọng đứng lên đưa cho cô.

Nhất Anh chính là cô gái, và Minh Thống là tên một người bạn tù của tôi. Anh đã chết sau gần hai năm bị chuyển ra ngoài bắc.
Tôi gặp Thống ở trại Lào Cai, khi hai thằng vừa trong nam mới chuyển ra. Sau hơn một năm cả hai cùng chuyển về trại Hang Dơi thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn và may mắn được “biên chế” về cùng một tổ. Thống tốt nghiệp từ trường Võ Bị Đà Lạt, được chuyển sang không quân, lái phản lực. Trong thời gian học trường Võ Bị, Thống quen Nhất Anh , khi ấy đang là sinh viên của trường Chính trị Kinh Doanh. Thống chỉ còn bà mẹ già và cô em gái ở Sài Gòn. Cuộc tình của cô sinh viên Đà Lạt và chàng cựu sinh viên sĩ quan alpha đỏ kéo dài khá lâu. Hai người đã làm lễ hỏi. Nếu Thống không sang Mỹ học phi hành và nếu không có ngày 30 tháng tư, thì hai người đã làm đám cưới .

Những ngày cuối cùng khi Sài gòn hấp hối, Thống được bạn bè thu xếp hai chỗ trên trực thăng để bay ra hạm đội Mỹ, nhưng Thống lại dành cho mẹ và cô em gái. Gởi mẹ và em cho thằng bạn thân, Thống nói dối với mẹ là anh sẽ đi sau.
Thống liều lĩnh tìm mọi cách chạy về Đà lạt. Chưa kịp đón Nhất Anh, thì Sài Gòn mất. Thống nằm ở nhà Nhất Anh một tuần rồi ra trình diện “uỷ ban quân quản”, nhưng người ta chỉ cấp giấy chứng nhận và ghi là phải về Sài Gòn trình diện chính quyền địa phương ngay. Trở lại Sài Gòn, nhà bị tịch thu, Thống phải ở ké nhà một người bà con trước khi vào trại cải tạo.

Mấy năm trong tù, Thống có liên lạc được với Nhất Anh . Nhưng vài tháng mới nhận được một lá thư ngắn, chỉ hỏi thăm vài câu và khuyên “học tập tốt để sớm được khoan hồng về với nhân dân”. Bao nhiêu nhung nhớ yêu thương đều phải dấu kín ở trong lòng. Trong tờ khai lý lịch, Thống ghi Hà Nhất Anh là vợ, cũng là người thân duy nhất, và địa chỉ của Nhất Anh cũng là nơi anh xin cư trú sau này .

Thống to con đẹp trai, nhưng dường như tình yêu dễ làm cho Thống yếu lòng. Có những ngày đi chặt nứa trong rừng, Thống chỉ ngồi khóc và thì thầm gọi tên người yêu. Mấy lần không mang về đủ nứa, bị phạt cắt bớt một nửa phần ăn vốn đã ít oi, nhưng vẫn không ngăn được nước mắt của Thống. Dường như khi lòng đang thương nhớ ai, thì cái đầu không còn điều khiển đôi tay được nữa. Nhiều hôm tôi phải vận động anh em nhường bớt một chút phần ăn cho Thống, và chia nhau đi lấy thêm nứa cho Thống có đủ chỉ tiêu để không bị phạt.

Thống còn trẻ, nhưng cũng như hầu hết sĩ quan xuất thân từ Đà Lạt, dù ở binh chủng nào cũng kiêu hùng và thăng tiến rất nhanh. Thống nhỏ hơn tôi sáu tuổi, nên xem tôi như người anh. Có điều gì vui buồn, Thống tìm tôi chia sẻ. Tôi luôn an ủi và khuyến khích để anh có thêm nghị lực. Thống có gì khó khăn tôi sẳn sàng hết lòng giúp Thống.

Sau này, đội tù của tôi được phân công đi lấy gỗ về xây dựng hội trường. Họ bắt chúng tôi phải tìm những cây gỗ lớn và thẳng. Có những thân cây lớn đến hai vòng tay ôm không hết. Trời mùa đông với những cơn mưa phùn không dứt, nên những con đường mòn trơn như mỡ, chúng tôi chia từng nhóm hai mươi người vừa kéo vừa bẩy cho từng thân cây lăn theo những con đường mòn ấy từ trên núi cao lao xuống suối để cho nó trôi về bên hông trại.

Ăn uống quá thiếu thốn, đám tù chúng tôi triền miên trong cơn đói. Sức ngày càng yếu mà phải lao động quá nặng nhọc, nên chỉ sau một tuần lấy cây, người nào cũng mệt lả. Một hôm đang lấy sức bật một thân cây xuống bờ suối, Thống mệt quá nên lảo đảo rồi ngã sấp trên thân cây, đúng lúc cây này lăn xuống suối, bật luôn theo Thống. Chúng tôi chỉ còn nghe tiếng hét của Thống trước khi anh bị văng xuống lòng suối nằm sâu dưới vực.

Trời nhá nhem tối, cả hơn bốn mươi thằng tù chia nhau trèo xuống suối đi tìm Thống. Gần nửa giờ sau chính tổ của tôi tìm được Thống. Anh nằm bất động bên bờ suối. Rất may là ở một nơi không có đá. Thống thoi thóp thở, nhưng không còn cử động được.
Chúng tôi nhanh chóng kết một cái bè gỗ, rồi theo dòng suối, cùng nhau đẩy anh về trại. Sau hơn một tiếng đồng hồ trong trạm xá, Thống tỉnh lại, mở hé mắt nhìn mọi người. Khi nhận ra tôi, Thống thì thào :

- Nếu sau này anh còn sống mà về được, nhớ tìm giùm Hà Nhất Anh và nói là em xin lỗi nàng. Mong nàng hãy sớm lấy chồng và quên em đi.

Tôi nắm chặt đôi vai lạnh lẽo của Thống :
- Thống yên chí, tôi sẽ làm bất cứ điều gì mà Thống dặn dò.

Thống cố gắng mở lớn mắt nhìn tôi như cầu khẩn :
- Nhờ anh giữ lại cái vòng nhôm trong balô và tấm ảnh em đang mang trong cổ này, trao lại cho Nhất Anh. Nhớ nói giùm là em xin lỗi cô ta.. xin lỗi cô ta .

Ngày hôm sau, một buổi chiều mưa buồn ảm đạm, dưới sự kiềm soát của hai vệ binh, tôi cùng ba người bạn tù đẩy xác Thống trên một chiếc xe “cải tiến” ra chôn dưới triền núi, bên một hốc đá . Chúng tôi đào huyệt đúng vào lúc cơn mưa trút xuống. Huyệt đào tới đâu thì nước ngập theo tới ấy. Tôi năn nỉ xin hai vệ binh cho chúng tôi tìm một nơi khác cao hơn, và chờ cơn mưa tạnh bớt, nhưng không được đồng ý, mà còn bị quát tháo, bảo phải “chôn khẩn trương lên mà về ngay”.
Tôi phải ngồi đè trên xác Thống, lềnh bềnh trên nước, để cho ba người bạn tù kia lấp đất.

Chuyện xảy ra đã hơn sáu năm rồi. Thời gian có biết bao sự đổi thay. Tôi cũng đã nghe và chứng kiến không ít những điều phản trắc. Không biết bây giờ Nhất Anh đã có chồng chưa và trong cảnh đổi đời kéo theo bao cay đắng, liệu trong lòng cô có còn lưu luyến chút tình xưa.
Đắn đo giây lát rồi tôi cũng quyết định phải nói hết những gì tôi biết và nhất là những điều mà Thống, trước khi trút hơi thở cuối cùng, đã nhờ tôi nếu còn có dịp trở về, hãy nói lại cùng nàng.
Nghe tôi kể xong mọi điều, Nhất Anh vẫn ngồi yên bất động. Im lặng một lúc tôi nghe tiếng nàng khóc. Hai tay nắm chặt các kỷ vật mà tôi vừa trao lại cho nàng. Ngoài trời những cơn mưa càng vần vũ. Tiếng mưa như thấu hiểu được nỗi niềm, từng đợt trút xuống mái nhà Thủy Tạ làm át đi tiếng sụt sùi, để cho nàng khóc.
Tôi cũng đã không cầm được nước mắt.

- Em cám ơn anh, và xin lỗi .. em đã không nén được xúc động.

Tôi cũng kịp lấy lại bình tĩnh và tìm lời an ủi nàng :
- Dù sao mọi việc cũng đã qua rồi. Sau cái ngày nước mất nhà tan, biết có bao cảnh chia lìa tang tóc. Thôi thì tôi cầu mong Nhất Anh sớm nguôi được nỗi buồn này và có thêm nhiều nghị lực để mà bước tới, như lời trối trăn của Thống. Nhất Anh còn trẻ mà, còn cả một con đường thật dài trước mặt. Còn tôi, trong hoàn cảnh này, cũng chẳng biết rồi đời sẽ ra sao. Thôi đành phó cho trời đất đẩy đưa.
Nhất Anh vẫn ngồi bất động, không nói lời nào.

Nhìn đồng hồ treo trên vách, nhớ tới lời hẹn của anh tài xế, tôi khẽ gọi nàng :

- Chị Nhất Anh ! Chỉ còn 15 phút nữa là anh tài xế sẽ quay lại đón tôi. Sau này nếu chị có cần gì ở tôi, cứ liên lạc với tôi nghe !
Tôi nói cốt chỉ để an ủi thôi. Chứ tôi thì còn khả năng gì mà giúp nàng. Hơn nữa thời buổi nhiễu nhương này, dễ gì mà liên lạc được với nhau.

Nhất Anh lấy tay lau nước mắt, ngước lên nhìn tôi, ngần ngừ vài giây rồi lên tiếng :
- Nhờ anh vẽ lại và hướng dẫn cho em nơi chôn cất anh Thống. Sau này biết đâu có dịp may, em sẽ tìm ra thăm anh ấy.

Tôi đứng lên đến quày trả tiền hai tách trà, và xin một tờ giấy trắng. Tôi ngồi vẽ khá tỷ mỷ và hướng dẫn cho Nhất Anh con đường đến trại tù, và mộ của Thống nằm bên hốc đá trên triền núi, phía sau trại tù chừng một cây số. Cũng may là có cái hốc đá lớn duy nhất, để có thể định hướng được ngôi mộ nằm ở nơi nào giữa vùng rừng núi bao la.

Nhất Anh đứng dậy mặc lại áo mưa, xúc động nói lời chia tay, rồi đạp xe đi. Tôi nhìn theo bóng dáng nhỏ nhắn của nàng lảo đảo xiêu vẹo dưới cơn mưa tầm tã mà ngậm ngùi lo âu cho số phận của nàng. Tôi nghĩ có lẽ không bao giờ tôi còn có dịp gặp lại Nhất Anh.

Mùa hè năm rồi, vợ chồng tôi sang Cali thăm mấy cô con gái, nhân tiện chúng tôi đến thăm gia đình ông anh họ ở thành phố biển San Diego. Giáng Sinh năm 1970, nhân cuộc hành quân bất ngờ ở Đà Lạt, tôi có ghé thăm anh chị,. Khi ấy anh làm ở trung tâm điện lực Đa Nhim và vợ anh là giáo sư dạy trường Bùi thị Xuân Đà Lạt. Anh chị rời Việt Nam từ những ngày Sài Gòn hấp hối, nên cũng đã hơn ba mươi năm rồi bây giờ anh em mới gặp lại nhau. Anh lớn hơn tôi gần mười tuổi, vừa bà con lại vừa là học trò cưng của ba tôi lúc anh còn học ở trường Pháp Việt, nên anh chị rất quý chúng tôi, nhất quyết bắt vợ chồng tôi phải ở lại nhà anh chị một tuần để cùng đi chơi với anh chị.

Sau một ngày đi khắp nơi ở San Diego, chúng tôi đi một vòng sang khu nghỉ mát Cancun bên Mexcico. Đến ngày thứ bảy cuối tuần anh chị rủ chúng tôi đi tham dự buổi họp mặt của Hội Đồng Hương Đà Lạt, tổ chức tại Anaheim, gần khu Little Saigon, nhân tiện sau đó anh chị đưa tôi về lại nhà cô con gái ở Fullerton, cũng rất gần nơi ấy. Gia đình anh được giấy mời với bốn chỗ ngồi. Vợ chồng đứa con trai lớn không đi, nhường chỗ cho chúng tôi. Bảo là chú thím ở tận bắc Âu, lâu lắm mới có dịp gặp nhiều đồng hương.

Không ngờ đã rời khỏi quê hương khá lâu, nhưng những người Đà Lạt còn giữ cái tình đồng hương đậm đà như thế. Hội trường không còn một chỗ ngồi. Nghe bà chị nói là họ đã đến từ khắp nơi trên nước Mỹ và Canada, một số từ Úc và Âu châu. Chưa tới giờ khai mạc, mọi người ngồi nói chuyện líu lo với những tiếng cười nghe như dư âm của một thời trai trẻ. Những cô gái với đồng phục áo dài trắng trong ban tổ chức đang chuẩn bị cho bài quốc ca, vẫn còn dáng dấp của Đà Lạt ngày xưa: môi đỏ má trắng hồng .

Chúng tôi ngồi ở dãy bàn đầu dành cho quan khách, cùng với gia đình của hai vị cựu giáo sư Bùi Thị Xuân khác. Trên sân khấu, một cái phông lớn là hình ảnh của khu chợ Hòa Bình và một mảng của hồ Xuân Hương trong sương mù. Tôi thầm phục người họa sĩ Đà Lạt nào đã vẽ bức tranh thật sống động. Tôi có cảm giác như mình đang ở một nơi nào đó trên thành phố thơ mộng một thời này. Ai đó đã nói đúng “người Việt nào ra đi cũng mang theo quê hương”.

Khi nghe cô MC giới thiệu thành phần ban tổ chức cuộc họp mặt hôm nay, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy toàn là phái nữ.
Tôi chợt nhớ tới một bài viết nào đó mà tôi đã đọc đươc:
Người Việt đến Mỹ, nữ giới thành công hơn là nam giới, và số lượng phụ nữ tham gia vào những hoạt động chính trị, cộng đồng ngày một nhiều hơn. Tôi nghĩ tới Dương Nguyệt Ánh, Lê Duy Loan, những người phụ nữ đã mang đến cho người Việt bao điều hãnh diện. Nhưng đến khi chị trưởng ban tổ chức có đôi lời cùng đồng hương, tôi mới hiểu thêm: Buổi họp mặt này là do các cựu nữ sinh trường Bùi Thị Xuân đảm trách.

Đang vui tôi bỗng ngậm ngùi khi một chị trong Ban Tổ Chức lên trình bày về hoàn cảnh thương tâm của nhà thơ Lệ Khánh. Bây giờ tôi mới biết Lệ Khánh là con gái của phó trưởng ty cảnh sát Đà Lạt và có cuộc hôn nhân thật buồn với một nhà thơ quân đội, lại là sĩ quan cấp tá trong ngành Tâm Lý Chiến.
Bao nhiêu điều ấy đã đưa nhà thơ nổi danh một thời của xứ sương mù vào bước đường cùng, phải đi bán hàng rong, bán từng trái cà trái ớt trong cơn bệnh hoạn, và đứa con trai duy nhất phải đi ở mướn cho người ta. Ban tổ chức kêu gọi tình thương của những cựu Bùi Thị Xuân, của những người Đà Lạt cũ. Tôi thầm cám ơn tấm lòng của những người Đà Lạt và nghĩ đây là một việc rất nên làm.

Đến phần văn nghệ, cô MC giới thiệu <“nhạc phẩm Ai Lên Xứ Hoa Đào với một giọng hát truyền cảm của một Bùi Thị Xuân ngày trước, đã từng làm điêu đứng bao trái tim học sinh, sinh viên Đà Lạt”.
Lời giới thiệu đó không có một chút cường điệu nào. Giọng hát cất lên cao vút làm cả hội trường im lặng trong khi lòng tôi lắng xuống thẫn thờ. Không phải vì giọng hát truyền cảm, mà vì người hát ấy chính là Hà Nhất Anh, người con gái có một mối tình buồn với người bạn tù của tôi ngày trước. Gần hai mươi năm rồi, khuôn mặt có đôi chút đổi thay, nhưng tôi vẫn nhận ra. Cũng với nhan sắc ấy, nhưng với nụ cười rạng rỡ, không còn nét buồn nào đọng trên đôi mắt.

Thấy tôi nhìn đăm đăm lên sân khấu, bà chị đập vai tôi :
- Bộ có quen hay sao mà nhìn dữ vậy ? Hay lại là một người xưa ?

Tôi quay lại, đúng vào lúc bài hát vừa chấm dứt. Chờ cho những tràng pháo tay, cùng những tiếng la hét lắng xuống, tôi ôm vai bà chị :
- Đúng là có quen, nhưng không phài người xưa của em, mà là hôn thê của một thằng bạn tù của em, đã chết ngoài
Bắc ! Chính em là người đã trao lại cho cô ấy những kỷ vật của anh ta, khi em vừa mới ra tù.

- Cô ấy là học trò cũ của chị, để chị gọi cô ấy lại nghe .
Tôi chưa kịp trả lời, thì bà chị đã vẫy tay gọi một cô trong ban tiếp tân nhờ đi mời “ca sĩ Hà Anh”.

Cô đến nhoẻn miệng cười, cúi đầu chào anh chị tôi và các thầy cô giáo cùng bàn, rồi khựng lại khi nhìn vợ chồng tôi, gật đầu nhưng không nói lời nào. Thấy tôi ngồi gần bà chị, nên cô nhìn bà chị như muốn hỏi chúng tôi là ai. Bà chị cười chỉ vào tôi :
- Đã gặp nhau rồi mà không còn nhận ra sao?

Cô nhìn tôi, rồi lắc đầu :
- Xin lỗi, em không nhớ ra .

Tôi có một chút khó chịu trong lòng. Hóa ra người đàn bà cũng dễ quên, ngay cả những kỷ niệm đáng ra phải nhớ trong đời. Giữ lịch sự, tôi nhìn cô :
- Có phải chị là hôn thê của anh Lê Minh Thống ? – Tôi là người đã trao cho chị những kỷ vật của anh ấy ở nhà Thủy Tạ, khi tôi vừa mới ra tù. Chị không còn nhớ ?

Cô ta khựng lại giây lát, nhưng rồi lắc đầu :
- Xin lỗi , em không nhớ. Có lẽ anh nhầm em với … ai đó !
Cô chào tất cả mọi người rồi vội vã quay về phía sau sân khấu.

Tôi nhìn sang ông anh bà chị nói cho đỡ ngượng:
- Chắc bây giờ chị ta đang hạnh phúc, nên không muốn nhắc lại chuyện tình xưa.

Trên sân khấu chương trình văn nghệ nối tiếp bằng một hài kịch. Thiên hạ cười ầm ĩ, trong lúc lòng tôi dửng dưng với một chút bẽ bàng .
Buổi họp mặt chấm dứt, tôi theo ông anh bà chị bước ra khỏi hội trường. Trong lòng không còn cái háo hức của lúc mới bước vào đây. Trống rỗng và một chút bực dọc.
Tôi đang đứng chờ ông anh bà chị đi lấy xe, thì một bàn tay đâp trên vai tôi . Quay lại, tôi ngạc nhiên khi nhận ra Hà Nhất Anh. Cô đưa cho tôi mảnh giấy, rồi bảo nhỏ, trước khi chạy nhanh về phía hội trường :

- Em xin lỗi, nhưng Anh nhớ phải đến nghe !
Tôi mở vội tấm giấy ra đọc. Chỉ có số điện thoại và địa chỉ, cùng với một dòng ngắn ngủi: “Suốt ngày mai, chủ nhật, em sẽ chờ anh ở nhà ”

Tôi cảm giác có điều gì lạ lắm. Và dường như cô ta muốn dấu mọi người . Nghĩ như vậy nên tôi không nói lại với ông anh bà chị và ngay cả vợ tôi. Ông anh bà chị đưa vợ chồng tôi về Fullerton, rồi hẹn quay lại sáng thứ bảy tới đưa chúng tôi đi thăm mấy người đồng hương và cũng là học trò cũ của cha tôi ngày trước.

Tôi nhờ cô con gái lớn gọi phôn, hẹn đến gặp vào lúc hai giờ chiều chủ nhật. Cô con gái chở vợ chồng tôi tới trước cổng nhà, sau khi xem đúng địa chỉ, bấm chuông, rồi lái xe đi, bảo khi nào cần gọi cellphone, sẽ quay lại đón.

Một ngôi nhà nhỏ, khá xinh, có trồng nhiều loại hoa Đà Lạt, nằm trong khu Fountain Valley yên tĩnh. Người ra mở cổng là một người đàn ông trẻ, khá bảnh trai với hàng ria mép. Anh gật đầu chào, nở nụ cười rất tươi bắt tay chúng tôi, giới thiệu tên, nói năng lễ phép bặt thiệp :

- Cám ơn anh chị đến thăm. Bà xã em mừng lắm, đợi mong từ sáng tới giờ .

Tôi bước vào sân nhà, với một ý nghĩ vừa thoáng trong đầu: Được một người chồng như thế, hèn gì cô ta chóng quên mối tình xưa.
Nhất Anh mang nước ra mời chúng tôi, vui vẻ, thân tình, khác hẳn với Nhất Anh trong hội trường ngày hôm qua. Tôi im lặng, bởi không biết phải nói điều gì, ngồi chờ cô ta lên tiếng trước. Một lúc im lặng, tôi bất ngờ nhìn thấy cô ta khóc. Anh chồng đưa giấy cho cô lau nước mắt .

- Mong anh chị tha lỗi cho em. Ngày hôm qua khi gặp anh, nghe anh nhắc tới anh Thống em xúc động lắm, lại biết chính anh là người đã mang về những kỷ vật của anh Thống nữa. Nhưng hôm qua đông người quá, em không tiện nói.

Tôi đỡ lời :
- Tôi hiểu. Làm sao mà chị có thể quên được mối tình đầu, vừa đẹp lại vừa buồn, nhất là anh Thống đã ở lại và bị chết oan ức cũng vì quá yêu chị. Phải không ?

Rồi quay sang anh chồng, tôi lên giọng như một nhà tâm lý học:
- Ai lại chẳng có mối tình đầu. Và người chồng nào lại không tôn trọng cái kỷ niệm đẹp đó của vợ mình, phải không anh ?

Anh ta không trả lời, chỉ cúi xuống với một chút bối rối.
- Xin lỗi anh. Em không phải là chị Nhất Anh, và cũng không phải là người yêu của anh Thống!

Tôi bất ngờ, vừa ngượng ngùng vừa hụt hẩng khi nghe câu nói của người con gái, mà tôi đã chắc nịch là Hà Nhất Anh. Bây giờ người bối rối lại chính là tôi .

Cô gái hạ giọng :
- Em là em kế của chị ấy và cũng là đứa em duy nhất. Ba má em chỉ sinh có hai đứa con gái. Chị em giống nhau lắm, nên có nhiều người cũng lầm.

Tôi nhìn cô ngờ vực :
- Tôi nhớ ngày hôm qua khi MC giới thiệu chị lên hát, cũng với tên là Hà-Anh mà ? Tôi nghĩ Hà Nhất Anh, nhưng khi qua Mỹ người ta thường bỏ đi chữ lót .

- Đúng ra tên em là Hà Nhị Anh, nhưng bây giờ trong giấy tờ, em mang tên chị em: Hà Nhất Anh, mà Nhất Anh hay Nhị Anh gì sang đây, như anh nói, cũng đều gọi Hà Anh như nhau mà anh. .

Đến lúc này thì tôi không còn hiểu gì nữa. Cô ta đứng lên nhoẻn miệng cười và mời vợ chồng tôi theo cô lên từng trên, cô bảo :
- Anh chị cứ theo em lên trên này thì hiểu nhiều hơn .

Ba tấm ảnh để trên bàn thờ nhỏ. Tôi nhận ra Thống và Nhất Anh, mặc dù lúc chụp những tấm ảnh này hai người còn rất trẻ. Còn tấm ảnh thứ ba, một người con gái khác, tôi không nhận ra ai. Tôi chưa kịp hỏi thì cô gái lại sụt sùi:

- Chị Nhất Anh đã chết khá lâu rồi anh ạ. Vào một ngày mùa đông mưa tầm tã, chị ấy đạp xe đi đâu không biết, cả nhà chờ cơm tới tối vẫn chưa thấy về. Từ trước chị không bao giờ đi đâu một mình vào buổi tối. Cả nhà em và mấy người bạn hàng xóm chia nhau đi tìm. Em đạp xe đi khắp nơi. Trời mưa lớn quá nên em lạnh cóng. Đường xá vắng tanh không một bóng người. Cuối cùng thì chính em tìm ra chị ấy. Chị nằm bất động bên bờ hồ Xuân Hương, không xa nhà Thủy Tạ bao xa.

Tôi giật mình hoảng hốt :
- Ở gần nhà Thủy Tạ, bên bờ hồ Xuân Hương ? Rồi có tìm được chiếc xe đạp và cái gì nữa không ?
- Chiếc xe đạp rớt xuống hồ, ngày hôm sau người ta mới tìm thấy.
- Và chị đã chết ? Tôi hỏi
- Không, khi ấy thì chị còn sống, nhưng bất tỉnh và mình mẩy thì lạnh cóng. Vào bệnh viện, nửa giờ sau chị tỉnh lại, nhưng rất yếu chưa nói được. Khi thay áo cho chị, em thấy trong túi áo có một sợi dây đeo cổ có tấm ảnh của chị và một chiếc vòng nhôm có khắc tên chị và tên anh Thống
- Không có tờ bản đồ vẽ trại tù và nơi mộ anh Thống ?
- Có chứ ! Chính nhờ tấm bản đồ đó mà vợ chồng em, cách nay ba năm về Việt Nam, ra tận nơi tìm được, rồi thuê người lấy hài cốt của anh Thống mang về chôn trên Đà Lạt . Cám ơn anh đã vẽ cái bản đồ khá chi tiết và chính xác.
- Còn chị Hà Nhất Anh ?
- Hai tuần sau, chị khá hơn nhiều, nói năng tỉnh táo, bệnh viện cho xuất viện bảo về nhà điều trị, bồi dưỡng là chị sẽ khỏe thôi. Nhưng không ngờ về nhà mấy hôm thì lên cơn sốt nặng rồi hôn mê trở lại. Đưa vào bệnh viện thì chị mất. Người ta bảo là chị bị sưng phổi cấp tính. Mà thời ấy có thuốc men gì đâu mà chửa. Trong mấy ngày tinh táo, chị thường nhắc tới anh Thống, năn nỉ ba má em tìm mọi cách đem anh Thống về Đà Lạt, và báo cho mẹ anh ấy biết. Lúc trước bà thương quí chị lắm, nên chị cũng rất thương và lo lắng cho bà, khi em gái anh Thống vừa quá trẻ lại vừa yếu đuối. Không ngờ đó lại là những lời trăn trối của chị.

Tôi thầm nghĩ, chính vì đi gặp tôi hôm ấy mà Nhất Anh chết. Chắc cô đã xúc động nhiều lắm. Lòng tôi chùng xuống. Tôi có cái cảm giác đau đớn như vừa có những nhát chém vô hình nào đó trong lòng mình. Tôi lấy lại bình tĩnh :

- Như vậy là bây giờ mộ của Thống nằm trên Đà lạt .
- Dạ . Anh nằm bên cạnh chị Nhất Anh. Vợ chồng em mua lại mảnh đất tư gần khu rừng Ái Ân. Từ đó anh Thống có thể nhìn thấy Trường Võ Bị của anh lúc xưa và đỉnh núi Lâm Viên mà anh đã từng chinh phục.

- Đồi thông hai mộ . Tự dưng tôi buột miệng.

Đến lúc này tôi mới thấy cô nhoẻn miệng cười :
- Sau ngày 30 tháng 4/75, ở Đà lạt có khá nhiều “đồi thông hai mộ”. Có dịp anh chị về Đà Lạt, ghé lại Rừng Ái Ân hỏi thăm, là người ta biết hai ngôi mộ của anh chị Thống-Anh.

- Thế rồi, cô có liên lạc được mẹ và em gái của anh Thống ?

Cô không trả lời, mà lại mời vợ chồng tôi bước sang phòng bên cạnh. Căn phòng rộng, thoáng mát, có cửa kính lớn nhìn ra công viên phía trước. Một bà cụ tóc bạc trắng, nhưng da dẻ hồng hào, đôi mắt sáng, ngồi trên chiếc xe lăn. Khi tôi cúi đầu chào bà , cô gái giới thiệu:
- Anh này là bạn tù của anh Thống ở ngoài Bắc.
Rồi quay sang tôi :
- Chắc anh ngạc nhiên lắm, đây chính là mẹ của anh Thống.

Bà cụ ôm lấy tôi, nước mắt trào ra trên đôi gò má. Bà hỏi tôi về Thống trong những ngày ở tù và vì sao mà Thống chết.

Nhưng tôi chỉ kể vài kỷ niệm về Thống trong những lúc vui vẻ, và không dám nói cho bà nghe về cái chết thảm thương của Thống. Tôi nói dối là Thống chết vì bệnh kiết lỵ nặng mà nhà tù không có thuốc. Tôi tưởng nói dối như vậy cho cụ yên lòng, không ngờ cụ đã khóc ngất lên. Tôi chỉ còn biết ôm vai bà cụ mà im lặng.

Một lúc sau, bà cụ mới tỉnh táo và kể lại tai nạn xe hơi đã làm chết cô con gái, em Thống và làm tê liệt đôi chân của bà. Nhìn sang cô gái, bà cụ thỏ thẻ :

- Cũng nhờ vợ chồng cháu nó đây mà bác còn sống đến bây giờ.

Nhị Anh nắm tay bà cụ :
- Má coi vợ chồng em không khác gì con ruột của má. Em sang đây sau khi em gái anh Thống chết. Tấm ảnh trên bàn thờ lúc nãy là của cô ấy. Cô nhỏ hơn em tới sáu tuồi. Lúc ấy má đang làm chủ mấy sạp may, đã lo lắng tiền bạc cho em sang đây và cho em tiếp tục học xong đại học nữa. Ngôi nhà này là của má cho vợ chồng em đó chứ.

Vợ chồng tôi chào bà cụ, chúc bà sức khỏe và hứa bất cứ lúc nào có dịp sang Cali, sẽ ghé lại thăm bà.
Khi bắt tay từ biệt vợ chồng Hà Nhị Anh, chợt nhớ tới một điều, nên tôi hỏi cô :

- Khi nãy tôi có nghe chị nói là bây giờ tên tuổi của chị trong giấy tờ lại là tên tuổi chị Nhất Anh. Sao vậy ?

Cô gái vẫn còn nắm chặt bàn tay tôi, kéo tôi ra xa, nhìn quanh rồi hạ giọng :

- Chính nhờ cái giấy của trại tù báo tin anh Thống chết, trong đó có ghi tên chị Nhất Anh là vợ, nên em đã thay chị ấy mà sang đây theo diện dành cho vợ tù nhân cải tạo bị chết trong tù. Em thấy xấu hổ lắm khi phải làm điều gian dối ấy, tội lớn lắm đối với luật pháp Hoa Kỳ, nhưng đó lại là ước mong của mẹ anh Thống, và của cả chị Nhất Anh trước khi chết nữa. Em săn sóc cho má bao nhiêu năm nay, nên má thương em như con gái má. Biết đâu đây là sự sắp xếp nhiệm màu từ chị Nhất Anh – anh Thống? Hơn nữa nhìn em cũng giống chị em lắm, và tên em với tên chị ấy cũng như nhau mà. Nhưng anh nhớ phải tuyệt đối giữ hộ cho em điều bí mật này nghe .

Vâng! Chính vì tôi đã giữ cho cô cái điều bí mật đó, nên hai cái tên Hà Nhất Anh , Hà Nhị Anh mà các bạn vừa đọc được trong truyện, đều không phải là tên thật của hai chị em nàng.

[ nguồn: http://www.saigonecho.com/index.php/van-hoc/van-nhac-thi-si/30065-da-lat-troi-mua]

thuykhanh
05-21-2017, 11:30 AM
Theo con thuyền ngược


Tác Giả: Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích


Cơn sốt hành hạ Trần Vũ đã một tháng liền. Những liều thuốc xuyên tâm liên, ký ninh nội địa không đủ độ triệt hạ họ hàng lũ vi trùng sốt rét độc địa đã bám trụ cả ngàn năm tại khu rừng già nầy. Nhìn khuôn mặt tóp rọp vì thiếu ăn thêm màu da vàng tái vì mất máu, không ai nhận ra chàng phi công hai mươi tám tuổi lái chiến đấu cơ thuở nào..

Trần Vũ dáng người dong dỏng cao, khuôn mặt thanh tú. Cặp mắt to đen với hàng lông mi dài đậm lại thêm ánh mắt cuả Vũ đầy quyến rũ. Thời “oanh liệt”, không biết có bao nhiêu con tim nữ giới đã đắm đuối trong vòng tay chàng trai pilot hào hoa nầy?
Khi ra khỏi bệnh xá, Vũ hoàn toàn kiệt sức. Ban giám thị trại sắp xếp cho hắn vào toán làm việc nhẹ. Vì còn trẻ và nhanh nhẹn nên Vũ được điều đến giúp việc cho cán bộ Quản lý..

Buổi sáng đầu tuần, nhận lệnh của cán bộ trực ban, Vũ đến trình diện cán bộ Hạnh. Hắn lững thững đến khu nhà tập thể của cán bộ tìm chị quản lý. Vừa tới khu chứa thóc, Vũ chợt thấy một cô gái mặc áo trắng quần tây xanh với mái tóc đen dài xõa kín bờ vai rất “nữ sinh” cũng lững thững đi ngược chiều. Vũ gật đầu chào và lên tiếng hỏi:

- Có phải tên cô là Hạnh không ạ ?

Cô gái dừng chân, trừng mắt nhìn Vũ rồi nghiêm nghị hỏi lại:
- Nội qui có cho phép Tù Cải Tạo gọi cán bộ bằng cô không nhỉ ?

Vũ chưa kịp trả lời, chị tiếp :
- Anh phải gọi tôi là cán bộ Hạnh.

- Vâng ạ, báo cáo cán bộ, tôi tên Trần Vũ thuộc toán làm việc nhẹ được lệnh Ban Giám Thị điều lên kho phụ việc.
Ánh mắt chị quản lý lướt nhanh trên toàn thân Vũ rồi với giọng chua chát :

- Mất sức còn cho lên đây làm gì nhỉ ? Kho, đâu phải là chỗ dưỡng sức, các đồng chí trên ấy... Chị bỏ lửng câu nói rồi hất đầu về phía dãy nhà chứa thóc bảo :

- Thôi được, anh vào đấy ngồi chờ, tôi đến làm việc với thủ trưởng một khắc, sẽ bố trí công tác cho anh sau.
Chị quày quả bước chân về hướng khu nhà của Ban Giám Thị. Những căn nhà xây, mái ngói đỏ rực, đứng ngạo nghễ trên đỉnh đồi. Một công trình do sức lực, mồ hôi và nước mắt của tù dựng lên. Vũ thở dài ngao ngán. Dãy nhà kho nằm lưng chừng đồi nối dài ba căn. Tất cả đồ tiếp liệu cho trên một ngàn tù nhân và cán bộ được chứa trong đó.

Nửa giờ sau, cán bộ Hạnh trở lại, hất hàm bảo :

- Tôi tạm thời dùng anh một tuần lễ. Nếu anh không đủ sức làm việc, tôi sẽ trả anh về trại.

Vũ lặng thinh, bụng bảo dạ : “Nước sông công tù, nơi nào chẳng thế !”

Chị quản lý vừa mở cửa kho vừa gọi :
- Anh vào đây.
Vũ bước theo. Mùi gạo mốc, cá khô, nước mắm xông lên nồng nặc.

- Anh hốt hết gạo đổ trên nền kho, lượm sạch sạn, cứt chuột, xong dồn vào bao. Chị quản lý ra lệnh cho Vũ, rồi chỉ tay về hướng góc nhà :
- Đồ dùng ở đằng kia.

Vũ lặng lẽ đến nơi chứa dụng cụ lấy cây chổi quét gom số gạo vung vãi vào một nơi. Cán bộ Hạnh đưa cho hắn chiếc sàng và nia. Vũ xúc gạo vào sàng, hai tay đưa chiếc sàng qua lại. Đất bột, cát và những hạt tấm lọt qua các lỗ nhỏ, còn lại trên mặt sàng là gạo, sạn, lúa và cứt chuột trộn lẫn với nhau. Vũ cố nhớ ngày xưa mẹ hắn đã sàng bằng cách nào mà gạo nhóm vào giữa, sạn thóc nổi lên trên.

Chị cán bộ xẵng lời :
- Nhìn cách làm của anh đủ thấy cái thói quen của ngụy quân ăn bám vào nhân dân, không chịu lao động.

Vũ tức điên người trước thái độ xấc láo của con bé quản lý. Anh cố đè nén cơn giận đang bùng lên. Vũ muốn thét to vào mặt ả :
- Nghề nghiệp của tao là lái máy bay, đâu phải nghề làm gạo hàng xáo !

Vũ được đào tạo ngành phi công tại Hoa Kỳ và đã thực hiện hàng bao nhiêu chục phi vụ với mấy trăm giờ bay. Mỗi lần máy bay anh quần thảo là Cộng quân “hồn xiêu phách lạc”. Anh luôn luôn mang về chiến công cho đơn vị. Điều khiển một chiếc máy bay biết bao là động tác phức tạp. Tấm bảng điều hướng phi cụ chằng chịt những đồ thị, đối với anh chỉ là việc thường tình. Vậy mà cái công việc sàng gạo đối với Vũ lại quá khó khăn, nhiêu khê đến thế!

Sàng gạo, một việc làm thường xuyên của mẹ . Với đôi tay mềm dẻo, mẹ nhẹ nhàng hất sàng lên, tay quay đều là gạo nhóm vào giữa, những hạt thóc nổi lên trên mặt sàng. Mẹ đã chọn những hạt gạo trên sàng dành cho anh mang ra tỉnh ăn học. Mẹ giữ lại phần gạo nát, tấm mẳn cho suốt cuộc đời mình. Ngày Vũ trở về nước, mẹ không còn nữa. Người chưa kịp thấy mảnh bằng phi công của con trai mình.

Cha Mẹ mất cả rồi. Người chị giờ lưu lạc phương trời nào. Vũ cảm thấy thương thân mình đơn độc, bỗng dưng nước mắt Vũ trào ra rơi trên sàng gạo. Anh giật mình, sợ cán bộ Hạnh trông thấy những giọt lệ, Vũ vội vàng lau mắt vào cánh tay áo. Chợt nhìn vào sàng gạo, Vũ ngạc nhiên thấy gạo trên sàng nhóm vào giữa chẳng khác gì sàng gạo của mẹ chàng ngày xưa. Thì ra, khi sàng gạo không nên chú ý quá vào đôi tay của mình, Vũ đã tìm ra nguyên tắc...

Chị cán bộ đi đâu đó quay về, nhìn đôi tay Vũ quay đều có vẻ sành sỏi y thị gúc gặc đầu.
Mồ hôi vã ra ướt đẫm cả lưng áo, Vũ đã gắng hết sức mình vượt thắng đôi tay rã rời để hoàn tất một công việc mà anh cho là của đàn bà con gái.
Công việc nhẹ của nhà kho dành cho người mất sức trong buổi đầu như thế đấy !

Kẻng điểm giờ ăn trưa. Vũ báo cáo cán bộ về trại. Chị quản lý đưa cho hắn một trái chuối chín. Chuối, trước kia là món ăn tráng miệng hàng ngày, bây giờ là món “cao lương”. Qua bốn năm trong tù, lần đầu tiên Vũ mới ngửi được mùi chuối chín. Tay anh thọc vào túi áo vuốt ve vỏ chuối mịn màng, mát rượi. Vũ mân mê, trân quí nó như thuở còn bé để dành quà của mẹ đi chợ mua cho hắn.

Trở lại nhà kho, Vũ ngạc nhiên thấy cán bộ Hạnh đã có mặt. Chị trao cho Vũ hai tập vở học trò đã cuốn góc, bảo anh rà soát lại phần xuất và nhập hàng tiếp liệu có ăn khớp với nhau không.
Nhìn vào hai cuốn sổ, đầu Vũ lùng bùng trước sự ghi chép vô cùng cẩu thả, chứng tỏ nghiệp vụ của “con bé” còn rất "lơ tơ mơ”.

Điểm đầu tiên được lòng cán bộ là anh đã phát hiện những nhầm lẫn sai biệt giữa phần xuất và nhập. Qua mấy ngày kế tiếp, Vũ đã bỏ ra rất nhiều thời gian để trình bày hai cuốn sổ điều hành mới có tính “chính quy” hơn. Mỗi trang đều có chung cột ghi ngày tháng, số lượng, tên loại hàng, chữ ký cuả người nhận, tên giới chức ra lệnh xuất v. v..

Khi hai cuốn sổ khổ lớn bìa cứng trình bày khá đẹp mắt hoàn tất, cán bộ Hạnh mới thật sự cảm phục óc sáng kiến và sự khéo tay củaVũ. Qua hai tuần lễ thử thách, giờ đây Vũ nghiễm nhiên trở thành người giúp việc cho cán bộ quản lý.

Câu nói ví von của tù : “Làm nhà bếp đánh chết cũng no, gần nhà kho có lo gì đói”, giờ đây Vũ mới nhận chân được ý nghĩa của nó. Thân thể của Vũ có phần đầy đặn và da dẻ hồng hào nhờ những phần ăn từ nhà bếp do cán bộ Hạnh mang cho cùng với trứng vịt, chuối, đường bồi duỡng hàng ngày.
Vào ngày cuối tháng, Vũ ngồi liệt kê các loại thực phẩm đã xuất ra. Bàn bên cạnh, cán bộ Hạnh lo phần báo cáo số hàng tồn kho. Bất chợt nàng gọi:

- Anh Vũ !

Vũ ngửng đầu chờ đợi.
- Tôi muốn hỏi anh một điều. Nàng ngập ngừng…, nhưng phải trả lời thẳng thắn kia. Vũ gật đầu.
- Anh còn nhớ ngày đầu tiên lúc sàng gạo, anh đã khóc. Tôi ngại ngùng bỏ ra ngoài. Có phải vì câu nói của tôi đã làm anh tủi thân?

- Tôi bực mình thì đúng hơn. Vũ nhìn vào mắt chị cán bộ, trung thực tiếp, nhưng đó không phải là nguyên nhân đâu.

- Vậy, vì lý do nào ?

- Thuở bé, khi mẹ tôi sàng gạo, tôi thường ngồi bên chờ lượm những hạt lúa trên sàng vứt cho bầy gà đang đứng trước hiên. Đôi tay mẹ quây sàng thuần thục như ngày nay tôi điều khiển phi cơ. Những thao tác nghề nghiệp trở thành phản xạ tự nhiên. Tôi ngồi sàng gạo mà nghĩ đến mẹ. Ngày xưa Người không bao giờ tưởng tượng sẽ có ngày con trai mình phải cặm cụi làm cái công việc tầm thường này, bỗng nhiên tôi nhớ mẹ xót xa.

Mẹ tôi góa bụa từ lúc còn thanh xuân, thủ tiết thờ chồng, nuôi con. Ngày tôi giã từ mẹ lên đường sang Mỹ theo học lái máy bay, miệng mẹ nở nụ cười mà nước mắt Người đầm đìa trên khuôn mặt nhăn nheo. Mẹ vừa mừng, vừa thương đứa con trai đã hai mươi năm chưa lần nào xa mẹ. Người dặn dò tôi phải giữ gìn sức khoẻ, cố gắng học tập để mang mảnh bằng phi công về cho mẹ hãnh diện. Nhưng ngày về, mẹ tôi đã lìa đời. Mẹ mất vì bạo bệnh mà người chị đã cố ý giấu tôi.

- Chị anh bây giờ ở đâu ? Hạnh tò mò hỏi.

- Bặt tin từ sau ngày 30 tháng 4. Vũ lặng lẽ tiếp tục làm việc. Hạnh buông tiếng thở dài:

- Anh lái loại máy bay nào ?

- F5E .

- Có phải máy bay cánh cụp cánh xoè ?

- Không, đây chỉ là loại khu trục chiến đấu dội bom và tác xạ.

- Nghe nói các nữ sinh Miền Nam mê mấy ông giặc lái lắm phải không? Hạnh hỏi Vũ với giọng dè bỉu..
Danh từ giặc lái khiến cho Vũ khó chịu. Anh cúi đầu làm việc, giả vờ không nghe.

Cán bộ Hạnh không có nét đẹp quý phái nhưng khá duyên dáng, mặn mà. Một thân hình đầy đặn, cân đối. Màu da nâu sáng khoẻ mạnh, thể hiện một mẫu người nghị lực và xốc vác. Khuôn mặt trái soan, với đôi hàm răng trắng đều, khiến cho nụ cười của nàng toát lên tính hồn nhiên đầy quyến rũ.

Vũ đến giúp việc cho cán bộ quản lý mới đó mà đã hơn ba tháng rồi.
Khác với ngày đầu tiên khi anh đến trình diện nhận việc, tính đanh đá, chua ngoa, đốp chát ở cán bộ Hạnh gần như biến mất mà thay vào đó là tính điềm đạm, lời nói trở nên dịu dàng lịch sự. Thái độ dằn mặt làm Vũ hụt hẫng trong buổi đầu dường như Hạnh đã cảm thấy mình vụng về. Dẫu biết địa vị mình là một “cán bộ cách mạng” và bên kia là tù cải tạo, nhiều lúc Hạnh lại thấy lúng túng khi xưng hô xẵng xớm với Vũ.

Mỗi lần tiếp xúc với hă´n, nàng không giữ được bản lãnh của một cán bộ quyền uy.. Có một chút gì len lỏi trong nàng như tình cảm giữa hai người khác phái. Tính hồn nhiên trong Hạnh dần dà bộc lộ không gìn giữ như những ngày đầu đối với Vũ. Từ những câu hỏi vụn vặt cách riêng “con gái”, cung cách xưng hô, sai bảo đã khiến Vũ cảm nhận có cái gì khang khác nơi người cán bộ quản lý.
Những ngày có Vũ, nhà kho trở nên ngăn nắp, sạch sẽ. Cán bộ Hạnh tiến bộ nhiều về mặt nghiệp vụ. Đặc biệt hơn cả là nàng đã bỏ cách nói năng kiểu “ bài học thuộc lòng như loài vẹt”, trở nên ngọt ngào và trí thức hơn.

Sau nầy, Vũ còn phát hiện bản chất hiền hoà và thương người của Hạnh. Có lần nàng tâm sự :
- Tôi không chịu nổi cái cảnh tù cải tạo bị đói phải ăn cả cào cào, châu chấu. Anh biết không, Hạnh nhìn Vũ rồi hạ thấp giọng :
- Gia đình ông nội của Hạnh theo đạo Thiên Chúa, bố theo cách mạng bỏ đạo. Lần đầu tiên vào miền Nam, điều làm cho tôi ngạc nhiên nhất là nhà thờ nào cũng đồ sộ, còn ngoài Bắc thì tàn tạ.
Ngừng một lúc, nàng đột ngột hỏi :
- Tại sao cấp trung học ở miền nam lại phải học tới mười hai năm ?

Vũ không trả lời trực tiếp câu hỏi mà chỉ nở nụ cười kiêu hãnh :
- Vì lẽ đó mà trình độ của học sinh tốt nghiệp Trung học giữa hai miền cách nhau một trời một vực.

Hạnh đồng ý với nhận xét của Vũ và thú thật :
- Ngày giải phóng miền Nam, tôi đang theo ngành Quản lý Xí Nghiệp tại Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội. Khi tốt nghiệp ra trường họ xét lí lịch đưa tôi vào đây coi như trong giai đoạn thực tập. Qua nhiều lần tiếp xúc, gặp gỡ với các anh chị ở trong nầy tôi mới thấy mình còn rất non kém.

Hạnh nói một hơi dài như ngại không có cơ hội bày tỏ một tâm sự thầm kín. Vũ lặng im nhưng rất ngỡ ngàng và lòng đầy xúc động. “Con bé” đã nói thật lòng mình. Rất hiếm những tên cán bộ cộng sản lại bày tỏ lai lịch mình cho tù nhân nghe. Hình như tâm hồn trong sáng của một nữ sinh chưa bị tập nhiễm lề thói dối mình dối người. Vũ đưa ánh mắt nhìn Hạnh với lòng mến phục và thoáng chút biết ơn. Nàng bắt gặp ánh mắt đó và đáp lại chàng bằng nụ cười đầy cảm thông và trìu mến.

* * *
Từ sáng sớm, cán bộ quản lý nhận thêm một số tiếp liệu gồm gạo, mắm, bột ngọt và áo quần tù. Hạnh và Vũ phải làm tất bật cả ngày.
Thời tiết chuyển mùa, khí trời oi bức, ngột ngạt. Cây rừng đứng chết lặng trước sức ép của bầu khí quyển nặng nề. Rồi mây đen kéo về che kín cả bầu trời. Gió thổi. Sấm sét. Trận mưa đầu mùa trút xuống mờ mịt cả núi đồi. Mưa đổ trên mái ngói, mưa nổi bong bóng ngoài sân.

“ Nước ! nước !”,
Nước dột từ trên nóc nhà chảy xuống kho, Hạnh vừa hốt hoảng kêu lên vừa vội vã lấy vải nhựa đi mưa phủ lên đống hàng mới nhập. Vũ phát hiện một viên ngói trên nóc nhà bị bể. Anh nhanh chân bắc thang trèo lên mái nhà thay viên ngói lành .
Mưa mỗi lúc mỗi đậm lại thêm sấm sét, gió to. Năm phút rồi mười phút Vũ vẫn chưa làm xong. Hạnh cuống cuồng lo cho Vũ, nàng chạy ào ra mưa gọi chàng. Đúng lúc Vũ vừa thay xong viên ngói, tuột khỏi mái nhà. Cả người Vũ ướt sũng nước, lưng áo bị rách toạc một đường dài. Hạnh bảo Vũ vào trong nhà thay bộ đồ khác. Anh chần chừ, định chạy về trại, nhưng Hạnh nói như ra lệnh: “Vào đi !.” Nàng đẩy Vũ vào trong rồi đóng cửa lại để tránh những cơn gió thốc.

Hạnh lấy bộ áo quần tù mới nhập đưa cho Vũ. Anh đứng yên, ngần ngại. Nàng năn nỉ :
- Anh nghe lời em, đừng để nước mưa đầu mùa thấm vào người, vi trùng sốt rét sẽ hành hạ anh trở lại.

Vũ thật sự ngỡ ngàng đến độ bàng hoàng khi nghe Hạnh xưng em với mình. Vũ một mực đòi về trại thay áo dù cơn lạnh đã làm cho môi chàng thâm tím và hai hàm răng đánh vào nhau không còn kìm giữ được. Hạnh xốc tới tự động cởi nút áo cho Vũ. Bộ ngực nở nang đầy nam tính hiện ra, bất giác Hạnh áp mặt vào ngực chàng khóc nức nở. Lòng chùng xuống, Vũ đưa tay vuốt mái tóc ướt đẫm nước mưa của nàng.
Hạnh ngẩng đầu lên với ánh mắt dỗi hờn :
- Anh bướng bỉnh quá làm cho em đau khổ !

Trời tạnh mưa, Vũ xin Hạnh về trại trước nửa giờ. Hắn không muốn ở đó lâu hơn vi` ngại ngùng trước tình ý của cô Quản lý đối với tù. Vũ cảm thấy lo âu, rồi sẽ xảy ra những bất trắc mà nàng không thể lường trước được. Bạo lực sẽ bóp nát trái tim nàng. Người ta sẽ không để cho trái tim cán bộ cách mạng có cùng chung một nhịp đập yêu đương với trái tim của người tù.
Những ngày sau đó, Vũ thố lộ những cảm nghĩ của chàng và yêu cầu nàng trả chàng về đội. Hạnh buồn bã trả lời:
- Anh nhát gan quá. Hạnh mới là người chủ động. Em không để phiền lụy đến anh.

Lễ Lao động kết hợp với ngày kỷ niệm 30 tháng 4, cả Ban giám thị được lệnh về thành phố nhận khen thưởng. Tù nhân được nghỉ một buổi. Đang sửa lại vạc giường nằm, Vũ có lệnh lên văn phòng quản lý gặp cán bộ Hạnh.
- Chào cán bộ.
- Đâu cần phải cẩn trọng như thê´! Hạnh vừa vén mái tóc qua một bên vừa buông lời trách móc.
Vũ cười, giả lả hỏi :
- Hạnh không về thành phố à ?
- Các đồng chí ấy có công trạng. Em đâu được cái danh dự đó. Hạnh nhoẻn miệng cười nhìn Vũ :
- Hôm nay ngày lễ, cán bộ được bồi dưỡng, em đem ít thịt heo và xôi để anh ăn tối. Nàng vừa nói vừa đứng lên cầm gói thức ăn trao cho Vũ. Anh nhận gói giấy từ tay Hạnh, nói đùa :
- Vậy là cán bộ hối lộ cho tù nhân đấy nhé.
- Ừ, thế đấy! Hạnh nhìn Vũ thách thức, rồi choàng tay ôm cổ chàng, thỏ thẻ:
- Chỉ là món quà hối lộ nhỏ nhoi đầu tiên cho anh.

Hạnh lại ôm chầm lấy Vũ, ép đôi vú căng đầy vào ngực chàng khiến máu trong người Vũ chạy rần rật, nóng bừng trong từng tế bào trương cứng. Cảnh vắng lặng của văn phòng kho như đồng lõa cơn dục tình quật ngã ý chí chàng. Vũ nâng đầu Hạnh hôn vào môi, đôi môi dày đầy dục tính. Lưỡi chàng quyện lấy lưỡi nàng. Hạnh run lên, toàn thân như tê dại.

Gió đánh bật cánh cửa văn phòng khép lại, tạo điều kiện thuận lợi cho hai người. Hạnh nằm xuống kéo Vũ theo. Nàng nhanh tay lột hết áo quần phơi bộ ngực trắng ngần vun cao. Không kìm chế nổi, Vũ đặt môi vào núm vú son hồng đó. Hạnh trân người, siết Vũ vào lòng. Đã trên bốn năm vắng bóng đàn bà, tất cả sinh lực tích tụ dồn vào trong đó. Nàng ưỡn người lên, bấu vào lưng Vũ. Anh chủ động dìu nàng qua những cơn sóng ngầm cho đến khi oà vỡ. Ánh mắt Hạnh đắm đuối nhìn Vũ với gương mặt tràn đầy hạnh phúc.

Sau lần ân ái đầu tiên, Hạnh thường tạo điều kiện thuận lợi cho hai người gặp nhau. Càng ngày nàng càng gắn bó với Vũ hơn. Có lần Hạnh thủ thỉ với chàng :
- Em muốn có con với anh.
- Hạnh sẽ không đạt được ý nguyện đó đâu.
Vừa trả lời, Vũ vừa xoa nhẹ bàn tay nàng, lo ngại tiếp :
- Nếu Hạnh bảo vệ được đứa bé thì sau nầy, nó sẽ mồ côi cha, tội nghiệp. Nàng xoay người lại, ôm cổ Vũ hỏi :
- Câu nói của anh có ý gì vậy ?
- Vũ vén những sợi tóc mai loà xoà trên mặt nàng rồi điềm tĩnh trả lời :
- Họ sẽ giết anh !
Hạnh thở dài trước sự thực phũ phàng mà nàng chưa hề nghĩ tới.

* * *
- Em đi công tác bảy ngày. Hạnh báo cho Vũ và dặn dò thêm :
- Anh vẫn làm việc tại kho với cán bộ Toả, ngày mai em lên đường, anh ghi những vật dụng cần dùng để em mua cho.
- Cám ơn Hạnh, đời sống tù quen rồi, tôi chẳng cần gì đâu, Vũ thẳng thắn trả lời.

Ngày hôm sau, Toả đến kho. Hắn coi sơ qua hai sổ xuất nhập hàng tiếp liệu. Hắn luôn giữ khoảng cách với Vũ. Toả là cán bộ chỉ huy đơn vị võ trang, tạm thời thay Hạnh, vì vậy phần ghi chép đều nhờ tay Vũ.. Tỏa không nghiêm khắc mà cũng không thân thiện. Hình như hắn muốn truy tìm cái gì đó nên hay lục lọi trong tủ hồ sơ của Hạnh.
Buổi chiều, chị cán bộ nuôi quân đến lãnh gạo hàng ngày.Tỏa sai Vũ mang gạo xuống nhà bếp. Chị nuôi nhìn Vũ rồi nói với Toả:
- Người ta đồn “ Có kẻ chê thuốc Bắc khoái thuốc Nam cũng có lý đấy chứ !.” Cả hai cùng cười.

Cán bộ Hạnh đi công tác về sớm hai ngày. Chiều thứ Hai nàng trở lại làm việc. Vũ vừa bước vào phòng, Hạnh vội kéo anh vào góc nhà ôm hôn cuồng nhiệt. Vũ đẩy nàng ra xa vì sợ có người vào bất chợt. Hạnh thì thầm:
- Em nhớ anh, nhớ điên người! Nàng bồng bột tiếp :
- Từ nay em bất chấp tất cả. Mấy ngày qua gặp Hoàng, em đã trả lời dứt khoát với anh ta rồi.
- Có vấn đề gì thế ? Vũ ngạc nhiên hỏi.
- Em hủy bỏ lời hứa hôn. Hạnh thẳng thắn trả lời.

Vũ sững sờ. Chẳng biết điều gì đã xảy ra cho Hạnh. Tên Hoàng là ai. Tại sao từ hôn? Chờ nàng bình tĩnh,Vũ yêu cầu Hạnh giải thích.
Hai tay chống cằm, mắt nhìn về hướng hàng cây bạch đàn chạy dài theo con đường đất đỏ ngập ánh nắng chói chang, Hạnh tâm sự:
- Trước đây, anh đã từng trông thấy một người đàn ông thường đến với Hạnh vào những ngày lễ hoặc cuối tuần. Đó là Thiếu tá Hoàng, người dự tính sang năm cưới em. Hoàng hiện giờ là Trưởng Phòng Hình Sự Ty Công An. Chuyến công tác vừa rồi em đã gặp anh ấy và nói rõ quyết định của em.
- Ông ta đã nói gì với Hạnh ? Vũ thận trọng hỏi.
- Anh ấy bảo : “Quyết định đó là đồng chí tự hủy hoại sự nghiệp của mình”

Việc xảy ra quá bất ngờ khiến Vũ vô cùng băn khoăn và lo lắng. Chúng sẽ theo dõi, điều tra tìm hiểu nguyên nhân nào khiến cho Hạnh thay đổi tình cảm. Hạnh ngây thơ và nông nổi. Nàng sống cho mình, theo tiếng gọi trái tim mà quên đi những thủ đọan tàn độc. Vũ thở dài, rồi nhẹ nhàng trách :
- Hạnh cần phải đắn đo trước khi quyết định một việc làm có ảnh hưởng đến cả cuộc đời mình. Hạnh có biết việc từ hôn đó sẽ mang đến một hậu quả vô cùng tai hại không?
- Biết chứ, nhưng lấy Hoàng em sẽ không có hạnh phúc.
- Hạnh mạo hiểm quá và cả Vũ nầy cũng thế ! Ngày mai Hạnh trả tôi về lại đội, trả gấp. Tôi không muốn thấy sau nầy Hạnh phải chịu khổ đau và ân hận. Tôi cũng tránh được ngón đòn thù giáng trả.

Kẻng cơm chiều cũng vừa điểm, chàng vội vã về trại. Nàng nhìn theo Vũ với ánh mắt cảm thông.
Sáng hôm sau, chờ các đội xuất trại xong, Vũ mới báo cáo cán bộ gác cổng lên kho. Hạnh đang sắp xếp lại giấy tờ với đôi mắt đăm chiêu. Hình như có vấn đề gì rắc rối, trông gương mặt của nàng phờ phạc hẳn đi. Vũ lấy sổ ghi chép báo cho Hạnh biết số lượng thực phẩm mà cán bộ Tỏa đã xuất mấy ngày nàng đi công tác. Hạnh vừa đến bên Vũ, bất ngờ hai công an xông vào phòng la lên :

“Mày làm gì cán bộ Hạnh đấy ?”
Cán bộ quản giáo bảo vệ chính trị đứng bên ngoài cửa văn phòng Quản lý ra lệnh còng tay Vũ trước cặp mắt ngơ ngác của Hạnh. Họ đẩy Vũ ra khỏi cửa tiến thẳng đến khu kỷ luật. Sau khi cùm hai chân Vũ, một người trừng mắt bảo:

“Mầy cả gan thật, dám cuỡng hiếp cả cán bộ”.
Vũ đặt lưng xuống mặt sàn, hai cổ chân đau nhói. Chàng thở dài: “Điều mình tiên đoán đã đến rồi!”

Mỗi ngày, Vũ bị áp giải lên phòng trực hỏi cung và viết kiểm điểm. Chủ tâm của họ là gán ghép cho anh tội cưỡng hiếp Hạnh. Hai ngày, rồi một tuần, Vũ cương quyết không chịu nhận tội. Đến ngày thứ tám quản giáo hỏi cung bảo:
- Cán bộ Hạnh gởi đơn tố cáo anh đã cưỡng hiếp đồng chí ấy và có kèm theo vật chứng. Anh nên khai báo sự thật và sớm nhận tội. Nếu ương ngạnh, chúng tôi sẽ chuyển nội vụ qua hình sự. Chừng đó, anh sẽ ngồi tù đến mọt gông.

Hắn ngừng nói, đưa cho Vũ điếu thuốc, chàng từ chối. Hắn tiếp :
- Anh khai rõ tình cảm của anh đối với cán bộ Hạnh kể cả quà cáp mà cán bộ Hạnh đã cho anh. Hắn châm lửa điếu thuốc, hít một hơi dài :
- Như anh thấy đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương giáo dục chứ không trừng trị. Tội giặc lái của anh đã giết hại biết bao dân lành vô tội, làng quê bị tàn phá tiêu điều, đổ nát là do bom đạn của anh trút xuống. Thế mà cách mạng vẫn khoan hồng, tha tội chết, lại còn nuôi duỡng bảo vệ các anh khỏi sự trả thù cuả nhân dân. Một lần nữa, tôi lưu ý anh, đây là lần viết kiểm điểm cuối cùng, nếu không thành khẩn, buộc chúng tôi phải đưa anh ra trước tòa án nhân dân.

Vũ nhủ thầm : “ Đây là thủ đọan họ cố hại mình.” rồi lặng lẽ viết và ký tên vào tờ tự kiểm.
Đọc bản tự kiểm Vũ vừa trao, cán bộ đập bàn quát :
- Mầy cứng đầu thật. Đã mấy chục tờ rồi mà tờ nào cũng chừng ấy lời khai. Mầy không phạm tội gì à, còn đồng lõa với “tên hủ hóa” đó nữa hả? Đôi mắt hực lửa, hắn nhìn Vũ rồi ra lệnh đưa anh vào phòng kiên giam, cắt thêm tiêu chuẩn phần ăn tối đa để trừng phạt.

Ba ngày yên ổn, Vũ không bị đưa đi hỏi cung. Những cơn đói hành hạ anh mấy ngày qua, giờ đã trở lại bình thường, bao tử bớt phần đau rát. Vũ nghĩ đến Hạnh, không biết tình trạng của nàng hiện giờ ra sao. Chắc chắn là lũ chúng nó quần thảo dữ lắm. Chẳng thế mà tên quản giáo đã miệt thị nàng là “tên hủ hóa” trước mặt anh.

Tiếng mở khóa lách cách, Vũ giật mình nhìn ra cửa, ánh đèn pin chiếu thẳng vào mặt. Hai bóng đen tiến vào phòng:
- Ngồi dậy !
Một người ra lệnh, người kia mở cùm chân. Cả hai xốc vai Vũ đẩy ra khỏi cửa hầm kỷ luật.
Họ đưa vào một căn phòng lạ, ấn anh ngồi xuống ghế. Ánh sáng bóng điện tròn tỏa màu vàng vọt trong căn phòng xông mùi ẩm mốc. Một người đàn ông trung niên mặc áo quần đại cán màu xanh rêu bước vào và ra hiệu cho lính bảo vệ mở khóa cùm tay Vũ.

Người cán bộ có dáng cao gầy, mặt vuông. Phần quai hàm bạnh ra trông khắc khổ . Nhờ đôi gương cận thị gọng vàng giúp cho khuôn mặt ông ta cân đối phần nào và có vẻ trí thức. Hắn nhếch mép cười gượng gạo, rồi một giọng nói sắc, khô của người xứ Nghệ :
- Tôi là Thanh Hoàng, cán bộ Công an hình sự. Cấp trên có nhận được đơn tố cáo của đồng chí Quản lý Đỗ thị Hồng Hạnh về việc anh đã cưỡng dâm đương sự. Hôm nay tôi cần làm việc với anh một số vấn đề. Nhưng trước hết hãy xác nhận tên anh có phải là Trần Vũ không?

- Vâng, tên tôi là Trần Vũ.

-Anh làm những công việc gì ở kho ?

- Làm theo lệnh của cán bộ Quản lý..

- Mà lệnh đó thường là công việc gì ?

- Quét dọn, khuân vác hàng tiếp liệu, giúp làm sổ sách cho cán bộ Hạnh.

- Láo, anh là tù nhân, ai cho phép anh làm sổ sách. Anh biết cóc gì về kế toán mà lo chuyện sổ sách. Vũ ngước mắt nhìn ông ta. Ông ta trừng mắt nhìn lại Vũ trấn áp, rồi hỏi tiếp:

- Thời gian ở kho, cán bộ Hạnh có cho anh quà cáp gì không?

- Không.

Anh thành khẩn đi, cán bộ Hạnh đã báo cáo cho cấp trên đầy đủ rồi. Im lặng…….. .
Công an Hoàng tiếp :

- Ngày 25 tháng 5 năm 1979 anh đã cưỡng bức và xâm phạm tiết hạnh cán bộ Đỗ thị Hồng Hạnh?

- Không, không bao giờ, Vũ xác định.

- Láo, láo ! Hắn đập bàn hét lên giận dữ. Đây là bản chất của lính ngụy. Trước đây, các anh đã cưỡng hiếp biết bao đàn bà con gái trong các trận càn. Chứng nào tật nấy. Đã cải tạo trên bốn năm mà chưa bỏ được thú tính. Có cả vật chứng và người chứng, anh làm sao chối cãi. Hãy thật thà khai đúng, chúng tôi sẽ đề nghị cấp trên ân giảm, anh mới hy vọng có ngày đoàn tụ với gia đình.
Vũ im lặng, nghĩ ngợi: “Họ muốn đánh gục mình.”
Trước sự lặng thinh khá lâu, tưởng Vũ đã bị khuất phục, cán bộ Hoàng mỉm cười, với giọng đầy kịch tính, bảo:
- Như thế là tốt đấy, anh chỉ cần viết vào đây một câu thôi. Hắn chìa cây viết và trang giấy cho Vũ rồi đọc : “Tôi xin nhận đã có hành động sai trái với cán bộ Quản lý trong ngày 25 tháng 5 năm1979.” Ngưng một chốc, hắn bồi thêm lời khuyến dụ :
- Chừng ấy cũng đủ chứng minh anh đã ăn năn hối lỗi.
Vũ điềm tỉnh cầm viết ghi :
“ Tôi, Trần Vũ không hề có một hành động nào mang tính cách cưỡng hiếp cán bộ Quản Ly´ Đỗ Thị Hồng Hạnh trong ngày 25 tháng 5 năm1979.”

Cán bộ Hoàng nhìn vào tờ khai cung, đôi môi đang cười gượng gạo, chợt khuôn mặt đanh lại. Hàm răng cắn chặt vào nhau khiến cho quai hàm của y đã bạnh lại càng bạnh hơn, nom như đầu loài rắn mang gương xứ Ấn Độ. Hắn đứng dậy chồm qua bàn, một tay nắm bâu áo của Vũ, tay kia đấm tới tấp vào mặt Vũ. Hắn vừa đấm vừa hét lên: “Khốn nạn, đểu cáng”. Máu từ mũi Vũ phụt ra văng tung tóe, đỏ cả xấp hồ sơ. Thuận đà, y kéo Vũ về phía mình. Cạnh sắc của chiếc bàn chấn ngang bụng, Vũ cong người lại vì đau đớn rồi ngất xỉu trên bàn. Cán bộ Hoàng bỏ giấy tờ vào túi dết, gọi lính bảo vệ áp giải Vũ về lại hầm kỷ luật.

* * *
Tin Trần Vũ giúp việc trên kho đã cưỡng hiếp nữ cán bộ Quản lý gây xôn xao trong toàn trại. Đề tài nầy được xem là nóng hổi mấy ngày qua. Sau buổi cơm chiều, anh em tù thường tản bộ trên sân hội trường chuyền miệng cho nhau những mẫu chuyện vừa nghe lóm được. Một bạn nhận xét :
- Quả là một việc làm tầy trời, chỉ nghe thoáng qua cũng đủ xanh máu mặt, nổi da gà. Thế mà thằng Vũ dám “rờ dái ngựa” !
Phần lớn tù nhân đều chê trách Vũ, nào là : “ăn no bò cỡi, được voi đòi tiên”. Những bạn gần gũi thì tỏ ra không tin, bởi họ hiểu Vũ là người có tư cách và giàu ý chí.
“Biết đâu, vì gần gũi lâu ngày nên hai người ghiền nhau, nhất là Trần Vũ vừa đẹp trai, lịch sự vừa có “nghệ thuật đắc nhân tâm” thuộc loại siêu đẳng. Anh đội trưởng rau xanh nhận xét, rồi ghé tai anh bạn bên cạnh hỏi:
- Đằng ấy có nghe mấy cha cán bộ đùa cợt với nhau câu: “Thuốc bắc không chịu uống, lại đi ghiền thuốc nam!” trong mấy ngày qua không ?
Một bạn tù thuộc đội chăn nuôi đột ngột đến báo :
- Thằng Vũ bị bắt tại trận khi có tiếng kêu cứu của chị Quản lý và tịch thu được bộ áo quần của nó.
Người đứng bên cạnh bổ túc thêm :
- Tên trật tự đem cơm vào nhà cùm, tiết lộ rằng Vũ bị cán bộ Hạnh đánh vào mặt để thoát thân, mặt mày hắn còn sưng vù.
Một bạn tù cao niên tỏ ra am tường luật pháp phát biểu:
- Phàm“ bắt dâm bôn lấy l... làm chứng” là áp dụng cho tội ngoại tình kia. Tội hiếp dâm chỉ cần nạn nhân tố cáo là đủ rồi, đằng nầy còn tịch thu được cái quần là thừa tang chứng kết tội rồi.
Một bạn trẻ xen vào :
- Ăn vụng mà còn ham cởi cả áo thì bị bắt là đúng thôi. Cả bọn cười ồ !
Ông bạn già với giọng từng trải tiếp :
- Án cải tạo của thằng Vũ nhiều lắm sáu năm, bây giờ vướng vào án hình sự nầy e ngày ra tù của nó ắt phải chống gậy !

Sáng Thứ Bảy, tù nhân cơm nước xong đợi giờ lên đường lao động. Bỗng có lệnh trên ban xuống : “Tất cả nghỉ làm ngày hôm nay, chuẩn bị lên hội trường.”

-“Lại có chuyện gì đây ?” Mọi người xôn xao.

Mười lăm phút sau, tiếng kẻng gióng lên. Tù nhân hồi họp kéo đến hội trường. Cán bộ quản giáo, cán bộ vũ trang, các chị nuôi đều có mặt. Trên sân khấu được đặt ba chiếc bàn theo hình chữ U. Một tốp người vận đồng phục công an tiến vào hội trường, rồi lần lượt ngồi vào ghế đã được phân định trước. Bàn giữa gồm có: Giám thị trưởng, Thiếu tá công an Thanh Hoàng, và một người được giới thiệu là cán bộ phòng Kiểm Sát Nhân Dân của huyện. Hai Phó Giám Thị và một thư ký ngồi bàn cánh trái. Bàn bên phải bỏ trống.

Thiếu Tá Thanh Hoàng mở đầu cuộc họp bằng giọng nói đầy uy quyền :
- Ty Công An nhận được bản tường trình của Ban giám thị trại về vụ cưỡng dâm đã xảy ra tại văn phòng quản lý trong ngày 25 tháng 5 năm 1979. Can phạm là cải tạo viên Trần Vũ, nghề nghiệp : Trung uý lái máy bay của ngụy quyền Sài Gòn. Nạn nhân là cán bộ Quản lý Đỗ Thị Hồng Hạnh. Đây là cuộc họp xét tội công khai trong nội bộ để lấy đầy đủ lý chứng chuyển qua Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tỉnh.
Dù có bằng chứng rõ ràng, tên Trần Vũ vẫn ngoan cố không chịu nhận tội. Để chứng tỏ công tác thi hành luật pháp của Nhà Nước là vô tư và đúng đắn, hôm nay chúng tôi cho nạn nhân, đồng chí Đỗ Thị Hồng Hạnh đến đây đối chất trực tiếp với can phạm Trần Vũ và trưng dẫn vật chứng để chúng tôi đúc kết hồ sơ truy tố can phạm ra trước Tòa Án Nhân Dân. Trước tiên, yêu cầu các đồng chí vũ trang áp giải phạm tù Trần Vũ ra trước Chủ Tọa Đoàn. Yêu cầu đồng chí Hạnh vào bàn bên phải.

Tiếng rì rào nổi lên khi Trần Vũ xuất hiện giữa hội trường. Với bộ áo quần tù màu xám tro còn mới, trước ngực dính lấm tấm những vệt máu khô, Vũ bước đi xiêu vẹo, khó khăn bởi dây xích chân quá ngắn. Khuôn mặt Vũ bị biến dạng do những vết sưng bầm. Cùng lúc, cán bộ quản lý Hồng Hạnh cũng bước vào ngồi trên ghế đã chỉ định, với khuôn mặt bơ phờ, tư lự.

Mở đầu buổi tố khổ, cán bộ thư ký đọc bản tường trình nội vụ gồm có những điểm chính sau:

“Ngày 25 tháng 5 năm 1979, lúc 8 giờ sáng, tù cải tạo Trần Vũ bị bắt tại văn phòng quản lý về tội cưỡng dâm nữ cán bộ Đỗ Thị Hồng Hạnh. Tang chứng thứ nhất là bộ áo quần cuả can phạm bị tịch thu tại phạm trường. Tang chứng thứ hai là vết bầm trên mặt Trần Vũ là do nữ nạn nhân đánh để thoát thân. Thứ ba là chứng từ trong lời khai của Trần Vũ đã thú nhận có cảm tình với cán bộ Hạnh.” Bản tường trình kết thúc với ý kiến đề nghị: “Yêu cầu cấp trên làm sáng tỏ nội vụ để trừng phạt đích đáng kẻ phạm pháp hầu ngăn chận hành vi tương tự của kẻ khác.”

Công an Hoàng với tư cách là người trách nhiệm điều tra vụ án phát biểu :
- Sau đây là phần xác minh của nạn nhân Đỗ Thị Hồng Hạnh. Lời khẳng định nầy là dữ
kiện chính yếu để truy tố đương sự. Yêu cầu đồng chí Hạnh đứng lên.

Với thái độ điềm tĩnh, cán bộ Hạnh nói :
- Tôi xét thấy sẽ vấp phải sai lầm lớn lao nếu không đứng ra tố cáo kẻ phạm pháp. Tôi đoán biết thế nào Trần Vũ cũng sẽ không nhận tội. Điều đó không quan trọng mà quan trọng là điều xác minh của chính tôi. Nhưng trước tiên tôi yêu cầu Trần Vũ hãy trung thực trả lời câu hỏi của tôi:
- Anh có công nhận vết sưng bầm trên mặt anh là do tôi đánh? Không thành khẩn, anh là kẻ yếu hèn.
- Đồng chí Hạnh không cần phải nhiều lời, nên đi thẳng vào vấn đề. Cán bộ Hoàng chận lại. Hạnh tiếp :
- Tôi muốn chứng tỏ cho mọi người thấy bản chất của con người mang tên Trần Vũ, một tù cải tạo, có đủ nghị lực nhận tội hay không.

Bỗng, từ dưới chân khán đài, Vũ la lớn :
-Tôi xác nhận là không đúng ! Vết thương trên mặt tôi là do cán bộ điều tra gây ra.
Công an Hoàng quắc mắt nhìn Vũ rồi nhìn Hạnh. Chị Quản lý quay mặt về phía bàn chủ tọa, tiếp :
- Được, bây giờ tôi đề cập đến vật chứng.. Hạnh vừa nói vừa cầm bộ đồ tù đặt trên bàn đưa ra trước mặt hỏi :
- Trần Vũ hãy xác nhận bộ áo quần nầy của ai ?
Trần Vũ lớn tiếng trả lời :
- Của tôi.
Hoàng lên tiếng :
- Tôi xét thấy lời xác nhận của can phạm về vật chứng như thế là đủ rồi.

- Không, hãy cho tôi trình bày diễn tiến của sự việc. Hạnh bác bỏ ý kiến của công an Hoàng, tiếp :
- Cách đây trên một tháng, trong trận mưa đầu mùa, nước từ viên ngói bể trên nóc kho đổ xuống đống hàng tiếp liệu, Trần Vũ đích thân lên thay viên ngói bể ấy. Chiếc áo bị rách toạc sau lưng, nước mưa ướt đẫm cả áo quần, tôi đã tự động ứng trước cho Vũ bộ áo quần mới và giữ lại bộ áo quần cũ để đối chiếu khi vào sổ sách sau nầy.
Đây là lưng áo bị rách, cán bộ Hạnh vừa nói vừa trình chiếc áo ra trước cử tọa, rồi tiếp :
- Bộ đồ cũ nầy tôi cất trong kho, bỗng nhiên biến mất từ hơn hai tuần nay.”

Hoàng đập bàn đứng lên, nhưng Hạnh vẫn tiếp tục nói với nhịp độ nhanh và quả quyết hơn :
- Tôi xin xác định rằng Trần Vũ không hề cưỡng hiếp tôi.. Tôi không phải là nạn nhân của Trần Vũ mà là nạn nhân của ông, thưa ông Thanh Hoàng. Vừa dứt lời, Hạnh ôm mặt gục lên bàn khóc tức tưởi.

Những lời chứng của cán bộ Đỗ Thị Hồng Hạnh là cú tát đau điếng đối với Thanh Hoàng. Hắn tái da mặt, đôi hàm răng nghiến lại.
Bên dưới hội trường, tù nhân xúc động, âm thầm bấm tay nhau. Những âm thanh lào xào nổi lên như khi ta đứng giữa rừng lau sậy trong cơn gió. Đó là âm thanh của hàng trăm bàn tay tù xoa vào nhau trong niềm phấn kích.

Cuộc tố khổ bất thành. Nhân chứng đã can đảm lội ngược dòng. Giám thị trưởng cho lệnh giải tán. Trần Vũ trở lại nhà kỷ luật.

Đêm nầy, đôi chân của Vũ nằm trong cùm, nhưng trái tim chàng ở bên Hạnh, người con gái can trường .

Hai ngày sau, Hạnh nhận được lệnh về trình diện ty Công an. Dù vô tội, Trần Vũ cũng bị cùm thêm bảy ngày nữa mới được thả. Đôi chân sưng vù, chàng phải lê từng bước. Máu rỉ ra từ những vết thương do miệng cùm cứa đứt. Niềm hân hoan trong trận “chiến thắng con tim” đã xoa dịu phần nào cơn đau đang hành hạ thể xác Trần Vũ.

* * *
Đã hai tháng qua rồi, cán bộ Hạnh không quay lại trại tù nầy nữa. Trần Vũ được trả về đội sản xuất rau xanh cùng làm việc với anh em những tháng ngày vui vẻ. Bạn tù đều cảm thông và thương mến chàng hơn.
Buổi sáng Chủ nhật, tù nhân lần lượt xuất trại làm công tác xã hội chủ nghĩa. Riêng Trần Vũ và bốn bạn tù nữa được lệnh ở lại thăm nuôi.

Đây là lần đầu tiên trên suốt bốn năm Vũ mới được diễm phúc nầy. Anh vô cùng hồi hộp và nôn nóng tự hỏi, ai là thân nhân đến thăm mình. Hảo, người chị ruột đã mất tin tức sau ngày 30 tháng 4 năm 75? Tân, thằng bạn không quân được tha trước? Thời gian đợi chờ là lò lửa đốt nóng tim gan.

Một giờ, rồi hai giờ người ta mới kêu tên năm người ra khu thăm nuôi. Bốn bạn kia gặp được ngay vợ con. Họ nắm tay nhau mừng mừng tủi tủi. Riêng Vũ thì ngơ ngác tìm thân nhân. Chợt, một thiếu phụ đến bên Vũ hỏi nhỏ :
- Chú là Trần Vũ ?

Hai người cùng đến bàn ngồi. Thiếu phụ thấp giọng giới thiệu:
- Tôi tên là Hồng, chị của Hạnh. Cô ấy nhờ tôi lên thăm chú. Nó gởi ít quà và mười đồng cho chú bồi dưỡng. Tôi đã khai báo với cán bộ rằng, tôi là chị bà con của Trần Vũ và đưa số tiền đó cho ông ấy “quản lý” theo nội qui của trại. Chị vừa nói vừa luồn tay dưới bàn chuyển cho Vũ một gói giấy. Vũ vội lận vào lưng quần. Hai bên trao đổi với nhau về sức khỏe của Hạnh và đặc biệt Vũ muốn biết hiện giờ nàng đang làm gì, ở đâu? Chị Hồng không trả lời trực tiếp mà chỉ bảo từ từ rồi sẽ rõ.
Hai mươi phút trôi qua, giờ thăm nuôi chấm dứt. Dù mới gặp nhau lần đầu mà phút chia tay cũng nghe lòng quyến luyến.
Về đến trại, Vũ vứt xách quà trên sạp, vội mở gói giấy xem bên trong có gì. “Ôi, thư của Hạnh!”, Vũ thốt lên mừng rỡ. Tim anh vừa rộn ràng, vừa thương cảm. Nét chữ thân quen dịu dàng trải đều trên mặt giấy vàng đục :

“Anh Vũ Yêu Thương;
Không thể lên thăm anh được, nên Hạnh nhờ chị Hồng, người chị cả của em cũng trạc tuổi chị ruột anh. Em muốn mượn chị em để thay thế hình ảnh chị Hảo của anh hiện giờ ở rất xa. Em đã đến tận quê anh thăm dò mới biết chị ấy đang sống ở Mỹ cùng với chồng và một con. Đã có người hứa giúp liên lạc với chị Hảo để báo tin về anh. Sức khỏe của em vẫn tốt. Em đã nộp đơn xin chuyển cơ quan và đang chờ đợi cấp trên giải quyết.
Bố em đã biết mọi chuyện đã xảy ra. Ông mắng em là thiển cận và hồ đồ. Chị Hồng là người cảm thông và thương em nhiều nhất.
Anh yêu ơi, hôm trên hội trường, nhìn những vết sưng bầm trên mặt anh, em rất đau lòng. Thanh Hoàng đã buộc em làm chứng gian để trị tội anh, bởi anh là nguyên nhân của việc em quyết định từ hôn. Đối với Thanh Hoàng sự phản bội là một sỉ nhục ông ta. Hôm ấy em nói như kẻ lên đồng. Em không nói bằng lý trí mà nói bằng trái tim em. Trước đây, em đã có giao tình với Hoàng. Làm vợ Hoàng, trên một bình diện nào đó thì có lắm phụ nữ mong ước. Bởi anh ấy xuất thân từ một gia đình có bề dày công lao cách mạng.

Từ ngày gặp anh, ngoài những kiến thức hiểu biết tổng quát, anh còn cho em những xúc cảm rất mới mẻ về thể xác lẫn tâm hồn. Hoàng đã đến với em gần một năm nay, thật tình mà nói em rất khờ khạo. Nhờ anh, em mới phát hiện sự cục mịch, thô lỗ và ích kỷ của người đàn ông trong tình trường.

Vũ ơi ! anh là tù nhân của chế độ. Nhưng trái tim không là tù nhân của một ai. Con tim không phân biệt kẻ chiến thắng, người bại trận, không phân biệt chủ ngục với người tù. Con tim chỉ biết yêu và dâng hiến. Tại sao phải dựng bức tường ý thức hệ để ngăn cản tình yêu? Em ngồi viết cho anh mà nghe lòng mình tận cùng cô đơn. Em chán ngấy cái xã hội nầy, cứ để hận thù dày xéo con tim. Em yêu anh và muốn được sống bên anh. Có lẽ trọn đời em sẽ không quên quảng thời gian trên ấy. Dù rất ngắn ngủi nhưng lại sâu đậm hơn bất cứ lúc nào. Ta đã từng yêu nhau trong khoảnh khắc, vụng trộm, nhưng đầy ngọt ngào nồng ấm. Với Hoàng, chỉ để lại cho em những giây phút nhạt nhẽo và chán chường.
Em không hề đặt hy vọng hai ta là đối tượng hôn nhân của nhau, nhưng em vẫn quyết định từ chối làm vợ của Hoàng, bởi em tin rằng làm vợ Hoàng sẽ không còn hạnh phúc.
Thư không viết được nhiều đâu. Bị phát hiện sẽ làm khổ anh. Chị Hồng sẽ thay em thỉnh thoảng lên thăm anh. Rất nhớ anh.
Hồng Hạnh.

Thời gian qua nhanh, nhưng “Hội chứng Trần Vũ” vẫn còn âm ỷ trong đám tù nhân. Ngoài hiện trường lao động hay trong láng trại hễ có dịp là bạn bè trêu chọc. Một bạn tù cuốc đất bên Vũ ngâm nga :

“Thà một phút huy hoàng rồi chịu tối, còn hơn tù thui thủi biết bao năm?” (nhại theoThơ Xuân Diệu)
Những cặp mắt đổ dồn về phía Vũ rồi những tiếng cười ha hả vang lên.
Bạn khác chen vào với giọng thương cảm :
“Thương cho cây quế giữa rừng, để cho con Mán mụ Mường nó leo.”( nhại theo ca dao)
Tiếp theo là một giọng than vãn :
“Muội ơi nắng quá bình khô nước, đời vắng nị rồi ngộ chết khô !” (nhại theo thơ Vũ Hoàng Chương)

Bốn tháng sau, Vũ lại được chị Hồng lên thăm. Lần nầy, sau khi lén đưa được bức thư, chị dặn Vũ phải cẩn thận. Chị cho biết Hạnh chưa được cấp trên chấp thuận chuyển cơ quan và hiện phục vụ tại thành phố Hội An.

Về đến trại, Vũ vội vàng bóc thư ra đọc:
Anh yêu thương, mới đó mà đã xa nhau hơn sáu tháng rồi. Em nhớ anh ray rứt trong những đêm dài thao thức. Có lẽ anh là người mới cảm nhận sâu sắc nỗi đau của đợi chờ vô vọng. Hiện giờ, người ta dùng thế lực gây sức ép không cho em chuyển cơ quan. Hoàng bảo với em hắn sẽ không bao giờ tha thứ trước hai cái tát phản bội của em: Một tình yêu và một nghề nghiệp. Tay nầy khá nhiều thủ đoạn. Em biết hắn đang tìm cách trả thù em. Em nhắc anh nhớ hãy hủy bỏ những thư em gởi. Thân phận tù đày của anh như “chỉ mành treo chuông”, xin anh cẩn thận giữ thân mình. Không cần phải viết cho em. Vắn tắt mấy lời tin anh rõ. Nhớ anh. Hồng Hạnh.

* * *
Vũ nhận lệnh mang hết đồ dùng cá nhân trình diện Ban Trực Trại. Họ xáo tung áo quần của Vũ và lục soát tất cả không bỏ sót cả lai quần, bâu áo. Chỗ nằm của Vũ cũng có người đến lật từng thanh giường từng miếng nứa. Chẳng có kết quả nào, Vũ bị chuyển đến một đội khác, đội hình sự. Chỗ nằm của Vũ được sắp vào giữa hai tay tù hình sự khét tiếng ngoài đời, Đại và Phi. Cả hai mang án tù mười năm về tội đâm chết người trong sòng bạc.

Tính trầm tĩnh và kiên nhẫn là hai yếu tố giúp cho Vũ vươn lên và yêu đời. Chàng làm việc rất hăng say và xốc vác, sẵn sàng tiếp tay cho những bạn tù yếu sức. Những kiến thức trong trường, ngoài đời của Vũ đã giúp cho đội đi cây đạt được tiêu chuẩn của trại ấn định dễ dàng mà lại bớt phần vất vả. Công tác thường xuyên của đội là hạ những cây danh mộc xẻ thành ván chuyển về cho toán thợ mộc sản xuất bàn, ghế, tủ, giường.
Trời vào Đông, cơn mưa phùn rả rích đêm ngày. Đây là thời điểm gây khốn khổ nhiều nhất cho đội đi rừng. Với dốc đèo trơn trợt, loài vắt, loài ve xuất hiện dày đặc trên lá cây rừng. Vắt bám vào lưng, vào cổ người tù. Vắt luồn lách vào nơi kín đáo nhất của con người. Chúng hút máu mà ta không hề hay biết, đến khi no nê là tự động buông mình rơi xuống đất để lại vết cắn máu vẫn tiếp tục chảy ra.

Trời tạnh mưa, nhưng rừng già còn sũng nước.. Đội đi rừng khá vất vả mới hạ được cây gỗ lim. Toán dùng cưa dứt cây thành từng đọan. Vũ cùng anh em khác có trách nhiệm tỉa cành.
Ngọn cây ngã đổ về hướng dốc đứng cao, bên dưới là con suối, nước nguồn đang chảy về cuồn cuộn. Vũ khó khăn lắm mới bám được bờ dốc đổ thoai thoải về hướng suối làm nơi đứng để chặt cành. Tên Phi và Đại với áo mưa trùm đầu, cũng đến bên Vũ tìm chỗ đứng. Vũ đưa chiếc rựa ra xa, người chênh vênh trên bờ dốc. Bỗng một bàn chân đạp mạnh vào lưng Vũ. Mất đà, anh lộn nhào từ trên cao rơi dọc theo triền dốc đầy đá tảng rồi rớt xuống dòng suối.
Chiếc áo mưa đang mặc trở thành cái phao cứu Vũ. Nước đẩy trôi một đoạn, anh bình tĩnh nắm được ngọn cây chìa ra trên mặt nước. Khi nghe tiếng la: “tai nạn, tai nạn !” của tên Phi, mọi người chạy dọc theo bờ suối cứu Vũ. Chân trái bị gãy, đầu và mặt có nhiều thương tích. Quản giáo cho người khiêng Vũ về trạm xá.

Những ngày chân bị bó bột, nằm buồn, Vũ chợt nhớ đến mẫu chuyện Phúc Họa Khôn Lường trong Cổ Học Tinh Hoa, rồi ngâm nga câu thơ của Huỳnh Thúc “Kìa tụ tán chẳng qua là tiễn biệt, Ngựa Tái Ông họa phúc biết về đâu”.
Vài nga`y sau, Trần Vũ được chuyển qua toán làm việc nhẹ, ngày ngày chẻ mây đan giỏ. Từ khi Hạnh thẳng thừng bác bỏ những cáo buộc Vũ về tội cưỡng dâm do cán bộ Hoàng sắp đặt, anh luôn canh cánh nhớ ơn nàng vì mình mà Hạnh phải gánh chịu bao đắng cay, trù dập.

* * *
Sáng ngày 15 tháng 2 năm 1980, sáu tháng sau ngày Vũ bị tai nạn, tù nhân chuẩn bị xuất trại đi làm, Vũ được lệnh mang tất cả đồ dùng cá nhân trình diện Ban Giám Thị. “Lại có chuyện gì sắp xảy ra cho hắn?”, bạn tù xì xào bàn tán. Người đoán Vũ bị chuyển qua đội khác, kẻ hoài nghi chẳng lẽ họ đưa hắn đi Bắc? Dự đoán nào cũng khoác màu đen lên cuộc đời Vũ. Riêng Vũ thì rất điềm nhiên tự tại, bởi anh sẵn sàng chấp nhận bất cứ hoàn cảnh nào.

- “Anh đã thể hiện một cải tạo viên tiến bộ về mặt tư tưởng và lao động. Nay, Đảng và Nhà Nước quyết định tha anh về đòan tụ với gia đình”.

Lời tuyên bố quá bất ngờ của Giám thị trưởng, khiến Vũ đứng ngây người như trong cơn mơ. Anh không tin lỗ tai mình nữa, đến khi quản giáo trực gọi chàng vào ký giấy tờ, Vũ mới chắc chắn rằng chàng thật sự thoát được cảnh đọa đày.
Sau một giờ làm thủ tục, Vũ nhận một giấy “Quyết Định Ra Trại” và 20 đồng bạc đi đường. Vũ rời trại với bộ áo quần tù mới phát. Tất cả đồ cá nhân còn lại, Vũ yêu cầu cán bộ chuyển cho hai tù hình sự tên Đại và Phi kèm theo mảnh giấy có ghi lời nhắn: “Xem như món quà mọn dành cho hai bạn với lời cảm ơn chân thành của tôi.
Trần Vũ.”

Vũ lê đôi nạng gỗ suốt quãng đường dài mười cây số. Khi mặt trời chiều vừa gối đầu trên đỉnh ngọn núi cao nhất của Trường sơn, Vũ mới đến được bến xe huyện lỵ. Bác tài xế đỡ Vũ lên chiếc xe khách cuối cùng rời thị trấn.
Quyết định đầu tiên của Vũ là đến nhà chị Hồng để hỏi thăm tin tức của Hạnh. Có thể Hạnh đã lấy chồng hoặc đã thuyên chuyển đến một đơn vị nào rất xa. Điều quan tâm của Vũ là phải cảm ơn nàng lần cuối cùng, trước khi gởi đời mình vào nơi bị cưỡng bức cư trú : Khu Kinh Tế Mới.
Nhà chị Hồng ở làng Cẩm Lệ, một địa phương nổi tiếng trồng thuốc lá. Ngôi nhà màu vàng nhạt, mái ngói lâu đời đã xanh rêu, nổi bật là chiếc sân rộng lát gạch bát tràng. Nghe tiếng chó sủa, chị Hồng ra mở cửa. Chị trố mắt, kinh ngạc kêu lên:
- Vũ, chú được tha rồi hả ? Nhìn vào cặp nạng với ánh mắt đầy lo âu :

- Chuyện gì đã xảy ra cho chú thế ? Vũ không trả lời ngay, anh lục túi lấy tiền trao cho bác xe ôm. Chị Hồng ngăn lại dành phần trả, bác xe ôm tươi cười nói :
- Tôi chở giúp đấy, người anh em cũ của chúng tôi mà. Vũ chưa kịp cám ơn, anh xe ôm đã vội vàng phóng xe đi.

Vũ quay qua chị Hồng hối hả hỏi:
- Hạnh thế nào, bây giờ làm gì, ở đâu ?
Chị Hồng nhìn Vũ bảo :
- Việc ấy sẽ nói sau, giờ đây mời Vũ dùng cơm với mẹ chị và gia đình.

Bóng đêm phủ trùm cảnh vật, nhà nhà đều lên đèn. Bữa cơm đầu tiên với không khí gia đình đầm ấm khiến cho lòng Vũ cảm xúc dâng trào. Được biết chồng chị Hồng là công nhân của một Lâm trường cách xa nhà, lâu lâu mới được phép về thăm gia đình. Hồng và Hạnh là hai chị em cùng cha khác mẹ. Chị Hồng ở lại miền Nam với mẹ. Người cha tập kết ra Bắc lấy vợ khác, sinh ra Hạnh tại thành phố Vinh.
Đầu mùa Xuân mà tiết trời khá oi bức. Chị Hồng bắc ghế ngoài hiên cùng Vũ ngồi tâm sự. Sau khi nghe Vũ tường thuật những việc xảy ra cho chàng từ ngày Hạnh bị triệu hồi về Ty, cùng mưu đồ ám hại do hai tên tù hình sự thực hiện, Chị Hồng lắc đầu thốt lên :
- Ghê thật ! rồi tiếp :
- Đã trên một năm rồi, Hạnh không cho chị lên thăm Vũ vì tên Hoàng theo dõi chị. Phần Hạnh thì gặp muôn vàn khó khăn. Một mặt chúng lưu giữ không cho nó chuyển cơ quan, mặt khác cố truy tìm những vật chứng về sự liên hệ mật thiết giữa hai người. Đó là phương cách duy nhất để hủy họai danh dự của Hạnh mà Hoàng đã thề sẽ không bao giờ tha thứ.
Chị Hồng ngưng kể, nhìn Vũ một hồi lâu rồi ân cần bảo :
-Đêm nay Vũ nghỉ lại đây. Ngày mai chị sẽ đưa chú đến thăm Hạnh. Con nhỏ vẫn còn tốt số, Chúa đã che chở cho nó !

Vũ giật mình, nôn nóng ngắt lời: -Hạnh đã gặp tai nạn phải không ?

-Gần như thế, thằng Hoàng hăm he sẽ đòi lại món nợ đời mà Hạnh đã gây ra cho nó. Rất may là thư của Hạnh chú đã tiêu hủy. Bằng không, lần khám xét trên ấy mà họ bắt gặp chỉ một bức thư của Hạnh là hai người sẽ bị khốn đốn. Thằng ấy đầy mưu mô quỉ kế. Mới đây, Thanh Hoàng bỗng làm lành với Hạnh. Hắn yêu cầu cô ấy rút lời từ hôn và trở lại với hắn.
Con nhỏ cứng rắn bảo :
- Nước đổ ra sàn còn mong gì hốt lại, đồng chí tìm một người khác xứng đáng hơn. Hoàng gằn từng tiếng:
- Đến bây giờ mà cô vẫn còn mê muội.

Con nhỏ nổi giận quát lên :
- Đồng chí nói ai mê muội ?
Hoàng trợn mắt, hét vào mặt Hạnh :
- Tôi nói đồng chí mê muội đấy, được không? Tao sẽ trị thằng giặc đó liệt đời luôn. Con bé không vừa, dang tay tát vào mặt Hoàng một cái như trời giáng, rồi thét lên :
- Quân đốn mạt !
Bất ngờ, Hoàng rút súng lẫy cò. Một tiếng nổ vang lên chát chúa. Hạnh ngã xuống, máu chảy tràn trên mặt đất. Người ta vội chở cô ấy đi bệnh viện cấp cứu ngay. Rất may là viên đạn không trúng tim mà đi chệch lên trên làm gãy xương vai.
- Sự việc xảy ra bao lâu rồi hả chị ? Vũ lo lắng hỏi.

- Vừa tròn một tháng. Với tấm chân tình Hồng tiếp :
Hạnh, nó yêu em thật lòng Vũ à. Con nhỏ nầy cứng đầu lắm. Mẹ ruột nó mắng chửi, ông già khuyên răn mãi mà nó cương quyết không chịu trở lại với thằng Hoàng, nó bảo: "Vợ chồng mà không hòa hợp làm sao chung sống với nhau cho tròn vẹn".
Thiếu Tá Thanh Hoàng hiện nay đã bị ngưng chức. Hắn ra Hà Nội đã nửa tháng nay.
Suốt cả đêm Vũ không hề chợp mắt, trông trời mau sáng. Tình yêu trong trái tim đóng kín giờ đây như được thoát ra
khỏi lớp vỏ bọc mặc cảm thân phận người tù và đang thôi thúc Vũ nhanh chân đến với Hạnh.
Trời còn tối mịt, chị Hồng cùng Vũ đón xe đi Hội An, một thành phố cổ nổi tiếng ngày xưa nằm về hướng đông nam Đà Nẵng.
Hội An mới trải qua 6 năm sau ngày “giải phóng” mà như người mắc bệnh cùi, khuôn mặt lở lói, nhớp nháp, xanh xao. Đường phố loang lổ ổ gà. Nhà nhà cửa đóng then cài, lưa thưa một vài bóng người thất thểu trên vỉa hè đầy rác rưởi.
Hạnh ở trong một tòa nhà chung cư ba tầng. Thang gác chật hẹp lại thêm dốc đứng, với đôi chân đi nạng, Vũ trèo lên vô cùng khó khăn. Trên lan can, người ta phơi áo quần giăng mắc khắp nơi. Ngay cả những quần đùi, xì líp họ cũng chẳng ngần ngại bày ra.

Dọc theo một hành lang tối tăm, ẩm thấp là những cánh cửa có ghi số phòng: P311, P312, P313... Chị Hồng dừng lại cửa P319 rồi gõ vào đó bốn tiếng. Vũ hồi họp đợi chờ.
Cánh cửa từ từ xịch mở. Hạnh xuất hiện nơi khung cửa, vai trái bó bột, gương mặt xanh xao, tiều tụy nhưng đôi mắt nàng vẫn còn ngời lên ánh tự tin. Hạnh cười với chị Hồng. Bất chợt nàng trông thấy người đàn ông đi nạng đứng ngoài xa. Hạnh nhìn chị Hồng, rồi nhìn Vũ, bỗng nàng la lên:
- Vũ, anh đã về !
Hạnh chạy tới ôm chầm lấy Vũ. Chàng buông cặp nạng gỗ, hai tay giữ đầu Hạnh. Họ gục mặt vào nhau. Dòng nước mắt nhớ thương tích tụ lâu ngày của đôi tình nhân đầy nghịch cảnh đã chan hòa. Họ uống những giọt lệ hạnh phúc qua làn môi mặn. Chị Hồng lặng lẽ lau khô dòng nước mắt xu´c động đang chảy dàn dụa trên má.

Vừng thái dương đã lên cao. Đôi bồ câu tha những sợi rác về làm tổ cũng vừa sà cánh trên nóc dãy nhà dân trước mặt. Nắng chan hòa trên mái ngói rêu xanh làm dịu bớt nét già nua của thành phố cổ.

(Trích từ Tuyển Tập Truyện Ngắn LƯU DẤU NGÀY XƯA
do tác giả tặng)


Cảm ơn CCG, Kim, anh Kiến, Việt Hạo Nhiên, Ngọc Hân, anh Hoài và các bạn ghé đọc.
:z57::z57:Xin chúc một ngày nhiều niềm vui đến tất cả.:z57::z57:

thuykhanh
07-02-2017, 09:59 AM
Một Nụ Cười
Bửu Uyển


Vào dịp cuối năm 1984, một buổi họp mặt các cựu tù nhân chính trị được tổ chức ở San Diego. Xướng ngôn viên của buổi lễ cho biết : “Khi tôi xướng tên trại nào, nếu quý anh là trại viên của trại đó, xin đứng dậy và tự giới thiệu tên của mình để các anh em khác được biết”. Nhiều trại cải tạo ở miền Bắc được lần lượt xướng tên như “Phong Quang”, “Yên Báy”, “Vĩnh Phú”, “Thanh Cẩm”, “Lý Bá Sơ”, “Nam Hà”, “Phú Sơn” v.v Trại nào cũng có năm bảy anh đứng dậy và giới thiệu tên của mình. Khi xướng tên trại Nam Hà, tôi đứng dậy và có thêm bốn anh nữa , trong đó có một anh, tự giới thiệu tên của mình là Lê Trung Đạo. Tôi lẫm nhẫm Lê Trung Đạo, Lê Trung Đạo…sao tên nghe quen quá, hình như anh ấy ở chung đội với tôi thì phải. Khi phần giới thiệu các anh em trại Nam Hà chấm dứt, tôi đi đến bàn của anh Đạo, đứng đối diện và nhìn kỹ anh ấy. Tôi nhận ra anh Đạo ngay. Tôi ôm chầm lấy anh, và anh ấy cũng ôm tôi trìu mến. Tôi thì thầm bên tai Đạo : “Em còn nhớ anh không? ” Đạo trả lời ngay: “Anh Uyển, mà sao em có thể quên được, thật vui mừng được gặp lại anh. Em trông chờ ngày này đã lâu lắm rồi!”

Khi cùng sống trong cảnh đọa đày nơi trại Nam Hà, phân trại C, tôi và Đạo nằm gần nhau. Ra đồng, bắt được con cua, con cá, tôi và Đạo cùng chia sẻ với nhau. Đạo là một Thiếu Úy Cảnh Sát Đặc Biệt, mới ra trường, không biết làm Trưởng G hay H gì đó..mà bị đày ra cải tạo ở miền Bắc.Anh còn quá trẻ, khoảng 24, 25 tuổi. Tôi xem anh như một người em của tôi và tôi rất quý mến anh. Đạo chưa lập gia đình. Anh chỉ còn một mẹ già đang sống ở Vĩnh long. Vì vậy, từ ngày bị đưa ra Bắc, Đạo chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân từ trong Nam gởi cho anh. Anh sống hiền hòa, vui tính, nên anh em trong đội ai cũng mến anh. Đạo xem tôi như một người anh trong gia đình, anh tâm sự với tôi : “Đời em chẳng còn gì nữa, chỉ có một người mẹ, mà từ ngày bị đày ra Bắc, đã trên 5 năm rồi em chẳng có tin tức gì của mẹ em. Không biết bà còn sống hay đã ra người thiên cổ”
Đạo nắm tay tôi và cảm động nói: “Giờ đây em chỉ có anh là người duy nhất thương mến em, cho em chút an ủi để sống qua ngày!”
Như có một động lực nào thúc đẩy, Đạo tâm sự với tôi : “Anh ạ,mình phải sống chứ anh, mà muốn sống, dù là cuộc sống thấp nhất, cũng phải có một ước mơ gì đó để mà mộng tưởng, để tiếp sức cho mình. Các anh em ở đây , dĩ nhiên ai cũng mơ ước sớm được trở về với gia đình. Ngoài xã hội thì kẻ này mơ trúng số, kẻ kia mơ nhà cửa , ruộng vườn v.v. Nhưng sống nơi địa ngục trần gian này, anh em mình mơ ước điều gì đây? Tất cả đều nằm ngoài tầm tay của mình. Em chợt nhớ lại một câu chuyện cổ tích của Pháp, tựa đề là “Un Peu De Soleil Dans L’eau Froide” kể lại câu chuyện một ông lão nghèo khổ, sống cô đơn một mình trong căn lều nhỏ bé, trống trước, trống sau. Bổng một bà tiên hiện ra và cho ông một điều ước. Bà tiên cứ nghĩ, thế nào ông lão nghèo nàn này cũng sẽ ao ước có một căn nhà, hoặc ao ước có nhiều tiền bạc..v..v. Nhưng bà tiên vô cùng ngạc nhiên, khi ông lão nghèo khổ ấy chỉ xin “Một Nụ Cười”
Đạo như chợt tỉnh, ông lảo bất hạnh trong câu chuyện cổ tích, đã chỉ cho Đạo một mơ ước, mà dù trong hoàn cảnh nào cũng có thể đạt được, đó là một nụ cười. Không cần phải là nụ cười của giai nhân, mà chỉ cần một nụ cười thân ái của ai đó, chân thành trao cho anh, vì yêu mến anh, có thế thôi.

Cuộc sống tù đày cứ kéo dài triền miên trong đói khổ, vô vọng. Nhưng khi nghĩ đến một nụ cười, Đạo thấy tâm hồn mình có chút an ủi, nhẹ nhàng. Hằng ngày , Đạo ước mơ nhận được nụ cười. Đêm đêm Đạo cũng ước mong trong giấc mơ, anh sẽ gặp được một nụ cười. Nhưng buồn thay, những giấc mơ đến với Đạo chỉ là những cơn ác mộng mà thôi.
Nhưng thật kỳ diệu, từ ngày Đạo ôm ấp ước mơ có được một nụ cười, anh thấy cuộc đời của anh có chút ý nghĩa, vì dù sao anh cũng có một ước mơ, để mà thương, mà nhớ, mà mong chờ.
Một hôm, đội được dẫn đi gặt lúa, khi đi ngang qua cỗng cơ quan, Đạo thấy nhiều chiếc áo vàng đứng ở đó. Nhìn lướt qua, Đạo chợt thấy một nữ cán bộ nhìn anh mỉm cười. Anh không tin ở mắt mình, anh nghĩ rằng có thể cô ta cười vu vơ gì đó, chứ đâu phải cười với anh. Anh quay lại nhìn một lần nữa, vẫn thấy cô ta nhìn anh và mỉm cười.

Từ ngày ấy, mỗi khi đội đi ngang qua cỗng cơ quan, Đạo đều bắt gặp nụ cười của người nữ cán bộ dành cho anh. Vì vậy khi đi lao động, Đạo luôn luôn đi cuối hàng để dễ đón nhận nụ cười của cô nữ cán bộ. Đạo cũng cười đáp lễ với cô ta. Đạo bắt đầu thấy cuộc đời của mình, có một chút gì thi vị, đáng sống. Khi ăn, khi ngủ, nụ cười đó luôn luôn theo anh, cho anh niềm an ủi, và chút lạc quan để sống. Anh em trong đội đều biết mối tình mắt nhìn mắt và trao đổi nụ cười của Đạo và cô nữ cán bộ.
Không những Đạo nhớ đến nụ cười, anh còn nhớ đến đôi mắt như muốn nói với anh muôn ngàn lời, anh nhớ đến người con gái ấy. Ban đầu anh nghĩ rằng cứ giã bộ vui vẻ cho qua ngày. Nhưng trong tâm trí anh, luôn luôn nhớ đến cô gái ấy và anh nhận ra rằng anh đã yêu cô ta. Đạo nhớ lại ngày xưa Elvis Presley đã hát một bài hát nỗi tiếng là bài Don’t Gamble With Love nay thật đúng như trường hợp của Đạo. Bây giờ Đạo không còn cho rằng lao động là khổ sai nữa, mà anh trông chờ mỗi buổi sáng được đi ngang qua cỗng cơ quan, để đón nhận nụ cười của người nữ cán bộ.

Một buổi chiều khi đi lao động về,nghe các anh em Công Giáo tập hát bài “Đêm Đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời”, Đạo mới biết, đêm nay là đêm Noel. Khi cửa phòng giam đóng lại, anh em Công Giáo vội vã thiết trí một ngôi sao Giáng Sinh và hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh” ở vách tường cuối phòng. Họ nắm tay nhau ca hát, đọc kinh, cầu nguyện. Đạo nằm mơ màng, lơ đãng nhìn về cuối phòng, chung quanh hàng chữ “Mừng Chúa Giáng Sinh”, Đạo tưởng tượng như có những bóng đèn màu chớp sáng. Anh mơ hồ nghe như có tiếng nhạc bài Silent Night dịu dàng thoảng đi trong gió…Anh thiếp đi trong giấc ngủ yên lành
.
Vào một buổi sáng chúa nhật, chúng tôi được gọi ra sân để nhận quà của thân nhân từ trong Nam gởi ra. Thường thì 80 đến 90 phần trăm anh em đều nhận được quà. Riêng Đạo thì chưa bao giờ nhận được quà của thân nhân. Nhưng thật bất ngờ, hôm nay cán bộ lại kêu tên Đạo lên nhận quà, ai cũng ngạc nhiên và mừng cho Đạo. Anh nhận một gói quà bình thường, nhưng cách gói quà, khác với những gói quà từ trong Nam gởi ra. Đạo sững sốt nhận gói quà, đem về phòng, cẩn thận mở ra. Một mãnh giấy nhỏ nằm trên những gói đồ ăn, anh đọc vội hàng chữ “Trìu mến gửi anh Đạo – Em : Kim Chi”. Với mấy chữ ngắn gọn đó, Đạo biết ai gởi cho anh món quà tình nghĩa này. Anh ôm gói quà vào lòng. Anh không ngờ người nữ cán bộ có nụ cười dễ thương đó, lại dám liều lĩnh gởi quà cho anh. Hai hàng nuớc mắt chảy dài xuống má, đây là những giọt nước mắt hạnh phúc mà từ lâu anh không hề có.

Trại Nam hà, Phân trại C, nơi chúng tôi đang ở, phía sau là con đường làng. Trại chỉ ngăn cách với bên ngoài bởi những bụi tre thấp và hàng rào kẽm gai. Dân chúng đi ở ngoài, chúng tôi có thể thấy họ. Thường vào buổi chiều, sau khi ăn cơm xong , chúng tôi hay ra ngồi chơi ở sân sau đó, nhìn người qua lại. Một hôm, chúng tôi thấy cô cán bộ Chi đi lui, đi tới ở ngoài hàng rào, rồi thình lình quăng vào trong một cái gói nhỏ. Chúng tôi biết cô ấy gởi gì đó cho Đạo, chúng tôi mang vào cho anh. Đạo không biết Chi gởi gì cho anh, nhưng anh cảm động lắm. Anh em hiếu kỳ đứng quanh giường của của Đạo, để xem cô Chi đã gởi gì cho anh: đó là một gói xôi và một con gà vàng rộm. Đối với tù nhân, đói triền miên như chúng tôi, thì gói xôi gà này là cao lương mỹ vị bậc nhất trên thế gian này. Đạo rất hào phóng, anh chia đều xôi, gà cho tất cả 32 anh em trong đội, mỗi người được một muỗng xôi và chút ít thịt gà. Có người ăn ngay, nhưng cũng có vài anh em để đó, hít hít mùi thịt gà cho đỡ thèm.

Đạo thấy thương Chi quá, vì yêu anh, nàng đã gan liều làm những việc như vậy, vì nếu bị phát giác, nàng ở tù như chơi. Đạo càng thương Chi khi nghĩ đến tương lai : một cán bộ công an yêu một sĩ quan cảnh sát ngụy..thì đời nào có thể sum họp được. Anh thở dài !
Vào một sáng chúa nhật, một anh trật tự đến phòng chúng tôi, bảo anh Đạo chuẩn bị ra có người thăm nuôi. Chúng tôi rất ngạc nhiên, vì từ bao năm nay, Đạo thuộc diện con mồ côi, chưa hề có ai gởi quà cho Đạo, nói gì đến chuyện thăm nuôi.Thế mà hôm nay, lại có người thân nào đó đến thăm Đạo. Chúng tôi mừng cho Đạo. Khoảng 9 giờ sáng, anh được cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi. Chúng tôi hồi hộp chờ Đạo trở vào để xem anh nhận được những quà gì của thân nhân đem đến.

Nhưng chúng tôi chờ mãi…đã ba , bốn giờ chiều rồi, vẫn chưa thấy Đạo trở vô trại. Thường một trại viên được gặp mặt thân nhân khoảng 15, 20 phút, tối đa là nửa giờ. Thế mà , Đạo ra nhà thăm nuôi đã hơn bốn, năm tiếng rồi mà chưa thấy vô. Chúng tôi bắt đầu lo lắng cho Đạo, không biết chuyện gì đã xảy ra cho anh, lành hay dữ. Và từ đó, chúng tôi không còn biết tin tức gì về Đạo nữa.

Hôm nay gặp lại Đạo, tôi đem chuyện ấy ra hỏi Đạo, anh đã kể cho tôi nghe câu chuyện sau đây:
“ Anh nhớ không, ngaỳ chúa nhật hôm đó, em được dẫn ra nhà thăm nuôi, nói là có thân nhân đến thăm. Em vô cùng ngạc nhiên vì em đâu có thân nhân nào từ trong Nam có thể ra thăm em. Bước vào nhà thăm nuôi, em thấy Chi và một ông Thượng Tá công an ngồi ở đó.Chi vội vã đứng lên giới thiệu : “Đây là cậu Du của Chi, đang công tác ở tỉnh Thái Bình, em nhờ cậu ấy đến thăm anh.” Đạo bối rối nhìn Chi, nhìn ánh mắt, nụ cười của Chi. Chi mặc đồ công an, trên cổ áo có đeo quân hàm Thiếu Úy. Chi biết Đạo ngõ ngàng, thắc mắc nên cô nói ngay : “Anh đừng lo, em bảo anh làm gì thì cứ làm theo, chớ có hỏi han gì hết”. Chi dẫn Đạo vào một căn nhà ở gần nhà thăm nuôi, nhà không có ai cả. Chi bảo tôi cởi bộ áo quần tù ra, và mặc ngay bộ đồ công an đã để sẵn ở đó; ngoài áo quần, có cả nón, cặp da và giấy chứng nhận đi công tác miền Nam.

Tôi như trên trời rớt xuống, nhưng không có thì giờ để hỏi Chi, việc gì đang xảy đến cho tôi. Khi tôi đã mặc xong bộ đồ công an, Chi nhìn tôi mỉm cươì , rồi kéo tôi ra ngỏ, bảo tôi leo lên một chiếc xe Jeep nhà binh đậu sẵn ở đó., và chạy ra ga xe lửa Phủ Lý. Chi bảo tôi cứ ngồi trên xe, Chi vào mua vé xe lửa đi về Sàigòn. Khi đưa tôi lên xe lửa, Chi ân cần căn dặn: “Không nên về nhà, cũng đừng liên lạc với mẹ, mà tìm một người bà con nào đó ở tỉnh khác xin trú ngụ vài ngày, rồi tìm đường vượt biên. Tốt nhất là đi đường bộ qua ngã Campuchia”. Chi đưa cho tôi một gói giấy và nói: “Đây là ít tiền để anh tiêu dùng, nhớ là phải vượt biên ngay nhé!”. Chi cầm tay tôi và chân thành nói : “Em là vợ của anh, anh đừng quên em!”. Tôi ôm Chi vào lòng, nước mắt ràn rụa. Chi cũng khóc trên vai tôi. Xe lửa từ từ lăn bánh, hình ảnh Chi cô đơn đứng một mình trên sân ga, nhỏ dần, nhỏ dần.. Tôi thấy nhiều lần Chi đưa tay lên lau nước mắt. Trong tim tôi, mối tình mà Chi dành cho tôi quá sâu đậm, đã chiếm trọn cuộc đời tôi. Tôi vỗ vỗ vào trái tim của mình “Đạo, Đạo, mày phải sống xứng đáng để đền ơn đáp nghĩa cho Chi nghe chưa”

Khi xe lửa dừng lại ở ga Bình triệu, Sàigòn, tôi không về nhà tôi ở Vĩnh Long, mà đến nhà dì tôi ở Cần Thơ xin trú ngụ.Chồng của dì tôi là một Đại úy Công Binh Việt nam Cộng Hòa, trước năm 1975, ông phục vụ ở Tiểu Đoàn 24 Công Binh Kiến tạo, mới được trả tự do. Gia đình dì, dượng tôi đang âm thầm chuẩn bị vượt biên. Dì, dượng tôi vui vẻ chấp thuận cho tôi cùng đi theo. Tôi đã đưa gói tiền mà Chi trao cho tôi, cho dì tôi để bà tiêu dùng. Mở gói ra xem, dì bảo tôi : “Tiền đâu mà cháu có nhiều vậy?” Tôi trả lời ngay : “Của vợ con cho đó!”

Vào một đêm tối trời, ghe máy chở cả nhà ra cữa biển Đại Ngãi, vì tàu lớn đang đậu ở đó. Sau 3 ngày và 4 đêm, tàu của chúng tôi đã đến hải phận Thái Lan, được tàu tuần duyên của Thái Lan đưa về trại Sikiew. Trong cuộc phỏng vấn thanh lọc, nhân viên Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc hỏi tôi rất ít. Tôi nghĩ là họ có đầy đủ hồ sơ cá nhân của ngành Cảnh Sát Đặc Biệt. Họ chỉ hỏi tôi là làm Trưởng G hay Trưởng H, tôi trả lời. Người nhân viên đó lấy trong tập hồ sơ ra một tấm ảnh, anh nhìn tôi rồi gật đầu.Thế là tôi vượt qua cuộc thanh lọc. Mấy tháng sau, họ chuyển tôi qua trại Pulau Bidong ở Mã Lai, để chờ chuyến bay đi định cư ở Mỹ.
Tôi mau chóng gởi thư cho má tôi ở Vĩnh Long, báo tin tôi đã bình yên đến trại Pulau Bidong ở Mã Lai, đang chờ chuyến bay để đi định cư ở Mỹ. Khoảng 2 tuần sau, tôi vui mừng nhận được thư hồi âm của má tôi, và một bất ngờ thú vị đến với tôi là có cả thư của Chi nữa! Má tôi đã viết cho tôi : “Đạo con, má rất vui mừng nhận được tin con đã đến nơi bình yên. Má cho con biết là Chi đang ở đây với má. Chi đã kể cho má nghe hết mọi chuyện. Má rất hạnh phúc có được một con dâu hiếu thảo như Chi, má mừng cho con”
Đạo run run mở thư của Chi ra đọc: “ Anh Đạo yêu quí của em, nghe anh đã đến đảo và đang chờ chuyến bay để đi Mỹ, má và em mừng quá anh ơi. Khi anh đi về Nam chưa đầy một tháng, họ đuổi em ra khỏi ngành công an. Em đã về Vĩnh Long ở với má, em thay anh phụng dưỡng, săn sóc má, anh yên tâm ! “

Với lời lẽ chân tình, mộc mạc, tôi uống từng chữ, từng lời trong bức thư ngắn gọn của Chi, tôi áp bức thư vào ngực và đi vào giấc ngủ.
Năm 1982, tôi được đi định cư ở Mỹ. Khi có thẻ xanh, tôi đã làm hồ sơ bảo lãnh Chi. Trong thời gian ở với má tôi ở Vĩnh Long, không biết Chi hỏi thủ tục bảo lãnh ở đâu mà nàng ra Thái Bình, nhờ người cậu Thượng Tá Công An của nàng, làm một giấy hôn thú của tôi và Chi, có đầy đủ chữ ký và khuôn dấu đỏ xác nhận của chính quyền địa phương.

Năm 1987 khi tôi được nhập quốc tịch Mỹ, tôi đã bổ túc hồ sơ bảo lãnh. Chi đã nhanh chóng được phỏng vấn. Lúc này, những trường hợp gian dối chưa xảy ra nhiều, nên việc chấp thuận cho chồng bảo lãnh vợ tương đối dễ dàng nếu có đầy đủ giấy tờ chứng minh.
Vào một ngày se lạnh ở miền Nam Cali, tôi và vài bạn bè thân quen đến đón Chi ở phi trường Los Angeles. Tôi ôm Chi vào lòng, vì quá cảm động, tôi chỉ thốt lên được một tiếng “Em!” Chi cũng vậy, nàng thổn thức trên vai tôi “Anh!”. Chỉ 2 tiếng “Anh” “Em”, nhưng đã gói trọn cuộc tình mà chúng tôi nghĩ là không bao giờ có thể sum họp được. Tạ ơn Trời Đất !
Đạo xây qua người đàn bà ngồi bên cạnh anh, và giới thiệu với tôi : “Thưa anh, đây là Chi, vợ em” Chi bẽn lẽn cúi đầu, che dấu nụ cười đã đem lại sức sống và hạnh phúc cho Đạo.

Tôi đã được nghe , được biết nhiều mối tình ly kỳ, éo le lắm. Nhưng nếu nói đến một mối tình thật lãng mạn, mà người con gái đã dám hy sinh sự nghiệp và cả tính mạng mình cho người yêu, thì không thể không nói đến mối tình của nàng Kim Chi và chàng Trung Đạo.


Bửu Uyển
Tháng 6-2016

______

Cảm ơn Cuốc sĩ, anh Hải Việt và các bạn ghé đọc. Cầu chúc mọi người một ngày bình an.

Ngoc Han
07-26-2017, 01:50 PM
Chuyện tình của một sĩ quan Thủy quân lục chiến và nữ cán binh VC (https://buonvuidoilinh.wordpress.com/2016/01/15/chuyen-tinh-cua-mot-si-quan-thuy-quan-luc-chien-va-nu-can-binh-vc/)
Sau 3 ngày quần thảo ác liệt với địch quân, chúng tôi mới chiếm được mục tiêu, đơn vị chủ lực miền của địch thuộc tỉnh Bến Tre đã bị xóa sổ, nhưng tiểu đoàn của chúng tôi cũng bị thiệt hại khá cao. Trung đội 4 của tôi được lệnh bung rộng ra kiểm soát từng hầm hố, từng công sự của địch. Cảnh vật hoang tàn đổ nát, những thân cây dừa bị mảnh đạn pháo binh băm nát lỗ chỗ. Hầu như không còn chỗ nào nguyên vẹn, mùi thuốc súng nồng nặc khó chịu vẫn còn vương lại nơi đây.
Tôi với Kính, người mang máy truyền tin, cẩn thận từng bước trên bờ mương nhỏ. Chợt Kính nói nhỏ:
– Ông thầy! Coi chừng hình như có người trong lùm cây đàng kia.
– Tản rộng ra, theo dõi kỹ chung quanh và coi chừng đồ chơi của tụi nó.
Tôi ra lệnh cho Kính xong là lom khom phóng qua những thân cây nằm ngổn ngang trên mặt đất, khẩu M16 lên đạn sẳn sàng, Kính theo kế bên hông. Tiếng rên nho nhỏ của phụ nữ văng vẳng ra từ trong lùm cây rậm rạp.
– Một đồng chí nữ nhà ta đấy. Kính reo nho nhỏ.
Kinh nghiệm chiến trận cho tôi biết không bao giờ hấp tấp trước mọi tình huống, có thể địch gài mìn bẫy xung quanh, hoặc gỉa vờ bị thương để dẫn dụ đối phương tới gần rồi sát hại. Dơ ngón tay ra hiệu lệnh và chỉ vào lùm cây, tôi quan sát lần nữa rồi rón rén bước nhẹ, đằng kia thằng Kính lăm le khẩu súng trên tay trông chừng. Tôi lấy mũi súng vạch đám lá, một cô gái trạc độ 18,19 tuổi nằm gối đầu lên chiếc ba-lô mầu “cứt ngựa”, vai trái bị trúng đạn máu tuôn ra ướt đẫm, mắt nhắm nghiền nhưng miệng vẩn không ngớt rên rỉ:
– Nước…Nước..cho tôi miếng nước”.
Trước tình trạng nguy hiểm đến tính mạng của “cô” địch quân sau khi ngừng tiếng súng, việc đầu tiên là phải cầm máu, tôi lấy băng cá nhân lau nhẹ trên vết thương, đoạn dùng lưỡi lê cắt khoảng áo trên vai, đỡ cô ngồi dựa vào người tôi đoạn bảo Kính:
– Mày băng dùm cho tao, nhớ nhẹ tay.
– Ông nhân từ quá, gặp em con nhỏ này tiêu đời. Kính vừa băng vừa cằn nhằn.
Tôi im lặng không nói gì, Kính nói đúng, những người lính của tôi đã ngã xuống, máu của họ đổ ra cho sự Tự do, người Cộng Sản có nhân từ với người anh em của tôi không?
– Nước… Cho tôi xin miếng …..nước.
– Đ. Mẹ … Câm miệng lại.
Kính quát tháo giận dữ, tôi lừ mắt nhìn người đệ tử ra vẻ không hài lòng.
– Mày đừng nói như vậy, với một người sắp sửa chết mình đừng nuôi thù hận nữa.
Thôi mày ra ngoài trông chừng cho tao đi.
Tôi lấy cái khăn màu tím cột trên vai áo, dấu hiệu nhận diện của đơn vị, thấm chút nước rót từ bình tông lau nhẹ trên mặt cô gái. Tôi ngẩn người trong giây lát vì sắc đẹp của cô, khuôn mặt thanh tú với hàng mi cong vút nhất là sống mũi cao nom cô phảng phất như minh tinh màn bạc dù trắng xanh vì mất máu nhưng cô ta vẫn có nét thu hút đặc biệt. Ghé bình tông nước vào miệng cô gái, tôi nói nhỏ:
– Cô uống đi, nhớ từ từ từng chút một.
Cô ngoan ngoãn nghe lời như một em bé.
– “Cám ơn ông nhìều”. Giọng nói yếu ớt và mệt mỏi.
– Tôi sẽ tiêm cho cô 2 mũi thuốc trụ sinh và cầm máu, cố chịu đau nghe.
– Không cần đâu, làm phiền ông nhiều rồi, vả lại tôi cũng sắp chết đến nơi.
– Bậy bạ, vết thương này đâu có gì nguy hiểm.
– Đừng an ủi như vậy, hồi nãy ông nói tôi sắp chết đừng nuôi hận thù nữa.
– Tại vì…Tại vì…Tôi không muốn lính của mình ăn nói kỳ cục như vậy.
Cô gái mở mắt nhìn tôi với vẻ cám ơn, trong đáy mắt chứa nhiều điều muốn nói, lâu lắm cô nói thều thào:
– Bây giờ ông sẽ làm gì với tôỉ…Bắn một phát súng có lẽ nhẹ nhàng hơn là giao tôi cho cơ quan điều tra.
Thật tình tôi không biết trả lời sao với cô, chưa kịp phản ứng thì cô tiếp:
– Tôi sinh ra ở miền đất mênh mông sông nước, hãy để thân xác này vùi dập nơi đây. Xin ông đừng giao cho ai hết. Tôi van xin ông.
– Thôi được rồi, tôi sẽ làm theo lời yêu cầu của cô. Nhưng trước nhất hãy để tôi tiêm thuốc cái đã đừng bướng bỉnh như vậy.
Cô gật nhẹ đầu mà không nói lời nào. Kéo ống tay áo lên, lộ làn da trắng nõn nà, tôi chăm chú chích mũi Penicilline mà không thấy má của cô thoáng đỏ vì hổ thẹn mà chỉ thấy cô nhăn nhó suýt soa vì đau, tôi bật cười:
– Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ có mũi kim bé tí tẹo mà cô nhăn nhó, rên rỉ như….
– Sao không đau, ông ăn nói… như khỉ chứ gì?
Cô cướp lời, tôi cười trừ, đỡ cô gái nằm xuống ngay ngắn trên mấy tầu lá chuối, rồi tôi đứng dậy cầm cây súng lên đạn .. rồi lấy trong ba-lô mấy hộp lương khô, bình nước đầy và cuộn băng cứu thương, tất cả đặt bên cạnh cô rồi nghiêm nghị nói:
– Đơn vị tôi sẽ di chuyển đi nơi khác bất cứ lúc nào để tìm các đồng chí của cô, nhưng những thứ nầy cần thiết cho cô, tôi hy vọng người của cô sẽ trở lại tìm và cứu sống đồng đội của mình.
Tôi lấy khăn nhúng nước lau mặt cho cô đoạn cẩn thận lấy mấy tàu lá dừa che kín lại.
– Này… Ông tên là gì vậy?
– Có quan trọng lắm không?
– Ít ra sống hay chết tôi còn biết tên người đã đối xử tốt với mình chứ.
– Vậy thì cô nói với Diêm Vương gã đó là Lam, Trần Hoài Lam, và cô xin với ổng cho tôi tai qua nạn khỏi trong chiến tranh này.
Tôi nghe tiếng cô cười nhỏ cùng tiếng nói thật nhẹ:
– Dạ, Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi.
Quyên, người con gái mà tôi gặp gỡ một lần, và chỉ một lần duy nhất trong cuộc đời kế từ đó. Bước chân người lính như tôi đã qua mọi đoạn đường đất nước, những trận đánh đẫm máu bằng cái chết của đôi bên lên rất cao. Vài lần bị thương nặng nhẹ nhưng tính mạng vẫn còn giử được, phải chăng Quyên hằng đêm cầu nguyện cho tôi được tai qua nạn khỏi như nàng đã hứa.
Đất nước thanh bình, tiếng súng lặng im, nhưng những người được gọi là sĩ quan QLVNCH như tôi và bạn bè khác không được thở hít không khí hòa bình ấy, sau bao năm trăn trở với chiến tranh, tất cả đi vào trại “cải tạo”, một danh từ mỹ miều nhưng thực chất là đầy đọa, là giết lần mòn chúng tôi. Tôi bất lực nhìn bạn bè ngã xuống, đói, bệnh hoạn, đày đọa, khủng bố, đánh đập!
Thân xác anh em chúng tôi bị vùi dập ở nơi núi rừng hiu quạnh, ở hốc núi đen tối ngàn trùng. Tôi lặng lẽ sống như cái bóng tinh thần vững vàng, nhưng thể xác thì suy sụp nặng nề, bám víu ý nghĩ duy nhất “Trả nợ oan gia binh nghiệp”. Phải, sinh ra người lính thì chấp nhận mọi gian nguy may rủi về mình.
Ngày hôm ấy, trại Bù Gia Mập, nơi tôi đang “lao động là vinh quang” có cơn bão rừng rất lớn, mọi người được phép nghỉ tại lán. Anh Đan, khối trưởng nhận thư từ quản giáo phân phát cho anh em. Là một kẻ không thân nhân, không họ hàng, tôi lảng đi nơi khác cho đỡ tủi thân.
– Trần Hoài Lam có thư.
Cả phòng xôn xao ngạc nhiên vì ai cũng biết tôi là thằng “mồ côi”, là “con bà Phước”, danh từ ám chỉ những kẻ không có ai thăm viếng lẫn thư từ. Rất ngạc nhiên tôi nghĩ thầm trong bụng có lẽ trùng tên với một người nào đó nên im lặng.
– Trần Hòai Lam có thư.
Người khối trưởng lập lại với vẻ khó chịu.
Tôi dè dặt bước tới trong trạng thái hoang mang.
– Có thật là của tôi không anh Đan?
– Tên anh rành rành trên phong bì làm sao sai được, thôi nhận đi cho tôi còn làm việc, nếu có sai thì cho tôi biết.
Cầm lá thư tôi lật qua lật lại, xem kỹ có phải đúng tên mình không. Hoàn toàn đúng nhưng tuồng chữ lạ hoắc và cái tên cũng chưa bao nghe qua, nhưng một điều chắc chắn người viết là phái nữ, nét chữ mềm mại thẳng đứng nhưng rõ ràng. Trần Hoài Quyên, thật là lạ, trùng họ, trùng chữ lót, chỉ khác tên. Tôi tứ cố vô thân làm gì có họ hàng. Tôi đọc:
“Anh Lam!
Có lẽ anh ngạc nhiên lúc nhận thư của Quyên, người con gái xa lạ gởi đến cho mình, nhưng khi em nói câu này chắc chắn anh hình dung Quyên là ai:
“Đi lính bị thương, bị bắn không đau, chỉ mủi kim bé tí teo này mà nhăn nhó rên rỉ như…”.
Đọc mấy dòng chữ trên, tôi lặng người rất lâu, bàng hoàng và xúc động hơn bao giờ hết khi nhớ lại trong trận đánh ấy, một nữ VC khuôn mặt bê bết sình đất, tóc tai rũ rượi gối đầu trên ba lô nhỏ, ánh mắt thất thần khi tôi đến gần rồi nhẹ nhàng lấy khăn lau cho cô, khuôn mặt thiên thần trong sáng hiện ra. Cô viết tiếp:
– Đúng như anh nói, đêm hôm ấy đồng đội đã mang em ra khỏi nơi mù mịt khói lửa và chữa trị ở bệnh viện Trung Ương, sau khi rời khỏi bệnh viện, em xin về đơn vị ngành để họat động, không còn muốn tham gia vào nơi lửa đạn nữa. Từng là chiến sĩ xuất sắc trong khu, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, vậy mà thoái lui về hậu phương, kỳ lạ quá phải không anh Lam? Chính anh đã làm thay đổi lập trường của em. Những người đối đầu không hẳn đều tàn ác, bằng chứng là anh. Anh đối xử thật tốt, thật nhân đạo với kẻ thù, dù rằng thuộc hạ của anh nói đúng, không biết bao người đã ngã xuống vì những viên đạn của kẻ địch, mà có thể trong đó có cả em bắn ra.
Hòa Bình tái lập em không vui vì còn hận thù, vay nợ máu phải trả, phương châm của bạn bè, cấp lãnh đạo đề ra. Em rất buồn vì biết anh đang đi vào ngõ cụt, không lối thoát, con đường đi đến cái chết. Như đã nói, từ sau ngày bị thương, em ra khỏi cuộc chơi, không muốn dính líu đến thù hận nữa, bàng quan trước mọi việc, nhưng không thể nào quên anh, em đã cậy cục, tìm kiếm tin tức của anh qua các trại học tập. Trời không phụ lòng người, rốt cục em cũng tìm ra anh. Anh Lam! Còn nhớ những gì em đã nói trước khi anh từ giã ra đi không?
“Quyên đêm nào cũng sẽ cầu nguyện cho ông Lam tai qua nạn khỏi”.
Em đã cầu nguyện như vậy mỗi đêm để ơn trên ban mọi điều lành đến cho anh tai qua nạn khỏi đúng như lời đã hứa. Em đang thu xếp công việc để đến thăm anh kỳ tới. Mong được găp lại anh. Hy vọng đừng làm mặt lạ với Quyên”.
Từ đó tôi không còn là người cô độc nữa, Quyên thăm đều đặn, lần nào cũng khóc, giọt nước mắt long lanh trên má làm tôi xúc động muốn khóc theo. Ân tình của em làm sao tôi báo đáp cho nổi! Thôi thì chỉ còn cách là…
Trên đất tị nạn, Quyên bây giờ là mẹ của bầy con 3 đứa kháu khỉnh, xinh đẹp. Em chu toàn nhiệm vụ của người vợ hiền, người mẹ nhân ái. Sống ở xứ người văn minh tân tiến nhưng Quyên vẫn là của tôi dạo nào, vẫn áo bà ba và sợi thung buộc trên tóc. Những đêm con cái ngon giấc, em qua nằm kế bên tôi thủ thỉ trò chuyện tâm sự:
– Quyên à, em thương anh từ lúc nào.
– Kỳ cục, ai mà nhớ, hỏi bậy bạ không à”. Em mắc cở phụng phịu.
– Vậy thì thôi anh không hỏi nữa. Tôi làm bộ giận dỗi quay mặt đi nơi khác. Cô lật đật nắm lấy tay tôi năn nỉ:
– Thôi đừng giận nữa, em nói, nhưng cấm không được cười à nha…
Quyên bắt tôi thề thốt đủ mọi điều rồi mới nói:
– Em yêu từ lúc anh kéo tay áo lên để tiêm thuốc. Mắc cở muốn chết, đã vậy còn ghẹo người ta này nọ. Anh biết không, cái khăn màu tím ngày đó anh lau mặt cho em, em giữ mãi trong người, đi đâu cũng xếp lại bỏ vào túi áo, lâu lâu mở ra xem sợ rớt mất.
Cảm động tôi hôn lên trán vợ, không ngờ cô yêu thương tôi đến như vậy.
– Anh biết không, có một hôm em giặt xong phơi ở hàng rào gió thổi mất tiêu.
Trời đất, em khóc mấy ngày trời, bỏ ăn, bỏ ngủ, đi tìm nó. Không hiểu sao nó lại về với em, đứa bạn nhặt được mang trả lại. Nó nói cái khăn này bay tới tận khu ủy, cách đó gần 5 cây số. Em tin rằng anh luôn luôn bên cạnh để giúp em vượt qua nguy hiểm. Hôm bị thương nếu gặp người khác có lẽ cuộc đời của em không biết ra sao. Có lẽ bị chết không chừng.
Quyên ngủ say bên vai tôi, tiếng thở nhẹ nhàng êm ái. Một điều huyền diệu khó tin nhưng thật sự là vậy. Phải chăng duyên số đưa đẩy để tôi gặp em trong hoàn cảnh đó. Đúng như Quyên nói, nếu gặp người khác em có thể bị bắn chết hoặc chết vì vết thương. Hôn lên trán vợ, tôi thì thầm:
– Duyên nợ trời định em ạ.
Bên vai tôi, Quyên ngủ ngon lành khuôn mặt thiên thần không gợn chút bụi trần.
Tác giả?

hoài vọng
07-26-2017, 04:47 PM
Anh NgocHan , giữa chiến trận ...đôi lúc người ta thấy ...lòng từ bi bất ngờ ( người ta chứ không phải tôi ) Sau này, tôi có đọc Đ/Úy Út Bạch Lan cũng kể chuyện tha hai cô tù binh ...khi đến Hoa Kỳ , ông ấy có gặp lại .

Ngoc Han
07-27-2017, 11:54 AM
Anh Hoài
Lính miền Nam lãng mạng và đầy tình người:z57:

hoài vọng
07-27-2017, 05:22 PM
Lãng mạng thì ...không , nhưng ...thương người thì nhiều... vì khi nhận lệnh ra Huế những hình ảnh thơ mộng trong sách vở cứ đầy tràn trong đầu khi qua cầu Trường Tiền ...nó cũng chẳng đẹp hơn cầu Tân Thuận...bạn bè chỉ trỏ núi Ngự ...một ngọn đồi trơ trụi không cây cỏ , hoa lá ( hay là tụi nó lầm lẫn ...mong thế ! Nếu không thì mấy O Huế lại...liếc một cái ...sắc như
lưỡi lam !)

Ngoc Han
07-27-2017, 11:09 PM
Anh làm tui nhớ hùi xưa có ông Thầy tới Đà Lạt thăm danh lam thắng cảnh, khi tới hồ Than Thở, ông nói nhìn hồ xong thở dài rồi trở gót "phiêu linh ":)
Anh đừng noái mấy O Huệ với nón lá tình thơ, mấy O ghen còn hơn ớt hiểm trong nồi cá ngừ kho (bún cá ngừ) đuôi mắt bén như dao chẻ trái tim mấy anh si tình làm tư:z51:

thuykhanh
08-04-2017, 02:58 PM
Cuộc Vượt Thoát Kỳ Diệu






https://www.saigonecho.com/images/2017/LichSuVN/vnch_linhnhaydu.jpg


Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù QLVNCH


Hồi Ký từ Mặt Trận Khánh Dương. Đèo M’s Drak – Cuối Tháng 3/1975

Lời giới thiệu Của NT Trung Tá Bùi Quyền, TĐT TĐ5ND:

Bác sĩ Liêm là Y sĩ trưởng cuối cùng của TĐ5ND khi tôi là TĐT. Trong trận Khánh Dương, khi theo lệnh BCH/ LĐ3ND triệt thoái về sau tuyến II, tức phía sau khu vực TĐ6ND.
Tôi quyết định cho TĐ đoạn chiến và triệt thoái vào ban đêm. Khi ĐĐ54 dẫn đầu cánh quân B chạm địch, BS Liêm lại đi cùng cánh quân này vì còn chuyện trò tâm sự với Đại úy Huỳnh Quang Chiêu, ở gần nhà BS Liêm và là SQ được tôi chỉ định kèm cho Trung úy Vũ, tân ĐĐT/ ĐĐ54. Tr.Úy Vũ hy sinh và Đ.Úy Chiêu cùng BS Liêm mất tích. Khi về đến Sài Gòn tôi đến nhà 3 SQ này để phân ưu. Không ngờ khoảng 1 tuần sau, Quân cảnh Vũng Tàu liên lạc với TĐ để xin xác nhận có 2 SQ tên Chiêu và Liêm theo thuyền dân cập bến Vũng Tàu và nhất là họ mang theo chiến lợi phẩm là súng AK-47 của VC. Sau khi xác nhận, ngày sau 2 vị này về Sài Gòn. Tôi rất vui song lúc đó BS Liêm chỉ kể qua loa chuyện vượt thoát của ông. Hôm nay được đọc bài BS Liêm viết chi tiết về cuộc vượt thoát này, tôi rất vui và xin giới thiệu với bạn đọc câu chuyện vượt thoát hy hữu của 1 y sĩ quân y nhẩy dù.


Đã 42 năm qua, tôi những tưởng câu chuyện vượt thoát y như phim ảnh nầy đã chìm vào dĩ vãng. Nào ngờ các bạn Mũ Đỏ gần xa yêu cầu tôi nên ghi lại để được tỏ tường Nhảy Dù là Cố Gắng. Tôi cố gắng nhớ lại để không phụ lòng anh em mong đợi.

Ngày 1 (28/3/1975): Trời chiều của Tháng 3 thật là nóng bức. TĐ5 ND đóng trên sườn đồi gần đèo M’Drak. Đó là khúc đường trên Quốc Lộ 21 dài khoảng 20 Km. Đầu đèo cách Ban Ma Thuột (hay Ban Mê Thuột) 96 Km. Đoạn đường đầu đèo dài 4 Km nằm giữa hai dãy núi khácao, vách núi dựng đứng. Núi Chu Kroa cao 958 m về phía Bắc. Các triền núi nhỏ hơn màđỉnh cao nhất là 609 m về phía Nam. Các bạn cũng biết, Quốc Lộ 21 nằm giữa Quận Khánh Dương và Quận Ninh Hòa. Từ trên đồi cao, tôi nhìn qua Quốc Lộ 21 là Buôn Làng M’Mo của người ÊĐê với chừng năm ba mái nhà sàn xưa cũ. Tiểu Đoàn có nhiệm vụ ngăn chặn địch từ Ban Mê Thuột kéo về Nha Trang. Tôi nhìn thấy nhiều Thiết Vận Xa M113 án ngữ trước Buôn M’Mo, gần cây cầu xi măng trên Quốc Lộ 21.

Tất cả đều ở tư thế sẳn sàng chiến đấu. Pháo địch bắt đầu rơi, băng qua ngọn đồi rồi rớt ầm đâu đó dưới chân đồi. Tiểu Đoàn vô sự. Đêm xuống dần, Trung Tá Bùi Quyền, TĐT TĐ5 ND tiên liệu địch sẽ trèo lên đồi theo chiến thuật tiền pháo hậu xung nên ra lệnh cho mọi người đều phải sẳn sàng. Trời tối đen như mực, dưới đồi có tiếng chân người đạp lá rừng nghe xào xạc, có vẻ như rất đông người đang bò lên đồi. Lệnh triệt thoái, đi hàng một, im lặng, súng cầm tay, đạn lên nòng; cả tiểu đoàn di chuyễn theo nhau về hướng Đông Nam. Lúc đó là 7 giờ tối. Tôi đi theo theo Tr. Tá Quyền, cố gắng đi gần ông. Phải cố gắng lắm vì trời tối quá, đường đồi nhiều cỏ tranh và khó bước vì trơn trợt. Cũng may có Đại Úy Chương lâu lâu gọi khẻ “Bác Sĩ đâu rồi”.

Khoảng 10 giờ đêm thì Tiểu Đoàn dừng lại trên một ngọn đồi thấp. Pháo địch từ chân đồi phóng lên, nhìn rất đẹp y như mấy trái hỏa châu, hướng về TĐ 5 và nổ loạn xạ. Phân tán nhanh. Phân tán nhanh. Mọi người phóng nhanh về điểm hẹn để trực thăng xuống bốc. Tôi lạc đàn từ phút ấy!!!

Ngày 2 (29/3/1975): Nhiều tiếng hét đồng loạt “hàng sống chống chết” vang lên hung bạo và đầy hận thù từ dưới đồi dần dần to hơn, rõ hơn. Miệng tôi đắng lạ thường, tay chân tôi luống cuống, mắt tôi may còn kính cận thị chưa bị rớt. Tôi chui lẹ vào đám rể cỏ tranh rậm rạp mọc cao hơn đầu người, sau khi còn đủ trí khôn lăn long lóc xuống chân ngọn đồi nhỏ. Lúc này, địch dàn hàng ngang, cầm AK có lưởi lê nhọn gắn đầu súng, vừa đi vừa xâm xoi tìm lính Dù để đâm cho chết hoặc bắt làm tù binh. Trong số đó không có tôi.

Tôi bình an vô sự. Lục soát đã ngưng, địch rút lui trong yên lặng. Suốt đêm đó tôi nằm yên, lạnh và ướt dưới đám cỏ tranh. Trổi dậy khi trời vừa sáng, tôi nghe có tiếng gọi của ai đó, nằm rất gần. Té ra là Minh, y tá Dù của tôi. Thầy trò mừng quá, ôm nhau và tôi lại có một túi cứu thương khá đầy đủ thuốc men do Minh trao lại “Em giao lại cho Bác Sĩ”. Hai thầy trò cứ nhắm hướng Đông màđi vì nghĩ đó là hướng biển, hy vọng gặp lại những người cùng cảnh ngộ với mình. Băng rừng mà đi, bụng đói, miệng khát. Nhưng hai thầy trò may mắn gặp được Thiếu Úy H. và Trung Sĩ Q. cùng 3 lính Dù của TĐ5.

Riêng Th. Úy H. còn bản đồ hành quân và địa bàn, và mọi người vẫn còn súng M16 và lựu đạn. Ngày nghỉ, đêm đi, cả đoàn 7 người đều còn sức khỏe. Chúng tôi đạp nước theo dòng suối mà đi để địch không tìm ra dấu giày. Dọc đường dây điện thoại màu đen lẫn với lá rừng, nằm chơ vơ khi ẩn khi lộ thiên, đi không khéo đụng chạm, địch sẽ biết. Chúng còn khắc chữ K lên thân cây để chỉ hướng tiến quân về Nha Trang (dấu I và dấu < nhập lại thành chữ K, dấu < mủi nhọn là hướng tiến của địch) Nhờ có thuốc lọc nước Iodine mà chúng tôi uống nước dơ ngon lành. Lại có rau tàu bay và mấy con cua kẻ đá, chúng tôi ăn sống cho khỏi chết vì đói. Nhưng tôi bị kiết lỵ, dài dài cho đến ngày về đến Sài Gòn. Bình thường lính Dù ai cũng khỏe mạnh nên túi cứu thương không có thuốc trị kiết lỵ!

Ngày 3 (30/3/1975): Đêm nay cả 7 người tiếp tục băng rừng, đi đầu là Th.Úy H. kếđó là tôi, sau tôi là y tá Minh, rồi đến A Chãy (Chãy có nghĩa là Trai) và 2 lính Dù, Tr. Sĩ Q. đi đoạn hậu. Chúng tôi yên lặng đi cách nhau 2 sảy tay, vậy mà đôi lúc người không nhìn thấy bóng bạn phía trước. Tôi nhiều lần kêu khẻ “Th.Úy chậm bước chút xíu”. Cây rừng đan dày đặc, có cây to gốc 3 người ôm mới giáp vòng. Trong đêm tối có cây màu đen, có cây màu trắng do vỏ cây có lân tinh chiếu sáng. Tôi đưa tay vịn một sợi dây mây, ai ngờ “rột một cái” dây đó rút lẹ lên trên cành cây to, đó là một con rắn lớn thòng xuống rình mồi. Thật hú hồn! Đoàn người cả đêm đi không ngừng vì ngó lại hướng đóng quân cũ thấy ánh lửa sáng rực xa xa, chắc là địch đang đốt cháy tại nơi chúng vừa chiếm đóng. Th. Úy H. nói “mình phải đi thật nhanh hơn nữa”.

Ngày 4 (31/3/1975): Gần sáng, cả đoàn mệt và chân đã mỏi nhừ, tìm được một chổẩn núp khá an toàn là dưới một thân cây thật to bị đốn ngã nằm ngang do dân làm rừng để lại. Bố trí an toàn xong, cả đoàn nghỉ, nằm với lá cây phủ đầy người mà không dám thở mạnh. Đó đây, nhiều tiếng vượn hú “Húhu u u…Chóc chóc chóc” chúng gọi nhau trên các cây chà là rừng to cao để báo động có người. Lại còn có tiếng chim gì kêu nghe lạtai “cọc cọc cọc” y nhưđiệp khúc, nghe cũng ơn ớn. Những con vắt, đỉa và sâu đo, mấy ngày qua hút máu ở kẻ ngón chân và trong nách được chúng tôi “giải phóng” với cái bụng no nê đầy máu sau khi chúng tôi cởi giày ra và giủ áo mới thấy chúng còn bám chặc trong nách và các kẻ ngón chân. Miệng tôi đã khô đến nỗi không còn đủ nước bọt mà quyện với cỏ để dùng tay rứt chúng ra!

Ngày 5 (1/4/1975): Đã xa vùng hỏa tuyến, chúng tôi thử đi ban ngày và ngủ vào ban đêm, nhưng vẫn cảnh giác đề phòng địch. Đang đi, bất chợt Th.Úy H. ra dấu dừng lại. Phía trước mặt, chỗ mấy cây cổ thụ to, có một đám lá rừng chất đống bất thường, một bầy ruồi nhăng bay lên với mùi hôi thối của xác chết!!! Địch đã giết chết nhiều lính Dù và lính Bộ Binh, tháo giày vì các xác đều chân trần, rồi phủ lá rừng che lại. Chúng tôi đứng nghiêm chào kính và ngậm ngùi chào tiễn biệt các anh hùng tử sĩ đã vị quốc vong thân. Mong các anh thông cảm cho chúng tôi phải vượt thoát lẹ, cầu mong các anh phù hộ cho chúng tôi về được đến nhà. Bước đi rồi, tôi mới thấy mặt mình sao ướt ướt! Có thể vì tôi vẫn còn nhớ khi học “Chinh Phụ Ngâm Khúc” của Đặng Trần Côn :

“Hồn tử sĩ gió ào ào thổi. Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi. Chinh phu tử sĩ mấy người. Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn!”

Trên đường đi, chúng tôi còn gặp các tử sĩ dụm năm dụm ba, phủ lá đầy ruồi nhặng và đã phân hũy, do địch giết hại. Đếm được 4 chổ như vậy, chúng tôi nghĩ là còn nhiều nữa trong cánh rừng Khánh Dương này.

Ngày 6 (2/4/1975): Vẫn di chuyển hàng một với Th. Úy H. đi đầu và Tr. Sĩ Q. đoạn hậu. Ngày đi đêm nghỉ, chúng tôi đang đi vào vùng đất Cọp Khánh Hoà Ma Bình Thuận. Nhiều dấu chân Cọp được chúng tôi nhìn thấy gần các bụi tre gai rừng màu vàng sẩm. Đang đi cả đoàn phải ngồi thụp xuống, ô kìa, phía trước mặt, một bầy nai lông xám, chừng 8 con đang cúi đầu xuống uống nước hố bom, có một con nai đực có gạc to đứng canh chừng. Đừng bắn, đừng bắn, địch nghe tiếng súng M16 sẽ bao vây và chúng ta khó thoát. Cả đoàn nghe lời tôi, mặc dù ai cũng đói vì đã đi 5 ngày rồi. Đàn nai đánh hơi, thấy động, thoáng một cái đã biến nhanh vào rừng. Chúng tôi lấy bi đông ra lấy nước, sau khi bụm tay lấy nước rửa mặt và uống thật no. Tôi cảm thấy cũng không xong vì đói lâu ngày chỉ nên uống vài ngụm. Tiếp tục đi, độ nửa giờ sau, chúng tôi gặp một cái chòi che đậy bằng cành cây lá rừng.

Chắc là địch di chuyển nhanh về Nha Trang nên bỏ trống. Dưới nền đất đào sâu đủ cho 3 người núp, chúng tôi gom được nhiều lương khô, là các bánh cơm và các thẻ đường vàng bọc ngoài giấy in đầy chữ tàu. Bây giờ, đoàn gặp phải một cái hào nước không sâu nhưng chạy dài về hướng Đông. Thôi đành phải lội, nước ngập tới ngực, súng phải kê cao khỏi đầu, đoàn lội hàng dọc, vén lau sậy mà đi.

Vừa lên bờ, chúng tôi chạm trán 2 cán binh địch với 2 súng AK 47 chỉa thẳng vào và bắt tất cả chúng tôi buông súng. Gần đó có một ngôi chùa, chúng tôi bị 2 tên cán binh này dẫn độ về đó. Đến nơi chúng bắt chúng tôi ngồi chung một chổ ngoài hiên chùa. Chúng gom hết súng và lựu đạn của chúng tôi để một chỗ xa hơn trong chùa, xong cả 2 đứa bình tĩnh đi chiên cá chờ đơn vị bộ đội của chúng sắp về ăn cơm chiều. Chúng gác 2 cây súng AK gần bên chảo dầu đang sôi sùng sục thơm nức mùi cá chiên chừng 5 con vừa bắt ở dưới hào.

– Hành động ngay. Hành động ngay. Th.Úy H. và Tr. Sĩ Q. bàn chuyện cướp súng và hạ 2 tên này. Kế hoạch được thi hành ngaytrong chớp nhoáng, 2 tên ngã quỵ vì đòn hội đồng với que củi tạ. Chúng tôi gom hết cá chiên vào 2 nón cối, quơ luôn 2 súng AK, dép râu cùng dây nịt bằng da nâu. Toàn là chiến lợi phẩm rất hữu dụng sau này trên đuờng vượt thoát gian nan. Thật nhanh và thật gọn, 7 người chúng tôi chạy nhanh ra khỏi chùa để tránh địch trở về biết được và truy lùng.

Trời đã về chiều, ống cống thông thủy gần quốc lộ hiện ra cứu chúng tôi. Cả đoàn chui ngay vào và chạy thật lẹ trong đường cống có đường kính cao hơn đầu người. Đường tối om om, chân tôi đạp nước cống bì bõm, mồ hôi nhể nhại, người nóng, tim đập thình thịch. Ra khỏi đoạn đường ống cống là khoảng đất trồng bắp của dân quê vắng ngắt, chúng tôi dừng lại, xúm nhau bốc cá chiên còn nóng và ăn vội vàng. Thật tuyệt vời làm sao! Đói quá nên tôi chưa kịp nhai đã nuốt, may mà không bị hóc xương cá, hay là đã nuốt luôn xương cá nhỏ rồi chăng?! A. Chãy còn đi vào rẩy bẻ trộm bắp non được vài trái, xong cả đoàn chạy bang vào lùm cây trước mặt, thì trời đã tối hẳn, bỏ lại sau lưng tiếng la của dân làng và tiếng chó sủa truy đuổi. Lại một đêm ngủ trong rừng lá thấp, chúng tôi lấy Iodine bỏ vào bi đông nước để lắng chết mấy con đỉa nhỏ, uống ngon lành, chia phiên gác xong, tôi ngủ thiếp đi.

Ngày 7 (3/4/1975): Khi mặt trời đã lên cao, chúng tôi tiếp tục đi về hướng Đông do địa bàn chỉ hướng. Khi qua một bụi tre cao có hai con chim nhỏ như chim cu, cứ bay trên đầu chúng tôi, một con kêu “te te”, con kia kêu “hoạch hoạch”, ai nuôi hay chim rừng? Chúng tôi sợ bị lộ nên cứ chạy thật nhanh để rút vào rừng cây trước mặt. Đến nơi, vừa lăng xuống đất nằm để thở, tôi nhớ lại chuyện Tấm Cám mà mỉm cười một mình “Te Te hoành hoạch, giặt áo chồng tao, phải giặt cho sạch, đừng phơi hàng rào, rách áo chồng tao” Đường đi bây giờ là con đường quanh co và xuống dốc, không còn những cây to và gai rừng cản trở nữa, nhưng vượt qua những khoảng trống thật không phải dễ.

Để tránh địch thấy và bao vây bắt trọn, chúng tôi ngụy trang, người cắm đầy cành lá cây rừng địa phương. Bảy bụi cây người di chuyễn chậm qua các khoảng trống. Đến chân một gò cao, ô kìa có cây cam rừng nặng chĩu trái chín xanh xanh vàng vàng. Thế là chúng tôi xúm nhau rung gốc cây, thu được vài chục trái cam chín rụng xuống. Thôi rồi! nước cam đắng như nước trái khổ qua! Đàng kia có một cái mương nước đã khô nhưng kẻ đá chặn có nước nhỏ giọt, chúng tôi hứng được nửa bi đông.

Đến chiều chúng tôi lọt vào vòng đai của Trung Tâm Huấn Luyện Dục Mỹ (Nha Trang). Tối hôm đó chúng tôi yên lặng nằm nghỉ bên mấy gò mả, nhưng lại thức giấc vì tiếng thở phì phò của vài con bò bị chủ chạy giặc bỏ lại. Tr.Sĩ Q. và ba lính Dù thịt con bò nhỏ, cắt một cái đùi bỏ vào ba lô và lấy lá gan còn nóng hổi chia cả đoàn cùng ăn sống cho đở đói. Gan bò sống, tanh, còn ấm, khó nuốt, nhưng đói quá, tôi cũng nuốt được. Bây gờ, bệnh kiết lỵ của tôi đã bớt nhiều, người gầy ốm và râu cũng mọc dài lưa thưa. Nhờ trời, hai chân tôi vẫn còn đi khỏe lắm.

Ngày 8 (4/4/1975): Trời gần sáng, chúng tôi chạy vội lên một ngọn đồi, lên cao, ngắm nhìn biển đã hiện ra về phía Đông. Xa xa có một hòn đảo nhỏ, bản đồ hành quân ghi là Hòn Bà Lớn. Mặc kệ là Bà Lớn hay Bà Nhỏ, bằng mọi cách cả đoàn phải bơi qua bên đó vì Nha Trang sắp mất hay đã mất. Qua hòn đó rồi coi có chiến hạm Hải Quân mình vớt hay không? Cả đêm nằm suy nghĩ liên miên, tôi khấn vái liên tục mỗi khi thấy một sao sa trên bầu trời đầy sao, rồi khấn nữa khi nhìn xuống quốc lộ xa xa, cả một đoàn xe Molotova chở đầy lính địch ngụy trang lá rừng tiến về hướng Nha Trang.

Ngày 9 (5/4/1975): Hừng sáng, cả đoàn chạy như điên xuống mé nước. Thật là kỳ diệu, nói ra không ai chịu tin, một chiếc ghe nhỏ cắm sào ở mé nước trong bờ lau sậy và rong biển. Tôi định gọi chủ ghe xin quá giang nhưng ghe vắng chủ. A. Chãy nhảy vào khoang ghe và kêu to “có cá kho. Có cá kho, Bác Sĩ ơi!” Thế là cả đoàn lại được một bửa tiệc Trời cho. Lập tức, 7 người chúng tôi leo lên ghe, nhưng A. Chãy xin ở lại về với bà Dì còn kẹt ở Nha Trang, nên cậu ta khóc từ giã, cởi hết quân phục bỏ lại, chỉ mặc áo thun quần đùi, đi chân không, chạy về phía cây số 4 trên quốc lộ hướng về Nha Trang.

Sáu người còn lại, chia nhau 2 tay chèo, 2 tay gở ván làm chèo phụ, còn 2 người thì dùng 2 nón cối tát nước trong ghe để ghe nhẹ đi nhanh. Chúng tôi hì hục, vội vã chèo ghe qua Hòn Bà Lớn. Nắng lên cao, sóng biển không to, nhưng gió thì mạnh và lạnh. Ghe lại bị lổ mọt, hở, nước biển tràn vô. Phải chèo gấp, nước vô ghe sẽ chìm giữa biển! Độ 30 phút sau, ghe cập bến cát và đá ngầm, chúng tôi ướt át hoàn toàn, đem chiến lợi phẩm vào gấp và núp trong một góc đá để nghe ngóng tình hình, chờ hết mệt mới tính tiếp. Đến 10 giờ sáng, cả đoàn họp lại bàn chuyện. Nếu không thoát khỏi đây, thì chắc 6 người sẽ là tù binh của địch.

Ngoài khơi, tuyệt không thấy bóng một chiếc tàu của Hải Quân Việt Nam mình. Mọi người buồn và suy nghĩ lung lắm. Tôi nghĩ không lẽ mình sẽ chết ở đây?! Ý nghĩ loé lên, đề nghị với Th.Úy H vàTr. Sĩ Q., tôi nói “Đã nằm trong lòng địch, tại sao mình không ăn mặc và nói năng giả làm địch, Th.Úy, Tr. Sĩ và tôi đội nón cối, mang AK và đi dép râu, còn 3 lính Dù thì trói lại, cởi giày làm như tù binh ngụy bị ta bắt được giải về Nam điều tra gì đó theo lệnh cấp chỉ huy. Tôi có cây súng lục nhỏ đi đầu làm chỉ huy, kế đó là Th. Úy, còn Tr. Sĩ cầm AK đi đoạn hậu canh 3 tù binh giả đi ở giữa. Tất cả quần áo Dù và giày, súng M16, nón sắt coi như chiến lợi phẩm, mình tọng vào cái bao tải lớn của bộ đội này rồi Tr. Sĩ mang đi sau chót. Phải đóng kịch cho thật khéo, lộ ra là chết cả đám”. Cả đoàn đồng ý làm theo kế hoạch của tôi, mọi sự phó cho Trời Phật giúp đở.

Hóa trang xong, cả đoàn theo thứ tự di chuyển về phía Nam trên Hòn Bà Lớn. Chúng tôi gặp một nhà sư tuổi chạc trung niên, mặc áo vàng, trong cái chòi nung than cây bán vào đất liền đang làm việc đốt than. Nhà sư thấy chúng tôi, đứng lên, từ tốn hỏi “quý vị có cần bần tăng giúp gì không?” Tôi trình bày là tiến quân vào Nam, bắt được 3 tên ngụy hết sức nguy hiểm, lệng Đảng chỉ thị dẫn độ chúng vào Nam, ở đây có phương tiện đường thủy gì không.

Sư bèn chỉ về cuối đảo này, có dân quân và dân làng chài có thể giúp đở cho các đồng chí. Chúng tôi cảm ơn nhà sư, và tiếp tục đi thong thả về phía cuối đảo mà trong lòng vô cùng căng thẳng, chưa biết lành dữ ra sao.

Lúc đó là 6 giờ chiều, trời nhá nhem tối. Đang đi, chúng tôi bị rất nhiều dân quân bao vây, chúng nổ AK đùng đùng chỉ thiên bắt chúng tôi dừng lại. Xong chúng tiến lại gần, tên chỉ huy trông có vẻ nhà quê, hắn hỏi, tôi trả lời y như khi gặp Sư làm than. Chúng tạm tin và dẫn chúng tôi về làng chài mà không hỏi giấy tờ gì cả. Độ 1 giờ sau, chúng thắp đèn dầu và mời tôi ngồi, rồi rót trà mời uống và nói chuyện. Đến 10 giờ đêm, tên chỉ huy cho mấy dân quân dẫn chúng tôi ra một chiếc ghe chài lớn, trên đó có vợ chồng chủ ghe và 1 em bé còn ẳm trong tay, còn có 1 cậu dân làng theo phụ. Đám dân quân chào tạm biệt chúng tôi y như chúng chào các đồng chí của chúng.

Ghe bắt đầu nhổ neo, chúng tôi thở phào thoát nạn. Máy ghe chạy tạch tạch thật mau, Nhưng Tr. Sĩ Q. vội la lên “Ê! chạy đi đâu? Tính chạy vào nội à?” Nhanh như chớp, Th.Úy H nhảy vào buồng lái, kê súng AK vào ngực chủ ghe bắt hắn lái về Nam theo hướng Sao Nam Tào đang loé sáng trên nền trời đêm. Cậu phụ ghe thấy mưu gian bị lộ, nhảy ùm xuống biển thoát thân Vợ chồng chủ ghe khai thật, là dân quân bắt họ lái ghe vào đất liền (nội) để giao cho bộ đội lập công. Bây giờ xin các ông tha cho, tụi tôi không dám về lại Hòn nữa, mà theo các ông về Nam, nhưng ghe sắp cạn dầu, không đủ dầu để về đến Vũng Tàu.

Sẳn ngụy trang là địch, chúng tôi phải liều một phen nữa. Th.Úy H. đứng đầu ghe, Tr. Sĩ Q. ghìm súng AK ở buồng lái canh chừng tên chủ ghe đang cầm tay lái. Ở phía ngược lại đi về hướng Nha Trang có một ghe chài lớn mang cờ đỏ sao vàng đang lướt tới, đầu ghe có một cán binh địch cầm AK. Th.Úy H. cho ghe chậm lại. Tr. Sĩ Q. hét tên chủ ghe hãm tốc. Ghe bên kia, chưa biết chuyện gì, cũng hãm tốc. Khi 2 ghe cập lại, Th. Úy H. xưng đồng chí, nhờ giúp dầu để về đến Vũng Tàu giao 3 tên ngụy nguy hiểm này theo lệnh đảng. Lập tức 4 thùng dầu được chuyển qua ghe chúng tôi. Nhờ vậy chúng tôi đi suốt đêm, hướng về Nam.

Ngày 10 (6/4/1975): Dọc đường biển, ghe chạy ngoài khơi, đất liền khó thấy. Nhưng Th. Úy H. canh địa bàn đúng hướng, im re không nói gì, tôi cũng yên bụng, nhưng lại ói vì say sóng. Uống thuốc vào thì bụng tôi lại yên. Ghe có ghé vào một đảo nhỏ để mua thêm dầu, chúng tôi kè sát vợ chồng chủ ghe vì sợ họ trốn mất. Cả đoàn bây giờ ăn mặc quân phục Dù lại như cũ. Chúng tôi cám ơn lẫn nhau cho màn đóng kịch gạt địch quá phiêu lưu mạo hiểm như thế này. Binh pháp Tôn Tữ chắc cũng có câu “phải đặt mình vào đường chết mới mong tìm ra lối sống”.

Ngày 11 (7/4/1975): Phải mất thêm một ngày ghe chúng tôi mới cập bến Bãi Trước (Bãi Tầm Dương) của Vũng Tàu. Sống thật rồi! Sống thật rồi! Cả đoàn hân hoan nhìn rất nhiều ghe chạy giặc đang bỏ neo, nhấp nhô lên xuống theo sóng biển vỗ vào bờ đá Bãi Trước. Lúc đó là 11 giờ đêm. 12 giờ đêm là giờ giới nghiêm. Sáu anh em chúng tôi từ giả và cám ơn vợ chồng chủ ghe, sau khi tôi tặng 1 số tiền vài ngàn gọi là đền ơn.

Chúng tôi phóng lẹ lên bờ, đi tìm một cái quán gần đó, gọi chủ quán nấu cho 1 nồi canh chua cá bông lau với chục trái ớt dầm nước mắm thật cay. Chủ quán chịu chơi còn mang ra 3 gói thuốc Salem và hộp quẹt. Chưa bao giờ anh em chúng tôi vui mừng ăn cơm canh chua và uống bia, hút thuốc đầy tinh thần Mũ Đỏ sống chết có nhau, tương thân tương ái đến như thế này. Giờ giới nghiêm đã tới. Chủ quán đóng cửa. Đường phố vắng tanh. Anh em chúng tôi lúc này vô gia cư nên đành nằm ngoài sân trước quán mà ngủ.

Ngày 12 (8/4/1975): Trời đã hừng đông, người qua lại thật tấp nập, lộn xộn, ngơ ngác. Loạn lạc có khác. Sáu anh em Nhảy Dù ra đón xe đò về SàiGòn. Mọi người nhìn chúng tôi với ánh mắt ngạc nhiên, chắc có một chút thán phục và thương hại vì Th. Úy H. luôn miệng nói “chúng tôi về từ mặt trận Khánh Dương và đây là Bác Sĩ Liêm, người về từ cõi chết”. Xe đò dừng lại, phụ xế mời anh em chúng tôi lên xe đang đông nghẹt khách, cho ngồi ghế “súp” vì xe hết chổ, không tính tiền vì nể lính Nhảy Dù.

Xe về đến Ngã Tư Hàng Xanh thì Quân Cảnh chận lại để xét. Chúng tôi ngồi yên. Quân Cảnh 204 (là Quân Cảnh của Sư Đoàn Nhảy Dù) lên xe và kêu “Ồ! Bác Sĩ Liêm còn sống à! Chào Bác Sĩ, cả Sư Đoàn đều nói Bác Sĩ đã chết. Mời BS và Th.Úy, Tr.Sĩ và 3 anh em đây lên xe Jeep về thẳng Bộ Tư Lệnh. Các nón cối, súng AK, dây nịt, dép râu của địch, tụi tôi xin phép mang về Bộ Tư Lệnh luôn”.

Tôi xin phép đi riêng về nhà để tắm rửa, cạo râu và mặc quân phục chỉnh tề, rồi tôi sẽ vào trình diện diện Thiếu Tướng Lê Quang Lưỡng và Trung Tá Bùi Quyền sau.

Vừa về đến nhà, chưa kịp hàn huyên với gia đình thì “Két” một cái, xe Jeep của Tiểu Đoàn 5 ND do đích thân Trung Tá Bùi Quyền lái, đến nhà đón tôi về hậu cứ củaTĐ là trại Ngô Xuân Soạn ở Tam Hiệp, Biên Hòa, mổ một con bò khao quân và mừng Bác Sĩ Liêm trở về bình an vô sự. Nhảy Dù Cố Gắng.

Tháng 3, 2017 Westminster, Nam Cali

Mũ Đỏ BS. Nguyễn Thanh Liêm,
Cựu Y Sĩ Trưởng/ Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù

hoài vọng
08-04-2017, 07:14 PM
Những lần theo sếp đi họp với TD5ND ...xe vừa đến là đã thấy Th/T Bùi Quyền miệng ngậm tẩu thuốc đang chờ đón ...sau này , người bạn ở Phương Lâm nói : Tiểu Đoàn Trưởng nào cũng có nhà riêng ở Sài Gòn , riêng Th/T Bùi Quyền vào sống trong hậu cứ Tiểu Đoàn .

Ngoc Han
08-10-2017, 05:35 AM
Thấy có nét giống , sorry

thuykhanh
08-10-2017, 09:37 AM
Ở đâu mà NH có vậy?
Không phải tk, đó là bcn.
Ngọc Hân xoá nó đi giùm, chị cảm ơn.

thuykhanh
08-21-2017, 03:14 PM
Lý Lẽ Của Trái Tim

Thứ Hai, 21 tháng Tám năm 2017 12:54
Tác Giả: Phạm Thành Châu


Người Việt đến xứ Mỹ, thế hệ đầu khá vất vả, tiếng Anh không rành lại lớn tuổi mà phải làm những việc chân tay, nên ai cũng cố gắng khoảng mươi năm, đủ điều kiện về hưu thì vừa lúc sức lực cạn kiệt. Nhưng bù vào đó, lũ con, thế hệ thứ hai, thấy cha mẹ vất vả, cố gắng học hành, nên đa số đều tốt nghiệp đại học, có công ăn việc làm vững vàng. Thời gian đầu, khi mới có việc làm, các con ở chung với cha mẹ, đến khi có đôi có bạn, chúng mua nhà ở riêng. Đứa con gái út của tôi mới hứa hôn với một bạn cùng sở mà đã đưa nhau đi tìm nhà mới để mua. Thời đó, khoảng cuối thập niên chín mươi, nước Mỹ lên cơn sốt mua bán nhà. Nhà lên giá vùn vụt. Nhà chưa xây mà đã có người đặt tiền cọc giành nhà trước. Con gái tôi xúi tôi bán nhà, về ở với vợ chồng nó. Tôi bán nhà, trả nợ ngân hàng (đã vay mua nhà), còn dư chút ít, chúng tôi để dành, thỉnh thoảng mua vé đi du lịch.

Hôm mới đến, vợ chồng tôi kinh ngạc khi thấy ngôi nhà quá lớn, quá sang trọng và cũng quá đắt tiền. Gần cả triệu bạc! Vậy mà con tôi bảo "Nếu trong thành phố, nhà nầy ít nhất cũng triệu rưỡi". Đó là một khu rừng hoang, đã được san bằng, mỗi cạnh hơn một cây số, chia thành những ô vuông vắn với những con đường khang trang, những ngôi nhà có vườn cỏ xanh, những luống hoa đủ màu sắc rực rỡ, thoang thoảng hương thơm. Thật chẳng khác gì chuyện thần tiên. Lọt thỏm trong khu rừng thâm u, hoang dã lại có những biệt thự tráng lệ, yên tĩnh, xa cách hẳn nơi phồn hoa, náo nhiệt.

Ngôi nhà quá rộng với năm, sáu phòng ngủ, rồi phòng khách, phòng ăn. phòng uống rượu, giải trí...Tôi không hiểu chúng mua nhà lớn như thế để làm gì? Chúng bảo sẽ được trừ thuế, hơn nữa nhà vùng đó sẽ lên giá. Không phải chỉ riêng con chúng tôi mua nhà mới mà hầu như bọn trẻ Việt Nam, khi lập gia đình đều mua nhà mới. Chúng cùng lứa tuổi, tốt nghiệp cùng trường đại học nên rủ nhau mua nhà gần nhau để tiện qua lại, tụ tập ăn uống, vui đùa.
Chúng tôi đến ở chung với vợ chồng đứa con gái cũng đỡ buồn. Vợ tôi lo việc nấu nướng, dọn dẹp, giặt sấy áo quần, tôi thì giết thì giờ trong việc chăm sóc các cây cảnh trước sân, tưới bón vườn rau sau nhà.

Ngay cạnh nhà chúng tôi là nhà bạn học với con gái tôi. Mỗi buổi sáng, khi tôi dậy sớm, uống trà xong, ra săm soi mấy cây hoa trước sân, thì tôi thấy một cậu thanh niên cũng dậy sớm đi làm, có lẽ vì chỗ làm xa. Chúng tôi chào hỏi nhau. "Chào bác! Bác dậy sớm săn sóc vườn hoa" "Vâng, chào cậu!"

Chúng tôi trao đổi bâng quơ năm ba phút về thời sự, thời tiết trong ngày rồi cậu ta lên xe đi làm.

Qua lời con gái tôi thì cậu ta là rể của gia đình đó. Hai vợ chồng cưới nhau được mấy tháng nay. Cả hai đều là bạn học, thân thiết nhau từ thời trung học. Cô vợ cậu ta giống như bất cứ cô gái Á Châu bình thường nào. Dáng nhỏ nhưng tròn lẳn, tóc dài, mặt trái xoan. Vợ tôi đưa ra nhận xét với con gái tôi.
"Mới cưới nhau được mấy tháng mà cái bụng cô ta đã lúp lúp. Con so mà bụng cỡ đó cũng phải trên sáu tháng. Chắc anh chị tò tí nhau trước, rồi hợp thức hóa sau"
"Con nghĩ. Hình như có điều gì bất thường giữa hai đứa. Hôm đám cưới, chú rể coi bộ hớn hở, vui vẻ nhưng cô dâu thì lại trầm ngâm, buồn buồn, không thấy cười. Chắc cô dâu miễn cưỡng lấy chồng vì lỡ có bầu. Cách đây một năm, con nhỏ (cô dâu) có cho bạn bè biết là anh chàng có tỏ tình và xin cưới, nhưng cô ta không chịu, bảo rằng không có tình yêu mà thành vợ chồng thì không thể chịu đựng nhau suốt đời được. Vậy mà thình lình lại làm đám cưới với anh ta."

Nghe hai mẹ con trò truyện, tôi nói bâng quơ "Có những quyển sách hai người viết chung, có những bản nhạc, người thì viết nhạc, người thì viết lời."

Vợ tôi cự "Ông thì lúc nào cũng nói tầm bậy, tầm bạ được!"
Con gái tôi cười "Con thấy con nhỏ nầy rất đàng hoàng. Ngoài những bạn bè thân thiết từ lúc còn trung học đến nay, nó không giao du, cớt nhả với ai cả. Theo con biết thì hai đứa nó cũng thân mật nhau lắm, hai đứa làm hai nơi xa nhau mà ngày nào cũng gọi nhau đi ăn lunch (ăn trong giờ nghỉ trưa ở sở làm), như thế thì chỉ có anh chàng là tác giả đứa bé sắp chào đời. Nếu không, ai chịu dại 'Người ta ăn ốc mình đổ vỏ'. Nhưng có điều lạ là trước đó, anh chàng xin cưới thì bị cự tuyệt, sau, thình lình lại làm lễ cưới chỉ trong vòng một tháng. Một lần, trước đây, con thấy có một anh chàng lạ hoắc đến thăm gia đình cô ta. Anh ta, có lẽ từ nơi khác đến, trông mặt mũi cô hồn, lấc cấc lắm. Không ai tin rằng anh chàng đó, chỉ mới quen biết mà dụ dỗ được cô nầy. Cô ta đã lớn rồi, cũng đủ khôn ngoan mà tự giữ mình."

Tôi thấy anh hàng xóm (chồng cô ta) cao ráo, mặt mũi sáng sủa, thông minh, rất vui vẻ, nhã nhặn với mọi người. Có những buổi đi làm về, anh ta qua thăm tôi. Tôi mời vào một phòng nhỏ, dành riêng cho tôi đọc sách, uống trà, để được thoải mái chuyện trò. Có lẽ nhờ đọc nhiều và nhờ biết tiếng Anh nên chuyện đông tây kim cổ, tin tức, thời sự, anh ta biết khá rành. Tôi không hỏi về chuyện vợ con của anh ta, chỉ ngạc nhiên là trong các ngày nghỉ, không thấy anh ta ở nhà. Anh ta giải thích "Mấy ngày đó cháu phải về nhà ba mẹ cháu. Mấy anh chị em cháu đều ở riêng."
"Thế cũng phải, vợ chồng anh nên về thăm kẻo ông bà cụ buồn."
"Vợ cháu ít khi đi đâu"

Tôi không có bạn để trò chuyện, anh ta thì lại thích qua đàm đạo chuyện trên trời dưới đất nên chỉ mấy tháng sau, từ bạn vong niên, chúng tôi thành bạn tâm giao. Phòng uống trà của tôi toàn bằng kính nhưng đóng cửa lại thì người đứng ngoài khó nghe rõ, thế nên đôi khi tôi kể chuyện bù khú của tôi thời còn trai trẻ để cười với nhau. Những lúc đó anh ta thường hỏi tôi về những ý nghĩ, quan niệm sống và cách giải quyết nếu câu chuyện xoay qua hướng khác.

Cái bụng bầu của cô hàng xóm ngày càng lồ lộ. Thỉnh thoảng cô ta qua trò chuyện với con gái tôi, xin ý kiến vợ tôi trong việc chuẩn bị cho đứa bé chào đời. Coi bộ cô ta yêu thương, lo lắng cho đứa bé nhiều lắm. Tuy không nói ra nhưng rõ ràng là cô sắp đến ngày sinh.

Một buổi sáng, sau khi uống chén trà, tôi tiễn anh chồng cô ta ra xe đi làm thì anh ta nói "Cháu sắp qua tiểu bang khác làm việc. Công ty bên đó đã nhận cháu rồi" "Khi nào anh đi? Đi cả gia đình hả?"
"Cháu chỉ đi một mình thôi"
"Vợ anh sắp đến ngày sinh...
Đó là điều cháu còn phân vân. Cháu chưa cho ai biết chuyện nầy ngoài bác, để xin ý kiến bác trước khi quyết định."
Tôi nghĩ đây là chuyện riêng nên tôi bảo "Sáng thứ bảy nầy, anh rảnh thì ra tiệm cà phê nói chuyện, hi vọng tôi có giúp được chút ý kiến nào không?"

Sáng đó chúng tôi ra tiệm Starbucks, mua ly cà phê, ra ngồi ngoài hiên, nhìn thiên hạ qua lại. Phần nhiều khách là người Mỹ, ngồi với tờ báo trên tay. Sau khi vơ vẩn mấy câu, tôi hỏi.
"Anh định khi nào đi nhận việc"
"Khoảng tháng sau. Công ty cho cháu biết, đến lúc nào nhận việc lúc đó"
"Vợ con tính sao?"
"Cũng vì chuyện vợ con mà cháu chưa dứt khoát"
"Hình như bà xã anh sắp sinh. Anh có thể hoãn đi nhận việc cho đến khi vợ sinh xong"
"Cháu không muốn nhìn thấy đứa bé khi nó chào đời. Bác nghĩ sao nếu đó không phải vợ cháu, con cháu?"
Tôi kinh ngạc "Sao kỳ lạ vậy? Hay là anh nghi vợ anh ngoại tình nên giận vợ bỏ đi?"
"Nếu cô ta là vợ cháu thì mới nói là ngoại tình, nhưng quả thật cô ta không hề là vợ cháu."
"Nghe nói anh có cưới hỏi cô ta đàng hoàng mà?"
"Có lẽ cháu phải kể hết từ đầu, bác mới giúp ý kiến cho cháu được. Cháu và cô ta là bạn học. Chúng cháu rất thân nhau, người ngoài tưởng là hai kẻ yêu nhau, nhưng sự thực chỉ có cháu yêu cô ta thôi. Cháu có ngỏ ý nhưng cô ta từ chối tình yêu của cháu, bảo rằng chỉ xem là bạn. Khi bị từ chối, cháu không buồn, vẫn nuôi hi vọng và chờ đợi, vì cháu biết cháu là người bạn thân nhất của cô ta. Chúng cháu vẫn thường rủ nhau đi xem phim, đi ăn trưa, cùng đến nhà bạn bè trong các dịp cưới hỏi, sinh nhật. Cho đến một lần, như mọi khi, cô ta gọi cháu đi ăn lunch (ăn trưa), nhưng khi đến nơi thì thấy cô ta đang đứng chuyện trò với một anh chàng nào đó. Cô ta xin lỗi vì phải đi công chuyện với anh ta. Cháu biết đó là cách cô ta không muốn cháu làm phiền cô ta nữa. Từ đó cháu không liên lạc với cô ta.

Gần bốn tháng sau, đột nhiên, một buổi sáng thứ bảy, cô ta gọi cháu, hẹn gặp ở một công viên. Khi cháu đến thì thấy cô ta đứng chờ sẵn với vẻ bồn chồn. Người cô gầy sộp, hai mắt sưng húp, có lẽ vì khóc nhiều. Buổi sáng trong công viên vắng vẻ, chúng cháu ngồi xuống một ghế đá, nhìn ra hồ nước rộng mênh mông, sương sớm khiến bờ bên kia mờ mờ một hàng cây xanh thẩm. Cháu vẫn yên lặng lắng nghe mấy con quạ gọi nhau trong rừng cây và chờ đợi.

Cô ta như đang suy nghĩ để lựa lời. Và cô nói. "Chắc anh biết chuyện Nga (tên cô ta) với anh con trai mà anh đã gặp một lần? Bây giờ anh ta đã bỏ Nga rồi"
"Có lẽ anh ta từ nơi khác đến? Trông rất lạ"
"Công ty trung ương phái anh ta đến chi nhánh Nga công tác trong mấy tháng"
"Nga yêu anh ta?"
Cô yên lặng một lúc. "Anh ta hứa sẽ cưới Nga và Nga tin vào lời hứa đó?"
Cô gật đầu. Cháu quay nhìn cô ta và hỏi "Rồi anh ta đi thẳng, không quay lại?" Cô vẫn yên lặng.
Cháu an ủi. "Nga cứ xem như mình mua lầm đồ giả hoặc đã gặp một tai nạn. Nếu Nga cố quên thì tất cả sẽ thành dĩ vãng"
Cô cúi mặt, thở dài "Nga cần anh giúp Nga một việc"
"Anh giúp Nga việc gì? Nếu có thể, anh sẽ cố hết sức mình"
Cô quay lại, nhìn thẳng vào mắt cháu. "Anh cưới Nga được không?"
Cháu kinh ngạc. "Cưới Nga? Vì sao? Nga từng bảo anh. Chỉ có tình yêu mới chịu đựng nhau suốt đời trong cảnh vợ chồng. Anh không tin rằng Nga yêu anh. Nga nên suy nghĩ kỹ. Khi thất vọng mình thường làm những chuyện khờ dại. Ở xứ Mỹ nầy, yêu nhau, thậm chí cưới nhau rồi bỏ nhau là chuyện thường. Không ai dị nghị về chuyện tan vỡ của Nga đâu. Cưới hỏi, phiền phức lắm"
"Mọi chuyện để Nga lo. Chỉ cưới giả vờ, như đóng kịch vậy thôi. Nga cần anh giúp, không phải cho Nga"
"Nga cần cho ai mà bắt anh phải đóng kịch, giả vờ cưới Nga?"
Cô nắm chặt tay cháu như sợ cháu đứng lên, bỏ đi "Con Nga. Nó cần một người cha. Nga có bầu hơn hai tháng rồi"
Hai tai cháu nóng bừng, tim đập thình thịch. Cháu phải bấu chặt mép ghế để tự kềm chế
"Trách nhiệm là ở anh chàng kia. Anh đâu có liên hệ gì trong đó. Nga báo cho anh ta biết, nếu không, cứ kiện ra tòa. Tối thiểu anh ta phải cấp dưỡng cho đứa bé" "Khi Nga báo cho anh ta biết là Nga có bầu, tuần sau anh ta lặng lẽ về công ty chính, không nói với Nga một lời"
"Có bầu vài ba tháng thì phá thai dễ dàng. Để anh đưa Nga đi bác sĩ. Anh làm như chồng Nga, đồng ý phá thai"
"Nga muốn giữ đứa bé"
"Nga yêu anh ta đến độ đó sao?"
Cô không trả lời mà nói tiếp:
"Nga không sợ người ta dị nghị, chỉ lo đứa bé sau này khi lớn lên sẽ biết mình không cha, mà nói sự thật thì nó sẽ đau khổ vì có cha là một người vô trách nhiệm, một tên lừa đảo, thiếu tư cách."
Cháu muốn quát vào mặt cô ta nhưng kềm chế được, chỉ lầm bầm "Biết là tên lừa đảo mà vẫn muốn giữ cái thai lại? Nếu anh ta cũng có yêu Nga thì cũng nên làm chuyện đó. Đây thì ngược lại"
Cô lớn tiếng "Làm sao Nga giải thích được với anh? Nga đã lý luận với chính mình mấy tháng nay rồi...Nhưng con Nga có tội tình gì?!"
Rồi cô ôm mặt khóc nức nở "Anh ta vừa gửi cho Nga cái thiệp cưới. Anh ta cưới vợ"
Tim cháu thắt lại. Nước mắt cháu tuôn trào. Cháu xoay người lại ôm chặt cô vào lòng, cháu khóc với cô "Nga thương yêu của anh. Có anh đây! Đừng buồn nữa. Anh sẽ cưới Nga. Sẽ làm bất cứ điều gì mà Nga cần" Giọng cô đẫm nước mắt "Nga chỉ có anh..."

Tuần sau, chúng cháu gặp nhau. Cháu đồng ý sẽ làm đám cưới, đứa bé sinh ra sẽ đứng tên cháu là cha nó. Nhưng để tránh rắc rối về sau, cô ta phải viết cho cháu một bản tự sự, kể hết mọi chuyện. Từ khi cô ta gặp anh chàng sở khanh đó cho đến khi đề nghị cháu làm đám cưới, để tên cháu là cha đứa bé. Cháu có hứa sau nầy, dù có ở đâu, thỉnh thoảng cũng sẽ ghé thăm đứa bé như cha thăm con. Chỉ một điều kiện duy nhất, cưới về, hai đứa sẽ ngủ riêng. Cô ta đồng ý ngay.

Tôi cười hỏi "Thế hai người có thật sự ngủ riêng không?"
"Mỗi đứa một phòng. Phòng cháu đặt một giường nhỏ, có computer và sách báo, giống như phòng làm việc. Hai đứa ở trên lầu, không ai trong gia đình nghi ngờ điều gì cả."
"Thế trong việc đối xử nhau hàng ngày thì sao? Phải đóng kịch à?"
"Chúng cháu vẫn giúp đỡ nhau, chuyện trò như một cặp vợ chồng bình thường."
"Tôi thấy hai người đã đóng kịch được mấy tháng rồi, sao anh không cố thêm mấy tháng nữa cho cô ta sinh xong hãy đi? Có chuyện gì xảy ra chăng?"
"Cách đây nửa tháng, nửa khuya, cháu trở mình thì thấy cô nằm ngủ bên cháu. Cháu làm như không biết, vẫn ngủ say. Chuyện xảy ra liên tiếp ba đêm, sau đó thì chấm dứt"
"Anh nghĩ sao về chuyện đó? Có phải cô ta cảm động vì nghĩa cử của anh? Hay cô đã hết thương yêu anh chàng kia rồi?"
"Cháu nghĩ đó như là cách trả công, đền ơn chứ không thể vì tình cảm. Suốt mấy tháng ở chung, cháu thấy tâm thần cô ta vẫn chưa ổn định, lòng cô ta vẫn chưa nguôi ngoai, nhưng cháu thì đã nguội hẳn rồi"
"Tôi không tin như vậy. Có thể vì hành động đó của cô ta mà sự hờn giận trong anh lại bùng lên, khống chế, che lấp hết tình anh yêu cô ta. Nhưng sau đó, đâu lại vào đấy thôi. Khi anh thông cảm được với cô ta tất anh sẽ hiểu mình muốn gì."
"Cháu thấy mình không dứt khoát, nên cháu mới hỏi ý kiến bác. Một điều nầy nữa, hôm qua, cháu nói với cô ta, dự định sẽ qua tiểu bang khác. Cô không nói gì, nhưng tối đó, khi cháu đi nằm thì cô lại qua phòng cháu ngồi lặng lẽ khóc. Nhìn cái bụng bầu của cô, cháu nghĩ đến đứa bé."
"Tôi biết, như vậy là anh đã quyết định rồi, nhưng tôi cũng nói thêm. Người đàn bà sợ nhất là khi sinh mà không có chồng bên cạnh. Dù bao nhiêu người thân chung quanh, nhưng không có chồng, cô ta vẫn thấy bơ vơ, lo lắng. Càng bị lạnh lùng, thậm chí càng bị chửi mắng, cô ta càng biết rõ tình cảm của anh. Cô ta tin rằng, anh là người tín cẩn nhất, thương yêu nhất của cô ta. Anh còn hơn một người chồng nữa."

Và anh ta không đi tiểu bang khác.

Gần hai năm, chúng tôi vẫn gặp nhau, uống trà, trò chuyện. Không ai nhắc đến chuyện cũ. Đứa bé trai sinh ra đã biết đi và nói chuyện, ngọng nghịu rất dễ thương. Người cha (hờ) và đứa con, chiều chiều, ra bãi cỏ đùa nghịch, đuổi bắt nhau, bò lê, bò càng trên sân. Anh ta thường đặt thằng bé trên vai, đi nhong nhong, miệng phì phì như xe lửa chạy, thằng bé cười ngặt nghẽo. Đôi khi hai cha con qua nhà chúng tôi chơi đùa. Vợ tôi và con gái tôi rất thích cháu, thường nựng nịu, hôn hít, chọc ghẹo.
Họ hỏi cháu "Con tên chi? Mẹ tên chi? Ba tên chi?" Khi nó trả lời, họ cười rộ lên "A! Thằng nầy xạo quá!"

Thế rồi, một buổi sáng, trong khi uống trà, anh ta nói với tôi "Lần nầy cháu dứt khoát đi tiểu bang khác. Bấy lâu nay cháu nấn ná vì thằng bé dễ thương quá. Nhưng cháu cần một gia đình. Làm chồng hờ hoài cũng chán."
Tôi cười "Vậy chứ đứa em của nó thì sao?"
Anh ta ngạc nhiên nhưng rồi hiểu ngay "Không có chuyện đó đâu bác. Không là không. Bạn tình của cháu thiếu khối gì."
"Hôm nào đi? Báo cho cô ta biết chưa?"
"Cháu chờ khi cô ta đi làm là xách va li lên đường ngay"
"Đi là quyền của anh, sao phải lén lút như vậy?"
Anh ta bối rối "Cháu sợ cô ta khóc. Cô ấy khóc là cháu tối tăm mặt mũi. Không phải cháu đa cảm, hay dễ mủi lòng mà vì cháu không muốn cô ấy buồn. Thấy nước mắt cô ấy tuôn trào là lòng cháu nát tan. Lúc đó, cô ấy bảo gì cháu cũng làm cả!"
"Vậy chứ khi anh ở tiểu bang khác, cô ta khóc trong điện thoại với anh thì sao?"
"Cháu không biết. Cháu không gọi cô ta là xong."

Có vẻ không xong.

Tôi bảo anh ta "Tôi biết chắc, chính anh sẽ gọi cho cô ta trước. Chỉ cần nghe cô ta khóc là anh xách gói về với cô ta ngay. Đàn ông với nhau, tôi đã trải qua, tôi hiểu anh. Dù có đi đâu, anh cũng sẽ trở về với cô ta. Dù có chuyện gì xảy ra cho cô ta, anh cũng sẽ mãi mãi bên cạnh cô ta. Anh nên bao dung, tha thứ. Đừng giận dai. Thời gian đi xa sẽ giúp anh hiểu được cô ta và chiêm nghiệm về mình. Khi quay về, anh nên coi như mình đã cưới một cô gái xa lạ nào đó làm vợ. Anh không nhớ, không biết gì về một quãng đời mà chính cô ta cũng muốn quên."

thuykhanh
11-24-2017, 06:44 PM
"Tiếng đàn piano nửa đêm"




Một chuyện có thật rất cảm động.....

Một ngày anh hẹn chị ra quán cà phê trước nhà ga chính của thành phố Bremen. Câu đầu tiên khi gặp anh, chị nói trong sự cáu gắt :

- Ông lại bán xe rồi hay sao mà đi tàu lên đây ?

Anh cúi đầu trả lời lí nhí trong sự hổ thẹn :

- Ừ thì bán rồi, vì cũng không có nhu cầu lắm !

Chị sầm mặt xuống :

- Ông lúc nào cũng vậy, suốt đời không ngóc lên đầu lên được, hẹn tôi ra đây có chuyện gì vậy ? Khó khăn lắm anh mới có thể nói với chị điều mà anh muốn nhờ chị. Chị cũng khó khăn lắm mới có thể trả lời từ chối anh :

- Nhưng mà gia đình tôi đang yên lành, nếu đưa con bé về e sẽ chẳng còn được bình yên nữa !

Anh năn nỉ, nhưng thật sự là anh rất bối rối :

- Con bé đã đến tuổi dậy thì, anh là đàn ông, không thể gần gũi và dạy dỗ chu đáo cho nó được, anh chưa bao giờ cầu xin em điều gì, chỉ lần này thôi, chỉ nửa năm hay vài ba tháng cũng được, em là phụ nữ em gần nó, em hướng dẫn và khuyên bảo nó trong một thời gian để nó tập làm quen với cuộc sống của một thiếu nữ, sau đó anh lại đón nó về.

Chị thở dài :

-Ông lúc nào cũng mang xui xẻo cho tôi, thôi được rồi, ông về đi, để tôi về bàn lại với chồng tôi đã, có gì tôi sẽ gọi điện thông báo cho ông sau.

Anh nhìn chị với ánh mắt đầy hàm ơn. Anh đứng dậy, đầu cúi xuống như có lỗi tiễn chị ra xe rồi thở dài, lùi lũi bước vào nhà ga đáp tàu trở lại Hamburg.

Anh và chị trước kia là vợ chồng. Họ yêu nhau từ hồi còn học phổ thông. Anh đi lao động xuất khẩu ở Đông Đức. Chị theo học Đại học Sư phạm Hà Nội 1. Ngày bức tường Berlin sụp đổ, anh chạy sang phía Tây Đức. Chị tốt nghiệp đại học và về làm giáo viên cấp 3 huyện Thái Thụy, Thái Bình. Họ vẫn liên lạc và chờ đợi nhau.

Khi đã có giấy tờ cư trú hợp lệ, anh về làm đám cưới với chị, rồi làm thủ tục đón chị sang Đức.

Vừa sang Đức, thấy bạn bè anh ai cũng thành đạt, đa số ai cũng có nhà hàng, hay cửa tiệm buôn bán, chỉ có anh là vẫn còn đi làm phụ bếp thuê cho người ta. Chị trách anh vô dụng. Anh không nói gì, chỉ hơi buồn vì chị không hiểu, để có đủ tiền bạc và điều kiện lo thủ tục cho chị sang được đây, anh đã vất vả tiết kiệm mấy năm trời mới được.

Nên không dám mạo hiểm ra làm ăn

“Đồ cù lần, đồ đàn ông vô dụng…”, đó là câu nói của miệng chị dành cho anh, sau khi anh và chị có bé Hương.

Bé Hương sinh thiếu tháng, phải nuôi lồng kính đến hơn nữa năm mới được về nhà.
Khi bác sĩ thông báo cho vợ chồng anh biết bé Hương bị thiểu năng bẩm sinh.

Giông tố bắt đầu thực sự nổi lên từ đó. Chị trách anh, đến một đứa con cũng không làm cho ra hồn, thì hỏi làm được gì chứ. Anh ngậm đắng nuốt cay nhận lỗi về mình và dồn hết tình thương cho đứa con gái xấu số.

Bé Hương được 3 tuổi, chị muốn ly dị với anh. Chị nói, ông buông tha cho tôi, sống với ông đời tôi coi như tàn.
Anh đồng ý, vì anh biết chị nói đúng. Anh là người chậm chạp, không có chủ kiến và không có chí tiến thân, sống an phận thủ thường. Nếu cứ ràng buộc sẽ làm khổ chị.

Bé Hương 3 tuổi mà chưa biết nói. Chị cũng rất thương con, nhưng vì bận bịu làm ăn nên việc chăm sóc con bé hầu hết là do
anh làm. Vì vậy mà con bé quấn quít bố hơn mẹ. Biết vậy nên chị cũng rất yên tâm và nhẹ nhõm nhường quyền nuôi dưỡng
con bé cho anh khi làm thủ tục ly hôn.

Ly dị được gần 1 năm thì chị tái giá.. Chị sinh thêm một đứa con trai với người chồng mới.Thành phố Bremen là thành phố nhỏ.

Người Việt ở đó hầu như đều biết nhau. Chị cảm thấy khó chịu khi thỉnh thoảng bắt gặp cha con anh đi mua sắm trên phố. Chị gặp anh và nói với anh điều đó. Anh biết ý chị nên chuyển về Hamburg sinh sống.

Chị không phải là người vô tâm, nên thỉnh thoảng vẫn gửi tiền nuôi dưỡng con cho anh. Trong những dịp năm mới hay Noel, chị cũng có quà riêng cho con bé, nhiều năm, nếu có thời gian, chị còn đến trực tiếp tặng quà cho con bé trước ngày lễ giáng sinh nữa.

Thấm thoát đó mà giờ đây con bé đã sắp trở thành một thiếu nữ.. Tuy chị không biết cụ thể thế nào. Nhưng chị biết dù con bé lớn lên trong tật nguyền hẩm hiu, nhưng anh rất thương nó. Chị cũng biết con bé gặp vấn đề trong giao tiếp, phải đi học trường khuyết tật. Nhưng con bé rất ngoan. Anh cũng không phải vất vả vì nó nhiều. Nó bị bệnh thiểu năng, trí tuệ hạn chế, phát âm khó khăn. Tuy vậy nó vẫn biết tự chăm sóc mình trong sinh hoạt cá nhân. Thậm chí nó còn biết giúp anh một số công việc lặt vặt trong nhà.

Chồng chị đã đồng ý cho chị đón con bé về tạm sống với chị vài tháng, với điều kiện trong thời gian con bé về sống chung với vợ chồng chị, anh không được ghé thăm. Chị cũng muốn thế, vì chị cảm thấy hổ thẹn khi phải tiếp xúc với vẻ mặt đần đần dài dại của anh.

Vợ chồng chị đã mua nhà. Nhà rộng, nên con bé được ở riêng một phòng. Chị đã xin cho con bé theo học tạm thời ở một trường khuyết tật ở gần nhà. Con bé tự đi đến trường và tự về được.

Đi học về, nó cứ thui thủi một mình trong phòng. Đứa em trai cùng mẹ của nó, mẹ nó, và bố dượng nó rất ít khi quan tâm đến nó. Niềm vui duy nhất của nó là chờ điện thoại của bố. Nó phát âm không chuẩn và nói rất khó khăn, nên hầu như nó chỉ nghe bố nói chuyện. Bố dặn dò nó rất nhiều và thỉnh thoảng còn hát cho nó nghe.


Em trai nó học thêm Piano, nên nhà mẹ nó có cái đàn Piano rất đẹp để ở phòng khách.

Có lần nó sờ và bấm bấm vài nốt. Mẹ mắng nó không được phá đàn của em. Nên từ đó nó không dám đụng đến nữa. Có hôm anh gọi điện thoại cho nó, nó nghèn nghẹn nói lỏm bỏm,.. đàn..đàn…klavia….con muốn… Anh thở dài và hát cho nó nghe.

Tháng đầu, hầu như ngày nào anh cũng gọi điện thoại cho nó. Rồi thưa dần, thưa dần.

Cho đến một ngày anh không gọi cho nó nữa. Sau một tuần đăng đẳng không nghe anh gọi điện thoại. Con bé bỏ ăn và nằm bẹp ở nhà không đi học. Chị không biết gì cứ mắng nó dở chứng.

Một đêm, chị bỗng bật choàng dậy khi nghe tiếng đàn Piano vang lên. Chị chạy ra phòng khách, thấy con bé đang ngồi đánh đàn say sưa. Nó vừa đánh vừa hát thì thầm trong miệng. Chị cứ há hốc mồm ra kinh ngạc.

Chị không thể tưởng tượng nổi là con bé chơi Piano điêu luyện như vậy. Chị chợt nhớ ra, đã có lần anh nói với chị, con bé ở trường khuyết tật có học đàn Piano, cô giáo khen con bé có năng khiếu. Lần đó chị tưởng anh kể chuyện lấy lòng chị nên chị không quan tâm.

Chị đến gần sau lưng nó, và lặng lẽ ngắm nhìn nó đánh đàn. Chị cúi xuống và lắng nghe con bé hát thầm thì cái gì.

Chị sởn cả da gà, khi chị nghe con bé hát rõ ràng từng tiếng một, mà lại là hát bằng tiếng Việt hẳn hoi:

“…Nhớ những năm xa xưa ngày cha đã già với bao sầu lo…sống với cha êm như làn mây trắng…nhớ đến năm xưa còn bé, đêm đêm về cha hôn chúng con….với tháng năm nhanh tựa gió...ôi cha già đi cha biết không…”

Chị vòng tay ra trước cổ nó và nhẹ níu, ôm nó vào lòng. Lần đầu tiên chị ôm nó âu yếm như vậy. Chị thấy tay mình âm ấm. Nó ngừng đàn đưa tay lên ôm riết tay mẹ vào lòng ngực. Nó khóc. Chị xoay vai nó lại, nhìn vào khuôn mặt đầm đìa nước mắt của nó. Nó chìa cho chị một tờ giấy giấy khổ A4 đã gần như nhàu nát.

Chị cầm tờ giấy và chăm chú đọc, rồi thở hắt ra nhìn nó hỏi, con biết bố con bị ung thư lâu chưa. Nó chìa bốn ngón tay ra trước mặt mẹ. Chị hỏi, bốn tháng rồi hả. Nó gật đầu.

Chị nhìn chăm chăm vào tờ giấy, và từ từ ngồi thụp xuống nền nhà, rũ rượi thở dài.

Con bé hốt hoảng đến bên mẹ, ôm mẹ vào lòng, vuốt mặt mẹ, rồi vừa ấp úng nói vừa ra hiệu cho mẹ.
Đại ý là nó diễn đạt rằng:

-” Bố lên ở trên Thiên Đường rồi, mẹ yên tâm, con đã xin vào nội trú ở trường dưới Hamburg, ngày mai con sẽ về dưới đó, con không ở lại đây lâu để làm phiền mẹ và em đâu, con về ở tạm đây là vì bố muốn thế, bố muốn mình ra được nhẹ nhàng và yên tâm là có mẹ ở bên con..”

Chị cũng ôm nó vào lòng, vỗ vỗ vào vai nó và nói, con gái ngoan của mẹ, ngày mai mẹ sẽ đưa con về Hamburg….



NGUYỄN ĐẠI HOÀNG

chieclavotinh
08-26-2018, 02:30 AM
ĐI TÌM CỎ NON
Phong Trần Quán - Quán chủ: TRẦN PHONG

Phong Trần Quán một buổi chiều chập choạng vào thu, khách hiếm hoi như lá mùa thu. Nữ chủ nhân Thanh Tao đang “buồn tình” thì một toán khách chừng dăm bẩy “cụ” do nhà báo Bá Láp hướng dẫn, bước vào. Thanh Tao như người buồn ngủ gặp chiếu manh, vội vã sửa lại xiêm y ra tận cửa đón “quý cụ”.

- Chào các cụ ạ. Gớm hôm nay ngọn gió nào đưa các cụ đến đây mà cứ thơm phưng phức như nước hoa Cha-nen nơm-bờ phai ấy.

Bá Láp vội ghé tai nữ chủ quán thì thầm:

- Này xưng hô với các cụ bằng anh nhé, không có các cụ bảo chị “hỗn” đấy.

Thanh Tao lè lưỡi, rồi đổi giọng “cải cách” liền:

- Thưa các ông anh dùng gì để em lấy order ạ?

Một “anh” chừng ngoài lục tuần vui vẻ:

- Em cho 8 chai Heineken đã, rồi các anh giai sẽ hậu tính nhé.

Rượu vào lời ra, chuyện nổ như pháo Tết.

Bá Láp vỗ vai một khứa lão ăn mặc kiểu cách như một chàng “Vui Vẻ” (Gay):

- Nghe nói bố sắp cưỡi hạc về quê kiếm một cô vợ “tươi mát” phải không?

- Ừ, mà cậu tính tớ lấy một em chừng bao nhiêu tuổi thì êm?

- Nhưng năm nay bố mấy bó rồi?

Ông “anh già chưa nên nết”, cười mỉm chi, ngâm nga:

- Ngũ thập niên tiền nhị thập tam.

Bá Láp cười xỏ lá:

- Một em sáu bó được không bố.

Ông “Thất Thập Tam” nổi giận Tarzan liền:

- Anh đúng là thằng bá láp. Nếu lấy một bà lão thì tớ thà ở vậy, chết xuông còn sướng hơn. Anh có biết cái “minh triết” của tuổi già là “trâu già ăn cỏ non” không mà đưa ra một dề nghị “chậm tiến” như vậy.

- Nhà cháu đồng ý nhưng tốn tiền tốn công đưa em sang đây, em ở với bố nhiều lắm là ba bẩy hai mươi mốt ngày là em bái bai bố để lấy chồng trẻ đấy bố ạ. Đau lắm. Lúc đó con chỉ sợ bố lại phải ngâm câu: “Thân già da cóc có đau không.”

- Cậu nhà báo này nhà quê bỏ mẹ đi ấy. “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối. Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.”

Cụ “Tiên Lãng” (sở dĩ cụ có cái tên này là do tật thích hút thuốc lào, mà thuốc lào Tiên Lãng ngon nổi tiếng ở miền Bắc) thấy “đồng chí” (về khoản thích ăn cỏ non) cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm nên nhẩy vào cuộc chiến liền:

- Lời tiền bối đúng vô cùng. Đấy lão Nam Phát trên 7 bó rồi mà về Việt Nam còn bê được một em mới 35 cái xuân xanh mà còn “gin” nữa đấy.

Bá Láp cười đểu:

- Nhưng bố có biết rằng cô vợ trẻ mới sang được có một tuần là lão Nam Phát ngã ngựa liền hay không?

Cụ Tiên Lãng vẫn không nao núng lập trường (“ăn cỏ non”), cười sảng khoái:

- Chết như thế mới đã chứ. Thượng mã phong là cách đi oai phong lẫm liệt của con nhà tướng đấy. Xin Thượng Đế hãy cho tôi chết thượng mã phong đi.

Bá Láp ôm bụng cười ha hả, rồi ghé tận mặt cụ Tiên Lãng trêu chọc:

- Nhờ bố một tí. Lão Nam Phát còn hơi sức đâu leo lên được mình ngựa mà đòi thượng mã phong. Lão chết vì bị nhồi máu cơ tim đấy bố ạ.

Mấy cụ còn lại trong hội “Trâu già tìm cỏ non” không còn biết tin ai nữa, ngọn lửa (tình già) phải mất mấy trăm thang thuốc bổ mới khơi dậy được nay bị Bá Láp thổi một làn gió lạnh vào, gần như tàn rụi, nên buồn ra mặt. Một cụ, mắt nhìn sâu vào chai la-de đã cạn, cất tiếng ngâm khẽ:

“Em ơi lửa tắt bình khô ruợu,
Đời vắng em rồi vui với ai”

thuykhanh
10-17-2018, 08:50 AM
Đi Vào Tiểu Thuyết




https://4.bp.blogspot.com/-sNX4YxLkTgs/W8YhUTe07OI/AAAAAAAAvUk/KmdlCAKfNVcqfeamK35rf7KQPASNYRYzwCLcBGAs/s640/Paris-lonely.jpg (https://4.bp.blogspot.com/-sNX4YxLkTgs/W8YhUTe07OI/AAAAAAAAvUk/KmdlCAKfNVcqfeamK35rf7KQPASNYRYzwCLcBGAs/s1600/Paris-lonely.jpg)




Vũ Hạ

(Đặc san Lâm Viên)




Tôi vẫn thường trông thấy anh trên tuyến đường xe điện mỗi ngày từ sở về. Người đàn ông trung niên, không có gì đặc biệt.

Anh hay vận bộ âu phục màu xám sậm với sơ mi trắng và cà vạt lụa – giống như hầu hết những người đàn ông khác trên xe về giờ nầy, giờ rời sở của người làm các việc văn phòng, chỉ khác là vóc dáng thanh thanh nhỏ nhắn của người Á Đông giữa Paris nầy cùng với sự cách biệt của riêng anh. Anh không nói chuyện với ai, chỉ ngồi yên đọc sách báo; thỉnh thoảng rút cái điện thoại bỏ túi ra bấm bấm rồi lại nhét vào, gương mặt không tỏ cảm xúc gì, bình thản. Cũng có hôm anh tựa đầu vào thành xe ngủ gà ngủ gật, cái đầu tóc đen, cắt ngắn chốc chốc gục xuống rồi ngẩng phắt dậy, mắt hé mở rồi lại nhắm nghiền sau kính cận. Cái cặp da nâu đặt trên đùi nằm hờ dưới hai tay của ngày dài làm việc mệt nhọc. Chiếc xe điện giần giật lao đến phía trước. Tôi, anh cũng như những hành khách khác lắc lư theo nhịp di chuyển. Cứ thế, rồi cứ thế…

Lần đầu trông thấy anh gần hơn là lần tôi chạy hụt hơi để bắt cho kịp chuyến xe đang phát còi chuyển bánh. Chân cuồng nhịp, tôi vươn tay về phía trước níu hai cánh cửa đang từ từ khép; bỗng chúng khựng lại cho tôi đặt một, rồi hai chân lên xe với lực kéo ấm áp nơi bắp tay. Tôi gom sức thở. Bộ ngực phầm phập trồi sụt để giữ con tim nhảy lửa không thoát ra ngoài. "May quá!", giọng nói trầm ấm reo lên, nhỏ thôi, vừa đủ nghe. Tôi ngước lên. Anh đang đứng cạnh tôi, tay giữ cửa, nụ cười nhẹ đậu trên môi. Dữ không! Đó cũng là lần đầu tiên tôi nghe anh nói, thấy anh cười.

Hôm ấy, chuyến xe đông nghịt người nên không còn chỗ ngồi, anh và tôi đứng giữa đám đông ồn ào náo nhiệt, đối diện nhau, và gần lắm. Sau mỗi trạm dừng lại thêm người lên. Khoảng cách giữa anh và tôi càng lúc càng nhỏ đi, hẹp hơn; mặt tôi như muốn tựa vào ngực anh rồi. Trong cái không gian ngột ngạt tôi ngửi loáng thoáng mùi nước hoa và chất đàn ông trầm trầm của anh… Chúng tôi trao đổi với nhau vài câu, ngắt quãng, rụt rè… Giọng anh ấm lạ.

Những lần sau anh và tôi gặp nhau, theo thời gian cũng thân mật hơn, nói cười nhiều hơn và tôi cũng được quan sát anh kĩ hơn: người đàn ông trung niên, không có gì đặc biệt, tóc mai đã vài sợi trắng… Anh nói chuyện khéo – Gợi chuyện khéo thì đúng hơn. Tôi được dịp kể lể đủ mọi thứ chuyện trên đời… Trong sở, cả ngày nói tiếng Pháp nên những chiều được huyên thuyên bằng tiếng mẹ đẻ với anh thì còn thích nào bằng. Thế nên chiều nào không gặp anh, tôi và trống vắng tan vào nhau… Cảm giác lạ lùng, ngỡ chỉ trong tiểu thuyết…

Thế rồi, tôi yêu anh khi nao không biết. Bóng dáng anh, âm thanh của anh lớn dần trong tôi; hơi thở anh tràn ngập hồn tôi. Tôi đã bắt gặp ánh mắt anh, khẽ thôi, nhìn tôi âu yếm, rồi lẩn tránh. Anh hơn tôi những mười sáu tuổi. Có hề gì. Mỗi sáng, trước khi rời nhà, tôi dừng lâu hơn bên bàn trang điểm, tôi tần ngần, đắn đo, phân vân với cách phục sức, với màu sắc, với hoa văn, với thế nào thì duyên dáng… Tôi cảm thấy tóc tôi mượt hơn, môi hồng hơn, mắt long lanh… Tôi yêu anh, và tôi yêu tôi hơn. Ngỡ chỉ trong tiểu thuyết!

Cũng trong một toa xe điện đông người, một hôm anh và tôi đứng “lạc lõng” giữa đám hành khách… Sao mà tôi thích cái chen chúc ấy. Sao mà tôi yêu cái chật chội nầy. Tôi áp vào ngực anh chắc chắn mà nghe nhịp tim của anh, của tôi… Mỉm cười, tôi ngước lên. Với vẻ trầm tỉnh cố hữu, anh đuổi mắt ra xa. Hơi ấm của anh tỏa ra ôm chầm lấy tôi. Đôi chân trần trong cái váy ngắn xinh xắn như nhũn ra, không còn hơi sức, tôi muốn anh hôn tôi lúc nầy, ngay bây giờ. Tôi nghĩ anh cũng biết chúng ta đã yêu nhau!

Đã có lần anh kể tôi nghe chuyện vợ con. Hình như anh yêu người phụ nữ ấy lắm. Và hình như… Mặc, tôi chỉ biết tôi yêu anh và muốn anh là của tôi, của riêng tôi. Ý tưởng chiếm đoạt manh nha trong cái đầu nhỏ nhắn, diễm lệ của tôi. Như mọi khi, tôi biết tôi đẹp, rất đẹp; hấp lực nầy cho tôi thêm tự tin. Tôi tìm đủ cách để anh thôi không nghĩ đến mái ấm kia và đừng nghĩ đến ai khác; mà chỉ nghĩ đến ngay lúc nầy đây có tôi nói cười. Tôi mong chuyến hành trình dài hơn, sâu thẳm hơn, dẫu có đưa chúng tôi vào chốn rực lửa của hỏa ngục, của đam mê, của khát vọng và của tối tăm. Mặc, tôi chỉ cần anh bên cạnh tôi, với tôi. Tình yêu nầy ngỡ chỉ trong tiểu thuyết!

Anh nói điều gì đó, tôi không rõ, chỉ nghe hơi thở anh run rẩy, khắc khoải… Chiếc xe điện bất chợt chao nghiêng theo độ cong ngã rẽ, cả đám người nghiêng ngả theo. Ngay khi đó vòng tay mãnh liệt của anh ôm ghì lấy lưng tôi. Môi má tôi đã tựa vào ngực anh rồi. Nỗi niềm hạnh phúc dâng lên trong tôi. "Không sao chứ?", vẫn giọng nói ân cần thủ thỉ bên tai. Tôi ngước lên nhìn anh bằng cả tấm lòng của tôi dành cho anh. Thời gian như ngừng lại. Và chuyến tàu ngừng lại. Tôi vụt nắm tay anh, giục: "Mình xuống thôi!"

Những ngọn đèn vàng trên sân ga lạ. Trời đã chiều nâu thẫm. Chỉ có anh và tôi cận kề nhau trong cái tranh tối. Tôi rướn người lên. Vòng tay tôi nóng hổi quấn lấy anh. Siết mạnh hơn. Có lẽ trọn đời tôi sẽ không bao giờ quên môi hôn nầy, môi hôn đắm đuối, tham lam ngỡ chỉ có trong tiểu thuyết…

Anh hỏi vì sao tôi yêu anh? Tôi say sưa thổ lộ tất cả cảm nhận chân thành về anh – chỉ riêng anh – nồng nhiệt như vũ điệu bên ánh lửa mà tôi và anh quyện vào nhau… Nếu là tiểu thuyết gia thì tôi quyết bắt anh chết trong sắc đẹp rợn người, trong vòng tay ma quái; chết không than van như con thiêu thân bởi hấp lực là những ngọn lửa phát ra từ thân tôi, nóng cháy. Anh lạc vào mắt tôi, không mong ngõ ra, chẳng còn lối thoát. Hỏa ngục vĩnh viễn. Tình yêu bất diệt. Ôi, cái mầu nhiệm của tiểu thuyết!

Mãi tôi vẫn không quên ánh mắt sâu thẳm của anh trong câu hỏi: "Giờ đây nếu anh phụ rẫy người ngày xưa anh nói yêu thương hết lòng, hứa hẹn trọn đời bên nhau chung sống, người mà anh gọi là vợ để đến với em thì vẫn cân xứng với hình ảnh chân-thiện-mĩ em đã nghĩ về anh sao?" Hình như tôi thấy mắt anh long lanh. Rồi dáng anh nhòa đi trong bóng đêm sân ga. Nhưng có lẽ trọn đời tôi sẽ mãi dày đặc hình bóng anh. Tôi biết tôi kiều diễm lắm! Tôi biết tôi quyến rũ lắm! Nhưng ngần ấy đã không giữ nổi anh! Tôi để vuột mất anh. Anh đến, rồi lặng lẽ đi vào tiểu thuyết…


Vũ Hạ

Trích đăng từ Đặc San Lâm Viên (dslamvien.com)

thuykhanh
10-24-2018, 11:26 AM
Đôi chim sáo



https://4.bp.blogspot.com/-pzsdBmYiknY/W8ZBCWx4U0I/AAAAAAAAvU4/2GvgezbOaeAIJVHQG8RU4-7M2W_KgkVxQCLcBGAs/s640/doi-chim-sao.jpg




Nguyên Nhung



Lời tác giả:

Mùa thu đã trở về, những mùa thu rất ngắn của đất trời vẫn mỗi năm một lần trở lại, nhưng những mùa thu của đời người thì mãi mãi ra đi. Khu vườn nhuốm chút heo may để giàn mướp rung rinh những bông hoa cuối mùa, bụi mía xào xạc thoảng qua hồn chút gió hắt hiu, và đôi chim sáo vẫn mải miết tìm mồi trên sân cỏ úa...

"Đôi chim sáo" là hình ảnh một đôi vợ chồng già, khi những con sáo non đã đủ lông đủ cánh để bay đi xa lìa cha mẹ, chỉ còn lại đôi sáo già buồn bã, ủ ê trong cái tổ ẩm ướt với những ngày Đông dài lê thê . . . "



*****

Khi người hàng xóm sửa chữa lại chỗ mái hiên bị dột, là từ lúc ấy đôi vợ chồng chim bị mất tổ. Không biết đấy có phải là nỗi éo le của cuộc đời, hạnh phúc của kẻ này lại là nỗi bất hạnh của người kia, vẫn hay kề cận bên nhau, khi đời sống luôn luôn là những thay đổi. Như một thành phố được tân trang cho mới mẻ, lại cũng mất đi nét cổ kính của một vẻ đẹp yên tĩnh, rất nên thơ.

Mỗi buổi sáng, khi mặt trời vừa thức dậy, vợ chồng đôi chim sáo đã lo tần tảo kiếm ăn. Tôi không biết đó là loại chim gì, nhưng tiếng hót khá hay, với màu lông xám có một mảng phơn phớt bạc ở trên đầu. Mình to gấp hai lần chim sẻ, tôi cho chúng là một loại sáo, vì chúng hay hót, có khi hót cả ngày vì một điều gì vui trong thế giới của loài chim.

Đấy là một đôi vợ chồng chăm chỉ, còn trẻ tuổi, chưa con cái. Hôm nào mưa, anh chồng bay lên sợi dây điện, ngó quanh, hót lên mấy tiếng, có ý than thở cảnh đất trời u ám, khiến một kẻ chăm làm tham công tiếc việc phải bất đắc dĩ nghỉ ngơi. Còn lại chị vợ trong hốc tối ở mái hiên, chị cũng hay hót, như đàn bà thường lắm điều hơn đàn ông, thỉnh thoảng chị bay sà xuống cây thông đất trước cửa nhà tôi để rỉa lông, rỉa cánh.

Khoảng đầu xuân, khi vợ chồng chim đến làm tổ trên cái hốc tối con con nơi mái hiên nhà hàng xóm, tôi thấy họ bận rộn lắm. Qua khung cửa kính, tôi quan sát đôi chim như một đôi vợ chồng mới cưới, có thể cô vợ đang mang thai, và họ cần một tổ ấm cho gia đình. Vợ chồng sáo ríu rít vào ra cái hốc nhỏ, được hình thành khi mảnh ván bị mục vì nước mưa, lâu ngày đã vô tình khoét một chỗ trống, vừa vặn cho gia đình một đôi chim sáo.

Hai người trẻ tuổi yêu nhau, bước vào đời rộn ràng như thế nào thì đôi chim sáo cũng y như vậy. Từ mờ sáng, ánh đèn đường còn lung linh dưới tàn cây tối thẫm, tôi đã nghe đôi chim ríu rít, trò truyện. Họ dậy sớm lắm, sớm hơn cả lũ trẻ phải dậy đi học, nhất là những ngày vào Xuân, năm ấy đâu là mùa Xuân đầu tiên của vợ chồng sáo.

Không biết họ ở đâu đến đây, nhưng ngay những ngày đầu, tiếng hót của họ đã làm những người trong khu chung cư thức dậy, và biết là mùa xuân đã tới. Những giọt mưa xuân đêm qua còn lóng lánh trên những lá cỏ non, khi bình minh đến, chiếu những tia nắng dịu dàng lên cỏ hoa, để những giọt nước li ti ấy biến thành những viên kim cương diễm lệ.

Sáng nào, tôi cũng ngồi hằng giờ ngắm nghía hạnh phúc của vợ chồng chim sáo, ngay cả khi chị sáo khẽ khàng đậu trên nhánh thông, tôi cũng không dám mở cửa, sợ kinh động cái thảnh thơi của chị. Chị sáo có cái thảnh thơi của một tâm hồn trong sáng, hình như không có gì để suy nghĩ ngoài những hạnh phúc chị đang có. Chị nhảy từ cành này sang cành kia, thỉnh thoảng lơ đãng ngó mông lung lên rặng cây bên đường, có thể chị đang nghĩ đến anh chồng đang luẩn quẩn đâu đó. Khi anh sáo về, chị cũng cuống quýt bay lên, đôi vợ chồng chim lại lục đục trên cái hốc tối. Ấm áp lắm, nồng nàn lắm, tôi ưa nhìn cái hạnh phúc của muôn loài, và cảm nhận được cái vui từ chút hạnh phúc nhỏ nhoi, đơn giản ấy.

Đúng là những người yêu đời nhất thế gian, đôi vợ chồng chim bắt tay vào việc xây dựng tổ ấm rất hăng hái, bay ra bay vào suốt ngày, mỗi lần trở về lại cắp theo một nhánh cây khô, một cọng cỏ héo, và cả những chiếc lá xanh. Họ có cái rộn ràng, tất bật khi phải cố hoàn thành cho nhanh, một cái nôi cho lũ con thơ sắp chào đời nay mai. Được một dạo, khi anh chồng đi kiếm ăn, chị vợ có vẻ mệt mỏi đậu xuống cành thông đất trước hiên nhà, chị hững hờ mổ mổ chiếc lá non, như người phụ nữ đang mang thai thèm ăn dở.

Đấy là những ngày đầu tiên của vợ chồng chim sáo, hạnh phúc khi có thì ở đâu cũng hạnh phúc, chưa chắc gì trong những căn phòng đẹp đẽ, tiện nghi của loài người, hạnh phúc đã thèm hiện diện.

Đôi vợ chồng chim sống thật êm đềm, đơn giản đến không còn gì đơn giản hơn. Sáng. Dậy sớm. Hỏi han nhau ba điều bốn chuyện, qua những tiếng hót làm vui tai mọi loài.

Rồi khi nắng lên, bay đi kiếm ăn. Tuy nhiên, họ lại là những kẻ rất chu đáo trong vấn đề chăm sóc gia đình, rất bận rộn cho miếng ăn hằng ngày, nhưng vẫn không bỏ bê nhà cửa. Tôi thấy vợ chồng sáo về nhà luôn luôn, tha thêm những nhánh cỏ khô, chiếc lá héo. Tôi tưởng tượng trên đống cỏ khô được khoanh tròn lại bằng những chiếc mỏ khéo léo của vợ chồng sáo, dăm chiếc trứng xinh xinh, tròn trĩnh đã được chị vợ sắp xếp gọn gàng, vừa đủ cho chị mỗi ngày ủ ấp lũ con thơ, đang hình thành trong lớp vỏ trứng.

Cái ấp yêu của vợ sáo, là cái ấp yêu của những người mẹ yêu con ngay từ lúc còn là bào thai, vừa mới tượng hình trong lòng mẹ. Tình mẫu tử đã được ràng buộc giữa mẹ và con, chị sáo cũng như bao người mẹ khác, đã nâng niu những đứa con yêu của chị trong những quả trứng mỏng manh kia. Chị sáo chắc hẳn cũng đã từng nghe ngóng, chờ đợi. Một hôm nào nghe lũ con cựa mình trong vỏ trứng, rất khẽ khàng chị dùng chiếc mỏ cứng, giúp con đẩy chiếc cửa đầu tiên vào đời. Mấy chú sáo non run rẩy, trần trụi lớp lông tơ, nếu không có tổ ấm của cha, sự săn sóc của mẹ, làm sao để sống?

Từ đấy, tôi có cái ngạc nhiên khi nhìn cuộc đời ở một khía cạnh khác, khi biết rằng trong thế giới loài người, có những người con thành đạt, lớn lên trong nỗi nhọc nhằn của cha mẹ, đã hắt hủi cái tổ ấm của mình, và nhìn nó bằng những đôi mắt ghẻ lạnh.

Khi lũ con ra đời thì vợ chồng sáo có vẻ bận rộn hơn. Ở góc cạnh này, tôi rất khâm phục anh sáo, nếu là người, anh rất xứng đáng là một người cha gương mẫu. Anh ta vốn là một người chăm chỉ, bây giờ lại càng chăm chỉ hơn, khi trên chiếc tổ chim ấy, đã vang lên tiếng liếp chiếp đòi ăn của bầy con dại. Trông chị có vẻ tất bật, không còn cái vẻ thảnh thơi của độ còn son rỗi, vì lo ngại lũ con thơ có thể lăn ra khỏi tổ lúc chị vắng nhà, rồi cứ thế lăn lông lốc xuống thềm xi măng dưới kia, thì dẫu có Trời giúp, chị vẫn không đủ sức để đem con về tổ.

Quan sát kỹ để thấy, chị luôn luôn lấp ló nơi cửa, đầu ló ra ngoài, hai con mắt trong veo như hai hạt đậu. Người mẹ ấy chăm sóc con cẩn thận lắm, lũ sáo non dường như đã được đẩy tít vào phía trong, cho dù một cơn gió lang thang, cũng không thể thổi hắt vào cái tổ nhỏ bé ấy.

Qua hết mùa hè, mải miết kiếm ăn nuôi lũ con thơ, anh sáo trông có vẻ phờ phạc hơn. Tôi rất khâm phục sự hy sinh của anh. Khoảng cách từ nhà anh ra rặng cây xanh không xa, vì anh bay khá nhanh, nhưng phải nói sự vật lộn để mưu sinh giữa chợ đời đâu phải là dễ dàng, khi trên ấy có đủ loại khác nhau như sóc, quạ, hoàng oanh, chim sẻ . . . Anh sáo chắc có lúc cũng nhận ra cái thực tế phũ phàng và cay đắng trong việc tìm miếng cơm, manh áo, sự tranh giành giữa muôn loài với nhau, đâu có gì là dễ chịu, cho dù anh có đạt được chân lý “ăn để sống”.

Cuối hè ấy, khi lũ chim non đã đủ lông đủ cánh, tôi thấy mấy cái đầu xinh xinh ngó ngó, nghênh nghênh ngoài cửa tổ, chiêm chiếp kêu. Chị sáo cũng phục hồi sau thời gian ở cữ, tròn trịa hơn, mũm mĩm và xinh đẹp hơn, như người đàn bà sau kỳ sinh nở, những đường nét trên cơ thể nẩy nở ra như một đóa hoa thời kỳ mãn khai. Lũ con lớn hơn thì người cha càng vất vả, có vẻ như kiệt sức, bộ lông sáo không mượt mà như xưa, cái nóng của mùa hè khiến anh thêm hốc hác.

Trong nhà, người ta mở máy lạnh suốt ngày đêm, lúc cần ra đường, người ta vội vã chui ngay vào xe, rồi hối hả đi vào những căn phòng có máy lạnh khác. Chắc anh sáo cũng mệt mỏi lắm. Anh phải đi kiếm ăn, suốt ngày bay tới bay lui từ hàng hiên ra rặng cây sồi ven đường, lúc ấy râm ran những tiếng ve gọi hè, chỉ còn mẹ con nhà sáo chui rúc trong cái tổ nóng bức chật chội. Ba đứa con chưa biết bay, nhưng ăn tợn, thỉnh thoảng tôi thấy chị sáo cùng chồng bay xuống sân cỏ, nhặt nhạnh những hạt cơm, vụn bánh, hột cỏ rồi lại bay ù về tổ. Bây giờ chị cũng phải cùng chồng đi tìm mồi về nuôi lũ con háu đói kia, chiêm chiếp suốt ngày đến sốt ruột.

Sang đầu thu, mẹ sáo dạy con tập bay. Mới đầu là những khoảng ngắn từ tổ xuống hàng hiên, những cánh chim non sợ hãi, rụt rè bay xuống hiên, rồi lại bay về tổ. Những bước chân chập chững vào đời, trong nỗi buồn vui của cha mẹ. Như còn đấy, như mất đấy, một ngày nào tổ ấm sẽ yên lặng, không còn tiếng chim vui như tiếng trẻ khóc, trẻ học. Khi những đứa con lớn lên, sắp ra khỏi tầm tay cha mẹ, là lúc ấy đời dường như ngắn lại, rồi ở đâu kia đã hình dung ra màu tàn phai của những chiếc lá héo, thấy mình trong gương bỗng xa lạ với mình ngày trẻ tuổi.

Ngày hôm ấy là một sáng đẹp trời, tôi đã nhìn thấy, nghe thấy lũ sáo con ríu rít bay ra khỏi tổ. Không hiểu vợ chồng sáo buồn hay vui, khi thấy con mình đã đủ sức bay đi, rồi mấy đứa đã quay về cái nôi êm ái đó?

Lũ sáo con thật hồn nhiên khi mở to đôi mắt nhìn bầu trời khoảng khoát, rồi như kẻ đã nhìn thấy tự do, chúng bật lên những tiếng hót thánh thót, du dương như một bản nhạc vui. Cái gì cũng mới lạ, khoảng trời xanh bao la cho những cánh chim rộn ràng xoải cánh đến những vùng trời thênh thang, trên vòm cây xanh, những âm thanh mời gọi của bạn bè khiến lòng nao nức lạ. Phải nhập cuộc thôi, một khung trời mới mẻ có hoa thơm và mồi ngon, để túy lúy với men say cuộc đời. Trong những con người trẻ, tâm hồn trẻ, đâu đã biết ngậm ngùi trước cảnh chia ly với mái ấm gia đình.

Tôi đã nhìn thấy những con sáo con bay ra khỏi tổ vào đầu thu hôm ấy. Nó có trở về không nhỉ? Làm sao tôi có một câu trả lời, nhưng tôi cứ chờ đợi, như đợi những đứa con của mình đi đâu đó, sẽ trở về, sẽ mãi mãi không bao giờ quên tổ ấm.



oOo

Sang thu, có một chút heo may chợt đến vào buổi chiều, gia đình sáo có vẻ yên lặng hơn, vì những đứa con chưa trở về. Anh chị sáo buổi sáng vẫn dậy sớm từ mờ đất. Hôm ấy có thể mặt trời không lên, đám mây xám giăng ngang bầu trời, cho cơn mưa thu chợt đến và kéo dài suốt những ngày tháng tám.

Mưa kéo dài suốt một mùa thu, vài cơn bão rớt từ đâu ghé lại khiến lòng người cũng chùng xuống bao nhung nhớ. Cây cỏ ướt sũng dưới mưa, vợ chồng chim thưa thớt tiếng chim vui, những giọt mưa luồn vào tấm gỗ mục trên mái hiên, làm tổ ấm của đôi chim chừng ẩm ướt hẳn đi.

Vào mùa thu, vài tia nắng dịu dàng ươm trên hàng cây đã có nhiều lá úa, để một cơn gió tới, đã cuốn theo những chiếc lá vàng từ trên cây rớt xuống như mưa, rồi cứ thế lăn tròn xuống cuối dốc. Mùa thu bao giờ cũng ngắn ngủi và rưng rưng buồn, giàn mướp hương còn lại những chiếc lá cuối cùng vẫn xào xạc nghe như dư âm của một cung đàn đềm êm trong quá khứ. . .





https://3.bp.blogspot.com/-dPXyWo4iI6o/W8ZCcUESj3I/AAAAAAAAvVE/NtVipjnhj_0buz9xnNjYa6X1bWUVK6h-wCLcBGAs/s320/empty-nest.jpg (https://3.bp.blogspot.com/-dPXyWo4iI6o/W8ZCcUESj3I/AAAAAAAAvVE/NtVipjnhj_0buz9xnNjYa6X1bWUVK6h-wCLcBGAs/s1600/empty-nest.jpg)





Hết mùa thu lại tới một mùa đông, không gian như càng ảm đạm và lạnh lẽo. Gã mặt trời lười biếng không thức dậy, ánh đèn vẫn tỏa sáng trong vòm cây tối. Vợ chồng sáo không hót lên câu chào hỏi mỗi ban mai, những giọt mưa mùa đông vẫn rớt trên mặt đường, loang loáng ánh đèn từ những chiếc xe qua lại vội vã.

Vợ chồng sáo như đôi vợ chồng già, lủi thủi trong chiếc tổ ẩm ướt, nùi cỏ khô như tả tơi thêm khi anh sáo già không có cái hăng hái ngày trẻ tuổi, đi tha những cọng cỏ khô về làm tổ cho lũ con. Thỉnh thoảng, vào một ngày khô ráo. vài tia nắng yếu ớt lách ra khỏi màn mây màu xám đục, tỏa xuống nhân gian một chút ấm áp. Anh chị sáo bay ra khỏi tổ, đậu trên sợi dây điện, hai cái bóng chim như hai nốt nhạc sậm màu cho một bản nhạc buồn.

Sao tôi ngậm ngùi thế. Buổi sáng, chỉ còn một mình trong căn phòng vắng, tôi nghe đôi chim sáo buông ra những tiếng kêu rời rạc, khắc khoải như tiếng ca cẩm cái chân đau, chiếc lưng mỏi cho một tuổi già lụm khụm.


https://3.bp.blogspot.com/-1hgETUFm_EM/W8ZSDca9xlI/AAAAAAAAvVU/7_oQyjyvGQQKhxLtaM-Cd6jmckTCYQCTACLcBGAs/s320/birds-on-wire.jpg (https://3.bp.blogspot.com/-1hgETUFm_EM/W8ZSDca9xlI/AAAAAAAAvVU/7_oQyjyvGQQKhxLtaM-Cd6jmckTCYQCTACLcBGAs/s1600/birds-on-wire.jpg)


Hết mùa Đông, lũ sáo con vẫn không trở về, nhưng một biến cố đã xảy ra cho đôi vợ chồng sáo. Người ta chuẩn bị sửa nhà đón mùa xuân mới, người hàng xóm đã gọi thợ đến sửa lại mái hiên bị dột, thay vào đó một tấm ván mới, bít lại cái tổ chim. Khi đám thợ mang cưa, búa, gỗ đến, tôi thấy đôi chim hoảng hốt bay ra, mắt nhớn nhác nhìn loài người như một loài quỷ dữ, nhất là khi âm thanh của tiếng cưa kèn kẹt nghiến vào tấm ván, như nhát dao cuối cùng trên cổ người tử tội, thì mới hình dung được cái hãi hùng của người sắp chết.

Chiều hôm ấy, khi mái hiên nhà hàng xóm đã được sửa chữa xong, còn nồng mùi sơn mới. Mới mẻ, cứng cát, không còn một cái hốc nào làm chỗ trú cho loài chim. Tôi thấy đôi chim sáo bay về, đậu trên sợi dây điện như hai nốt nhạc buồn, ngơ ngẩn nhìn về tổ ấm dưới mái hiên, rồi chúng vụt bay đi. Không biết ở mắt chúng có ứa ra giọt lệ nào không? Riêng tôi, sao buồn quá, và tôi đã khóc ...


Nguyên Nhung
( Đặc san Lâm Viên)


Trích đăng từ Đặc San Lâm Viên (dslamvien.com)

thuykhanh
12-23-2018, 01:18 PM
Nhà Thờ Đà Lạt Mùa Giáng Sinh






https://1.bp.blogspot.com/-aGgsN-2wobE/XA9Dh0X053I/AAAAAAAAzgc/H5O2saEEIzsl_Ory264LdIsVNdvjR2ZdgCLcBGAs/s640/Dalat-nha-tho-con-ga.jpg

Tâm Minh Ngô Tằng Giao

(Đặc San Lâm Viên)





Mùa Giáng Sinh thường là thời điểm kỳ diệu nhất trong suốt cả một năm với tiếng chuông nhà thờ ngân nga trong đêm vắng, với ánh nến lung linh huyền ảo và giọng thánh ca trầm bổng gợi lên những cảm xúc thanh thoát, êm đềm và thánh thiện trong lòng người. Vào dịp Giáng Sinh hằng năm, nhà thờ là nơi tập trung rất nhiều người cả trong đạo lẫn ngoài đạo đến tham dự lễ thật đông vui. Những người Đà Lạt cư ngụ tại đường Nguyễn Đình Chiểu, ấp Cô Giang… bên tai luôn vẳng nghe tiếng chuông nhà thờ vang vọng cõi trần gian.
Ghi lại những kỷ niệm với nhà thờ Cô Giang, một giáo đường xinh xắn, nhỏ bé, TÂM MINH cảm hứng viết bài “Tiếng chuông”:



“Chuông nhà thờ Cô Giang
Sáng đổ hồi reo vang
Nhạc vui theo chân Chúa
Dương thế được bình an…”



Nhưng hình như Đà Lạt lại là nơi hội tụ của mọi thương nhớ trong cuộc đời và dang dở trong cuộc tình, của chia ly và ngăn cách kể từ lúc tóc hãy còn xanh cho đến khi đã ngả màu, kể sao cho hết. Cô nữ sinh Trưng Vương NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG rời Sài Gòn lên ghé thăm thành phố sương mù, ôm mối tâm sự riêng, lang thang khắp nẻo đồi cao lũng thấp. Tiếng chuông nhà thờ Đà Lạt vang vọng không trung, theo với bước chân khách du, mãi còn âm hưởng trong lòng người cô quạnh để rồi được thể hiện thành những vần thơ sầu muộn trong bài “Đường chiều Đà Lạt”:



“Xa vắng lòng anh thung lũng sầu
Tim em nhỏ bé, lớn chưa mau
Ngây thơ, tội lỗi trăm điều sợ
Đừng nói thương nhau, đừng đợi nhau.


Hồi chuông Cứu Thế vọng đìu hiu
Gác lạnh cheo leo đỉnh cô liêu
Tay viết nét gầy câu giã biệt
Chẳng thề, chẳng hẹn nói thương yêu


Đồi thông gió hú mãi không thôi
Ôm gối lệ hờn lã chã rơi
Đà Lạt đêm trường đong thổn thức
Khăn hoa thấm ướt giọt đầy vơi”…



Nhà thờ lớn nhất thành phố Đà Lạt là ngôi giáo đường ở gần khách sạn Palace được gọi là nhà thờ “Chánh Tòa”, hay còn cái tên dân gian là nhà thờ “Con Gà” vì trên đỉnh tháp chuông có tượng một con gà lớn. Nhà thờ được xây dựng từ 1931 đến 1942, là một trong những công trình kiến trúc tiêu biểu và cổ xưa nhất của Đà Lạt. Một bản nhạc nổi tiếng được gợi hứng từ nhà thờ Con Gà là bản:
“Bài thánh ca buồn” của Nguyên Vũ.
Nhạc sĩ NGUYÊN VŨ tên thật là Nguyễn Tuấn Khanh, sinh năm 1944 tại Hà Nội nhưng suốt thời thơ ấu ông sống ở Đà Lạt. Những năm tháng tuổi thơ sống ở thành phố sương mù đã tác động nhiều đến bước đường nghệ thuật của ông trong đó có “Bài thánh ca buồn”. Bài hát này là một trong những ca khúc pop-ballad được nhiều người Việt ưa chuộng vào mỗi dịp Giáng sinh.


Nhạc sĩ Nguyên Vũ cho biết:


Tôi không nghĩ ca khúc này lại được nhiều khán giả yêu mến đến thế. Khi viết ca khúc ấy, đơn giản tôi đang hoài niệm quãng thời gian trai trẻ của mình. Cái thời mà tôi chỉ dám ngắm nhìn người tôi mến, không dám mở lời làm quen…



Thuở tôi là một cậu bé 14 tuổi ngày đi lễ ở nhà thờ Con gà (TP. Đà Lạt), sở dĩ tôi “chịu khó” đi lễ bởi vì phát hiện ra một cô gái rất xinh và ngoan đạo mỗi ngày vẫn đi ngang qua ngõ nhà tôi để đến nhà thờ. Trái tim vụng dại của thằng con trai mới lớn đập loạn nhịp trước bóng hình thiếu nữ tóc bồng bềnh trong gió cao nguyên. Ngày qua ngày, suốt hơn ba tháng trời, tôi âm thầm, lầm lũi làm “cái đuôi” của cô ấy. Kẻ trước người sau, mỗi bận đi lễ về phải đi bộ hơn 3km đường đèo nhưng một lời bẻ đôi tôi không dám thốt. Lòng thành của tôi chỉ được hưởng một ân huệ cỏn con: Tôi được biết cô ấy tên Th., lớn hơn tôi 2 tuổi…



Thế rồi một buổi chiều gần lễ Giáng Sinh, tan lễ thì trời đổ mưa to, cô ấy nép vào một mái hiên trú mưa, tôi cũng… trú tạm bên cạnh, hai người đứng cách nhau độ một gang tay. Lẫn trong tiếng mưa vang lên giai điệu quen thuộc của bản thánh ca “Đêm thánh vô cùng” (Silent Night) vẳng ra từ ngôi nhà gần đấy: “Đêm Thánh vô cùng / Giây phút tưng bừng / Đất với trời, se chữ đồng… Cô ấy đưa tay hứng những giọt nước mưa và khe khẽ hát theo. Tôi lặng người. Giọng hát cô ấy buồn da diết. Tự dưng tôi cảm thấy run, khẽ đưa tay vuốt nhẹ những hạt mưa bụi li ti bám bên ngoài chiếc áo của cô ấy. Cô ấy bất chợt quay sang tôi nhoẻn miệng cười: “Cảm ơn nghen!”. Mưa tạnh, “người trong mộng” đã khuất dạng tự bao giờ mà thằng con trai 14 tuổi vẫn còn đứng ngẩn ngơ vì “Người đi một nửa hồn tôi mất / Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ”.



Ba ngày sau, gia đình tôi chuyển vào Sài Gòn sinh sống. Tâm trạng tôi lúc đó y như người vừa đánh mất một vật quý giá. Từ đó, mỗi khi chợt nghe bài “Đêm thánh vô cùng” lòng tôi lại tái tê với ánh mắt, nụ cười hồn nhiên, thánh thiện tựa thiên thần của “người ấy… Ôm hình bóng ấy cho đến mãi 14 năm sau, tình cờ nghe lại “Đêm thánh vô cùng” từ chiếc máy đĩa, bỗng dưng cảm xúc từ một mối tình thánh thiện, hồn nhiên như trẻ thơ – tưởng như đã vùi sâu dưới lớp bụi trần thời gian – chợt ùa về trong ký ức, thôi thúc tôi và “Bài thánh ca buồn” ra đời.


Đây là một chuyện tình buồn nhưng không bi lụy.
Nhạc phẩm “Bài thánh ca buồn” được nhạc sĩ Nguyễn Vũ sáng tác trong hai tiếng vào một ngày tháng 10 năm 1972. Nội dung như sau:




Bài thánh ca đó còn nhớ không em.
Noel năm nào chúng mình có nhau.
Long lanh sao trời đẹp thêm môi mắt.
Áo trắng em bay như cánh thiên thần.
Giọt môi hôn dưới tháp chuông ngân.




Cùng nhau qùy dưới tượng Chúa cao sang.
Xin cho đôi mình suốt đời có nhau.
Vang trong đêm lạnh bài ca Thiên Chúa.
Khẽ hát theo câu đêm thánh vô cùng.
Ôi giọng hát em mênh mang buồn...




Rồi mùa giá buốt cũng qua mau.
Lời hẹn đầu ai nhớ dài lâu.
Rồi một chiều áo trắng phai màu.
Em qua cầu xác pháo bay sau.




Lời nguyện mình Chúa có nghe không.
Sao bây giờ mình hoài xa vắng.
Bao nhiêu đêm Chúa xuống dương gian.
Bấy nhiêu lần anh nhớ người yêu.




Rồi những đêm thánh đường đón Noel.
Lang thang qua miền giáo đường dấu yêu.
Tiếng thánh ca ngày xưa vang đêm tối.
Nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn.
Ðêm thánh vô cùng lạnh giá hồn tôi.







Mùa Giáng Sinh Đà Lạt cũng luôn ở trong trái tim nhà thơ NHẤT TUẤN (Phạm Hậu). Trước 1975 nhà thơ là quân nhân, gia nhập trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, năm 1955, Khóa 12. Nhà thơ được biết đến nhiều qua những tập thơ “Truyện chúng mình” và tập truyện “Đời lính”. Thoạt tiên tình yêu thấp thoáng trong bài thơ “Truyện chúng mình”, chỉ gợi lên nỗi nhớ mong của người ở Đà Lạt bị xa cách với người ở Sài Gòn. Trong đời lính, phải rời xa Đà Lạt, từ nơi tiền đồn biên giới nhà thơ gửi lòng nhung nhớ về thành phố này nhân mùa Giáng Sinh khi viết bài “Niềm tin”:



“Lại một Noël nữa

Mấy mùa Giáng Sinh rồi

Anh ở đồn biên giới

Thương về một khung trời.




Chắc Đà lạt vui lắm

Mimosa nở vàng

Anh đào khoe sắc thắm

Hương ngào ngạt không gian.”





Có lúc tình yêu nơi giáo đường xuất hiện, trong hồi tưởng, nhà thơ chỉ nguyện cầu, ước mong “thấy” được người yêu nơi bài thơ “Cầu nguyện” (chứ không phải mong “lấy” được người yêu như bản nhạc đã đổi lời):


“Con quỳ lạy chúa trên trời
Để cho con thấy được người con yêu
Đời con đau khổ đã nhiều
Kể từ thơ dại đủ điều đắng cay

Bây giờ con đã gặp nàng
Không giàu, không đẹp, không màng lợi danh.
Chúng con hai mái đầu xanh
Chấp tay khấn nguyện trung thành với nhau.
Thề rằng sóng gió biển dâu,
Đã yêu… trước cũng như sau… giữ lời


Người ta lại bỏ con rồi,
Con quỳ lạy Chúa trên trời thương con.”


Bên một giáo đường khác nào đó hoa mimosa Đà Lạt khoe sắc vàng tươi thắm, nhưng trong lòng nhà thơ lại chỉ nổi lên kỷ niệm buồn bã với bài “Mimosa thôi nở”:


“Noël xưa anh nhớ
Khi hãy còn yêu nhau
Nhà thờ nơi cuối phố
Thấp thoáng sau ngàn dâu
Anh chờ em đi lễ
Chung dâng lời nguyện cầu
Mimosa... bừng nở
Đẹp như tình ban đầu…


…Mới bốn mùa thu qua
Mimosa vẫn nở
Sao mối tình đôi ta
Ai làm cho dang dở
Đêm nay Noël đây
Chuông nhà thờ khắc khoải
Gió đồi lang thang bay
Mưa buồn giăng ngõ tối.


Anh quỳ bên tượng Chúa
Cúi đầu chắp hai tay
Lạy Chúa con chờ đợi
Người ngày xưa về đây
Nhưng em không về nữa
Đường khuya mưa bay bay
Mimosa thôi nở
Trong hồn anh đêm nay.”


Một ngôi giáo đường nhỏ bé khác của Đà Lạt cũng gợi nhớ một mùa Giáng Sinh với hoa anh đào khoe sắc thắm, Nhất Tuấn viết bài “Nhà thờ đường Cô Giang” với lời ghi chú “còn nhớ mãi ngôi giáo đường yêu dấu”:


…“Những kỷ niệm thần tiên
Bây giờ anh vẫn nhớ
Nhà Thờ Đường Cô Giang
Chúa Nhật mình đến đó


Đa lạt vào Giáng Sinh
Anh-Đào reo mở hội
Tan lễ em và anh
Đường hoa về chung lối


Họ thấy em hôn anh
Vội làm dấu Thánh Giá
Các sơ… và sư huynh
Muốn là thiên thần cả!


Em hỏi: Họ có yêu ??
Anh đáp: Khi khấn hứa,
Họ xin yêu rất nhiều
Yêu hết… con cái Chúa


Anh cố giữ niềm tin
Của tuổi trẻ mơ mộng
Nơi quê hương ngàn trùng
Xin em đừng tuyệt vọng


Vì sẽ có một ngày
Giáo đường xưa lại đến
Quỳ dưới trời tuyết bay
Thiết tha anh cầu nguyện.”


Người yêu thơ có lẽ phải nhận ra rằng NHẤT TUẤN, với những vần thơ lai láng trữ tình trong “Truyện chúng mình” không phải chỉ là truyện riêng tư “thì thầm bên gối” giữa hai người nữa mà đã hóa thành “truyện chúng mình” của bao nhiêu là đôi tình nhân thanh niên nam nữ khác. Nhà thơ đã viết hộ xuống những trang nhật ký về tình yêu của bao người trẻ tuổi. Khi thì đằm thắm thiết tha. Nhiều lúc lại dang dở não sầu, phải cần đến thời gian như là một loại linh dược để dần dần hàn gắn các vết thương lòng trong quá khứ.


Phải kể thêm ở đây tâm sự của một cựu nữ sinh Bùi Thị Xuân, đó là LỆ KHÁNH (Dương Thị Khánh). Đà Lạt một thời ấp ủ những vần thơ của KHÁNH, cho đến năm 1966 đã có bảy tập thơ được in ra, mà năm tập đầu đều mang tên là “Em là con gái Trời bắt xấu”. Lệ Khánh với tâm trạng buồn đau, với trái tim thổn thức vì tình, cũng từng ghé nhà thờ Đà Lạt và cảm hứng rồi viết bài thơ “Tiếng kinh chiều”:


…“Cửa giáo đường còn mở
Một linh hồn bơ vơ
Chúa ơi đời con khổ
Từ vương nghiệp làm thơ.


Em quỳ bên tượng chúa
Chắp hai tay nguyện cầu
Từng hồi kinh nho nhỏ
Là những lời thương đau.


Chiều Đà Lạt lành lạnh
Như hồn em giá băng
Giáo đường sao vắng lặng
Tình mình sao cách ngăn.


Từng hồi kinh nối tiếp
Từng lời xin Chúa ơi
Con yêu chàng tha thiết
Chàng yêu con trọn đời.


Vòng tay Chúa hiền từ
Không ôm tròn hai đứa
Nên em còn làm thơ
Khóc tình yêu dang dở.”


Đà Lạt những ngày tháng cũ quả thật đã lưu lại biết bao kỷ niệm trong lòng người đã từng có một thời sinh sống tại thành phố sương mù này, nhất là trong tâm hồn những người xa xứ.


Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Trích” ĐÀ LẠT NGÀY THÁNG CŨ”)








https://youtu.be/U6aCL01dR1c






Trích đăng từ Đặc San Lâm Viên (www.dslamvien.com)