View Full Version : Uwe Siemon-Netto và chiến tranh Việt Nam
thuykhanh
01-11-2017, 02:57 PM
***
Uwe Siemon-Netto và Chiến Tranh Việt Nam
Tác giả: BS Hoàng thị Mỹ Lâm
Nguồn: Việt Báo
http://i.imgur.com/KkFLa3R.png
UWE Siemon - Netto, phóng viên chiến trường trong trận tấn công Tết Mậu thân (1969) Huế, Nam Việt Nam
Cuốn sách nguyên bản dày 306 trang với tựa đề “Duc, der Deutsche – Mein Vietnam.
Warum die Falschen siegten “, đã từng được các dịch giả Lý Văn Quý & Nguyễn Hiền dịch lại với
tựa đề “Vinh Quang của sự Phi Lý – Tình yêu của một phóng viên cho dân tộc Việt Nam bị bỏ rơi“,
do chính tác giả Uwe Siemon-Netto trong dịp đến Berlin nói chuyện với Cộng Đồng Tỵ Nạn Việt Nam
ký tặng đề ngày 23.03.2014, được trân trọng để riêng trong tủ sách quý gia đình từ bấy lâu nay.
Mỗi lần lấy sách ra đọc lại tôi vẫn cảm thấy xúc động trước sự đồng cảm, sự trân trọng quý mến
dân tộc Việt Nam bị tổn thương và phản bội trong dư luận quốc tế.
Tuy bản dịch tiếng Việt rất công phu nhưng nguyên bản mới diễn tả được sự điêu luyện sắc sảo
trong lời văn ngôn từ và kỹ năng của người viết. Thoạt nhìn hình bìa thì ai cũng tưởng đó chỉ là
một cuốn sách viết về một đề tài chiến tranh khô khan, nhưng khi đọc người ta mới cảm nhận
được sự thật kinh hoàng của chiến tranh Việt Nam dưới cái nhìn của một Phóng Viên Chiến Trường
có lương tâm nghề nghiệp và sự ấm áp tình người của một người từng đồng hành đồng khổ với
người Việt miền Nam trong trận chiến đó.
Ông Siemon-Netto là người Đức, sanh ngày 25.10.1936 và có một thời thơ ấu hồn nhiên ở Leipzig.
Thân mẫu của ông là một Ca Sĩ Hợp Xướng sau này sống ở Frankfurt.
Ông khởi nghiệp làm Phóng Viên Hải Ngoại ở Luân Đôn cho hãng truyền thông Đức Axel-Springer.
Tại đây ông gặp người bạn đời Gillian vào năm 1962, một cô gái người Anh vừa đẹp tính lại vừa
đẹp người. Hai người đã làm đám cưới vào cuối năm đó khi ông vừa 26 tuổi.
Ngay sau đám cưới ông được hãng thuyên chuyển sang New York làm Phóng viên chuyên về
phóng sự chính trị tại Liên Hiệp Quốc. Ba năm sau, đầu năm 1965, ông đặt chân lần đầu đến
Saigon với nhiệm vụ Phóng Viên chiến trường cho Axel Springer và tiếp tục ở đây đến cuối năm 1969.
Cuốn sách ”Duc, der Deutsche“ là một hồi ký, là những mảng ký ức sống động được chép lại năm
2014 khi ông đã trở thành một Nhà Thần Học Tin Lành. Cũng nên nhắc lại là sau khi bỏ nghiệp
nhà báo, ông Siemon-Netto đã theo học về Thần Học và chuyển sang làm nghề Chăm Sóc
Tâm Linh cho các Cựu Chiến Binh đã tham chiến ở Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Năm 1992 ông trình Luận Án Tiến Sĩ về Thần Học và Xã Hội Tôn Giáo tại Đại Học Boston.
Xuyên suốt cuốn sách có một câu tuyên bố của Đại Tướng Cộng Sản Việt Nam Võ Nguyên Giáp
được Siemon-Netto nhắc đi nhắc lại nhiều lần là: “kẻ thù (nghĩa là kẻ Phương Tây )... không có khả
năng về tâm lý và chính trị để chịu đựng một cuộc chiến tranh trường kỳ “, và đó cũng là cái cốt
lõi và phương châm của Cộng Sản Việt Nam để liên tục khiêu chiến và duy trì cuộc chiến kinh hoàng
với mục đích tối hậu là áp đặt chế độ Cộng Sản lên toàn cõi Việt Nam.
Siemon-Netto đã chỉ trích nặng lời gíới chính trị Phương Tây là đã bỏ qua lời khuyên của
Sir Robert G.K. Thompson, một chuyên viên người Anh về Chiến Tranh Du Kích đã rời Việt Nam
vào năm 1965 vì Cơ Quan Tư Vấn của ông bị đóng cửa. Theo chiến thuật của Sir Thompson thì
chính việc loại bỏ những tên Cộng Sản Nằm Vùng quan trọng hơn là việc diệt trừ những tên
Cộng Sản Du Kích trong rừng sâu. Phương thức “Clear and hold “là làm sạch mầm móng Cộng Sản
nằm vùng (clear) thì dân chúng địa phương tại đó sẽ đứng về phe chính phủ (hold ).
Một hệ thống Cảnh Sát và Tình Báo hữu hiệu là yếu tố quyết định cho sự thành công của
chiến thuật này. Trong chương 3 Siemon-Netto nêu lên sự thành công của một Ấp Chiến lược
năm 1965 của Đại Úy Ngữ ở làng Long Khốt, cách Saigon 137km về hướng tây gần biên giới
Căm Bốt, hình thành đúng theo chiến thuật Thompson với lực lượng Nhân Dân Tự Vệ bén nhạy
và ông đã tỏ lòng hết sức kính phục vị Đại Úy Việt Nam này.
Sự bỏ qua chiến lược này đã đưa đến những cái chết thảm thương của những người quốc gia
chân chính sinh sống nơi xa xôi. Trong chương 5 Siemon Netto ghi lại một hình ảnh kinh hoàng
của một gia đình Xã Trưởng gồm 14 người bị du kích Việt Cộng hành hình ở vùng Tây Nguyên
xa xôi trước mắt dân làng như môt hăm dọa cho ai không theo Cộng: họ từ từ giết cháu nhỏ
nhất trước rồi tới các cháu lớn, kế đó là vợ rồi ông Xã trưởng ; sự kinh hoàng không ngừng ở
đó mà Việt Cộng đã hành hình vị Xã Trưởng bằng cách cắt lưỡi rồi cắt bộ phận sinh dục nhét
vào miệng trước khi treo cổ ; các người con trai của ông ta chỉ bị cắt bộ phân sinh dục trước khi
bị treo cổ. Người vợ và cô con gái thì bị xẻo vú trước khi treo cổ. Sự dã man này được thực
hiện như người ta thi hành một bản án thường nhật.
Trong một chương khác Siemon Netto nhắc lại ánh mắt căm thù sắt máu của những bộ đội
Bắc việt đối với bà Monika Schwinn, một nữ Y Tá người Tây Đức bị bắt khi đang phục vụ tai
Việt nam trong chương trình nhân đạo của Malteser , trên đường dẫn độ ra Bắc trên con đường
mòn Hồ Chí Minh.
Là một nhà Thần Học ông biết lòng căm thù và thú tính giết ngừơi không phải tự trời sanh ra.
Sự căm thù cũng như thú tính giết người này phải được gieo vào tim vào óc những binh sĩ trẻ
Bắc việt với một khuôn phép giáo dục đặc biệt mà chỉ có dưới chủ nghĩa độc tài toàn trị.
Trong chương 8 ông nhắc lại bài báo “Đồng cỏ nhuộm đỏ“ của mình đăng trên Die Welt
ngày 13.12.1965 mô tả hiện trường sau một cuộc giao tranh ác liệt giữa Quân Đội Bắc Việt
và Quân Đội Hoa Kỳ. Hàng trăm xác chết Việt Cộng phơi thây máu nhuộm đỏ cả bãi cỏ voi
cao cả mét. Quân nhân Hoa Kỳ tử trận hay bị thương đã được di tản bằng máy bay trực thăng.
Khi khám nghiệm hiện vật trong túi áo quần và ba-lô các tử thi Bộ Đội người ta mới phát giác
được nhiều tử thi chỉ mới 15 tuổi. Trong ba lô chứa những bộ quần áo sạch xếp ngay ngắn
hình như từ bàn tay của những người mẹ từ Vinh, Hải Phòng hay Hà Nội; có một số ba-lô
dấu những tờ truyền đơn kêu gọi hồi chánh của Miền Nam. Sau khi kiểm soát người ta thấy
có đến một phần tư các binh sĩ trẻ em mang tờ truyền đơn này trong người để chuẩn bị cơ hội
đầu hàng; nhưng cơ hội lớn của các em không dễ tìm, vì chỉ cần một động thái khả nghi là
các em sẽ bị đồng đội bắn ngay vào lưng.
Ngược lại Siemon-Netto cho người đọc thấy hình ảnh của những anh chàng GIs. Họ là những
thanh niên còn quá trẻ để được phép uống bia rượu, nhưng đủ già dặn để đi quân dịch đem
mạng sống giao cho rừng thẳm xa xôi. Phần lớn họ chỉ vừa đúng 18 tuổi và phải làm nhiệm vụ
công dân.
Những thanh niên này ngoài chút kiến thức căn bản về vũ khí chiến thuật, họ không được chuẩn
bị tâm lý để đối phó với những sự tàn độc của quỷ dữ. Trong một cuộc hành quân chung ở An Khê
ông đã chứng kiến một cái chết của một thanh niên Hoa Kỳ 17 tuổi, viên đạn Kalaschnikow kẹt
trong lá phổi của anh ta, anh ta nằm trong cơn hấp hối như một đứa trẻ thơ, anh ta gọi mẹ rồi kêu
trời. Đó là một trong nhiều cái chết của những người lính trẻ mà Siemon-Netto đã chứng kiến.
Trước khi chết họ thường gọi mẹ và kêu trời và phần lớn là theo thứ tự đó.
Sự tàn ác sâu độc của Việt Cộng còn được kể lại trong trận đánh tái chiếm Huế sau tết Mậu Thân.
Khi những tay súng Việt Cộng nấp sau các cửa sổ phía bên bờ bắc sông Hương nã súng liên tục
vào đoàn quân trong đó có Siemon-Netto đi theo, một binh sĩ Hoa Kỳ đã ném được một quả lựu đạn
lọt qua một trong những cửa sổ ấy. Lựu đạn nổ. Tất cả trở thành im lặng. Đoàn quân reo vui vì nghĩ
là đã đã hủy được mục tiêu. Nhưng cánh cửa chính bỗng bật mở, một người đàn bà trẻ bước ra,
tay giơ lên xác một đứa trẻ đẫm máu. Anh chàng quăng lựu đạn hồi nãy chợt lên cơn khủng hoảng:
”Trời ơi, tôi đã làm gì ? tôi đã giết một đứa trẻ. Trời hãy cứu tôi, trời ơi, trời ơi.. “anh ta quay cuồng,
trong khi lính Bắc Việt từ những cửa sổ khác tiếp tục nã đạn vào phía chúng tôi.
Ngừơi Trung Đội Trưởng phải dùng sức đè anh lính xuống và sau đó cho anh rút ra khỏi vòng chiến.
Người binh sĩ này đã bị hủy hoại linh hồn và có thể bị tổn thương tâm linh vĩnh viễn.
Trong cuộc chiến tranh tàn nhẫn đó Siemon –Netto đã phân tích sự độc ác một cách khách quan là:
trong khi Bắc Việt xem việc giết người là một một nhiệm vụ thi hành một chỉ đạo một quyết định tối
hậu của nhà cầm quyền, kẻ giết người được ân thưởng tuyên dương công trạng. Còn người Mỹ
xem chuyện giết người, điển hình là vụ Mỹ Lai, là một vi phạm pháp luật phải được nghiêm minh
xét xử trước tòa án. Nhiều nhà báo quốc tế đã vô tình hoặc cố ý bỏ qua sự khác biệt về căn bản
đạo đức này, khiến cho nhiều binh sĩ Hoa Kỳ khi giải ngũ về nước bị công dân Hoa Kỳ sỉ vả và bị
làm tổn thương tinh thần trong suốt cuộc đời.
Siemon-Netto cũng phân tích tại sao chế độ Dân Chủ không đủ sức chịu đựng áp lực tâm lý và
chính trị để chống lại cuộc chiến Partisan như Võ Nguyên Giáp đã tuyên bố. Nguyên do là chỉ vì
nền Dân Chủ khác với Độc Tài ở điểm Hệ thống Dân Chủ lệ thuộc vào Cử Tri. Nhưng ai là kẻ đem
tin tức đến Cử Tri. Chính là giới truyền thông. Và khi giới truyền thông loan truyền là sự kiên trì
trong cuộc chiến tranh vũ khí không xứng đáng để kéo dài vì người được bảo vệ không đáng được
bảo vệ. Như vậy là cuộc chiến phải chấm dứt, nếu cần thì thua thiệt cũng phải chấp nhận.
Thế là Giáp thắng cuộc !
Siemon-Netto lên án cực liệt giới truyền thông thuộc lớp trẻ, dưới ảnh hưởng của phong trào
Hiện Sinh thập kỷ 1960, đã bóp méo hình ảnh chiến tranh Việt Nam đúng theo sự mong đợi
như lời tuyên bố của Giáp: “Chiến tranh Việt Nam sẽ được đưa tới tận phòng khách từng nhà
mỗi gia đình Mỹ“.
Giáp khẳng định: “giới truyền thông Mỹ sẽ là một yếu tố quyết định trong sự
thắng thế của Bắc Việt”.
Điển hình là cảnh một đoàn quay phim ba người của một đài truyền
hình Hoa Kỳ đứng bên cạnh một ngôi mộ tập thể ở Huế. Ngôi mộ này vừa mới được phát hiện
sau trận đánh Mậu Thân. Tìm ra do những ngón tay còn sơn móng đỏ giơ ra khỏi mặt đất của
những người đàn bà đã bị chôn sống khi đang cố bươi cào ra khỏi hố đất.
Đoàn quay phim đứng hờ hững bên cạnh mộ và không có ý quay phim. Có người hỏi tại sao,
thì họ trả lời: “Chúng tôi không đến đây để quay phim tuyên truyền chống Cộng Sản !!“.
Nhắc về Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, Siemon-Netto trách đám nhà báo đồng nghiệp chỉ luôn
đi theo hành quân với quân đội Hoa Kỳ hoặc quân đội Đồng Minh và gửi những hình của các
Quân nhân này ra quốc tế, mà quên hẳn đi hàng quân tinh nhuệ đã bảo vệ quê hương họ cho
tới những giờ phút cuối cùng trước khi mất Saigon ngày 30.4.1975.
Ông ca ngợi những gương anh hùng quân đội: Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Nguyễn Khoa Nam,
Trần Văn Hai, Phạm Văn Phú.. là những nhân vật mà ông đã từng gặp trên đường nghiệp vụ và
giờ đây họ đã đi vào lịch sử.
Siemon-Netto yêu thương từ đứa trẻ bụi đời trên đường phố, đến thân phận những người đàn bà
trong chiến tranh…Trong cuốn sách còn chứa đựng rất nhiều, về con người văn hóa lịch sử
Việt Nam, về cái chết của vợ chồng Bác Sĩ người Đức Krainik và hai đồng nghiệp của họ:
Alois Alteköster, Raimund Discher trong vụ tàn sát Mậu Thân Huế.
Trong vài hàng giới thiệu này tôi không thể mang tất cả chi tiết trung thực và đứng đắn trong
cuốn sách của Siemon-Netto, người mang sứ mạng cao cả của Nhà Báo và của nhà Thần Học
để trải lòng viết ra cuốn sách có giá trị lịch sử này. Tôi thiết nghĩ và cầu mong cuốn sách này
sẽ là cuốn sách kinh điển để lại cho thế hệ mai sau một cái nhìn trung thực và có lương tâm
về cuộc chiến Việt Nam. Các bậc phụ huynh của những thế hệ sanh sau cuộc chiến hãy khuyến
khích con cháu tìm đọc cuốn sách này để hiểu chính xác về chiến tranh Việt Nam. Cuốn sách
được chính tay tác giả viết bằng hai thứ tiếng:
tiếng Đức như đã nêu từ đầu: “Duc, der Deutsche – Mein Vietnam. Warum die Falschen siegten"
và tiếng Anh đã được xuất bản lần thứ hai là: “Triumph of the Absurd”
Mong lắm thay!!!
BS Hoàng Thị Mỹ Lâm
Berlin, 27.11.2016
Triển
01-11-2017, 10:18 PM
Cuo^'n na`y di.ch ra tie^'ng Anh, Amazon ba'n co' 20 ddo^ My~ ha`. Co`n mua be^n na`y thi` 16 euro. Ai co' Kindle mua ebook co' 5 ddo^`ng ha`.
====> https://www.amazon.com/Triumph-Absurd-Reporters-Abandoned-Vietnam/dp/194550000X
thuykhanh
01-13-2017, 03:08 PM
Cuốn này dịch ra tiếng Anh, Amazon bán có 20 đô Mỹ hà. Còn mua bên này thi` 16 euro. Ai có Kindle mua ebook có 5 đồng ha`.
====> https://www.amazon.com/Triumph-Absurd-Reporters-Abandoned-Vietnam/dp/194550000X
Hôm qua tk đặt rồi, anh Triển.
Họ cho biết sách sẽ đến trong hai ngày.
thuykhanh
01-13-2017, 03:19 PM
tk mời Phố đọc:
ĐỨC: TÁI BẢN Lần Thứ Hai
VINH QUANG của sự PHI LÝ
Iwe Siemon_Netto
Bản dịch của Lý Văn Quý & Nguyễn Hiền
Lời giới thiệu của Ban Biên Tập
Cuốn hồi ký của tác giả Uwe Siemon-Netto, nguyên phóng viên chiến trường tại Việt Nam trong các năm 1969-1972 hiện nay đã được tái bản lần thứ hai và được dịch và phát hành tại Âu Châu bằng tiếng Đức và tiếng Pháp.
Được sự úy thác của tác giả, chúng tôi đã hoàn tất bản dịch tiếng Việt và hiện được bày bán tại: Amazon.com
Trong thời gian gần đây, cuốn sách này đã được tái bản lần thứ hai (third edition) và được nhà xuất bản New Reformation Publications phát hành. Trong đợt tái bản này có nhiều bổ túc và sửa chữa, nhất là trong phần mở đầu. Được sự yêu cầu của NRP, chúng tôi đã dịch thêm những đoạn bổ túc và hiệu đính lại. NRP đã ngỏ ý xin phát hành bản tiếng Việt song song với bản tiếng Anh qua mạng lưới của họ.
Các phiên bản tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức đều có bán trên Amazon.com.
Chúng tôi nhận xét có lẽ lần đầu tiên cuộc chiến Việt Nam đã được giải nghĩa qua lăng kính một nhà thần học thành
thử đã mang một giá trị đặc biệt và chứa đựng một thông điệp cao hơn nữa. Xin trân trọng giới thiệu với các độc giả
phần mở đầu của "Vinh Quang của sự Phi Lý: Tình yêu của một hóng viên cho dân tộc Việt Nam bị bỏ rơi"
Mở Đầu (nguyên tác tiếng Anh)
Đức: Vinh quang của sự Phi Lý
Bốn mươi năm trước, sự phi lý đã ca khúc khải hoàn tại miền Nam Việt Nam. Vào ngày 30 tháng tư 1975, phía sai trái đã thôn tính cái đất nước đầy thương đau này. Bọn Cộng Sản đã không đạt được thắng lợi do nắm chính nghĩa, như đám xu nịnh trong thế giới phương Tây vẫn thường làm chúng ta lầm tưởng. Họ đã đè bẹp miền Nam bằng sự tra tấn, bằng thảm sát hàng loạt và những hành vi khủng bố tồi tệ với ý đồ chiến lược thản nhiên, bất chấp công pháp quốc tế.
Tôi đang sống tại Paris lúc các chiến xa Cộng quân húc đổ cổng Dinh Độc Lập tại Sài Gòn. Trong lúc đang theo dõi sự kiện này trên màn ảnh truyền hình, tôi đã tự nhủ: làm sao mà họ có thể nắm thế thượng phong được sau các cuộc thất bại rõ ràng về quân sự mà tôi đã từng chứng kiến với tư cách một phóng viên chiến trường trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 tại Huế?
Câu trả lời có thể tìm thấy trong câu tiên đoán nham hiểm của tướng Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng Bộ Quốc phòng Bắc Việt rằng: "Kẻ thù (có nghĩa là phương Tây)... không có được những phương tiện tâm lý và chính trị để theo đuổi một cuộc chiến dai dẳng." Trong lúc bình luận về sự thất thủ của Sài Gòn, Adelbert Weinstein, một chuyên viên quân sự xuất sắc của tờ báo Đức nổi tiếng Frankfurter Allgemeine Zeitung đã tóm tắt lý do thắng cuộc của chế độ toàn trị này bằng một câu ngắn gọn đầy bi thảm là: "Nước Mỹ đã không thể chờ đợi được."
Những lời tiên tri của Võ Nguyên Giáp và tĩnh từ "Phi Lý" sẽ xuất hiện nhiều lần trong các chương của quyển sách này.
Đó chính là chủ đề được lặp đi lặp lại nhằm nhắc nhở quý độc giả tại sao mãi bốn thập niên sau tôi mới viết cuốn hồi ký
về năm năm tôi đã sống tại Việt Nam. Tôi mong là nét chủ đạo này sẽ chiếu sáng xuyên qua đống táp nham của niềm vui hay của nỗi buồn, điều luyến ái cũng như sự tàn phá trong các chương tôi đã kể ra.
Chủ đề thứ hai không kém phần quan trọng nằm đằng sau những mẩu hồi ức này là sự bộc lộ niềm thương yêu của tôi
đối với dân tộc miền Nam Việt Nam nhiều đau thương, đã từng bị phản bội và bị bỏ rơi mà một số tác giả của nhiều cuốn sách khác viết về cuộc chiến này đã gán cho một vai trò phụ thuộc một cách đầy ngạo mạn và phi lý.
Đây cũng là lý do tại sao tôi đã đặt tựa lại cho đợt tái bản cuốn hồi ký này là "Vinh Quang của sự Phi Lý," để thay thế cái tựa ban đầu là "Đức." Nhưng tôi muốn khẳng định rằng có ba lý do để cái tựa đầu tiên vẫn luôn nằm trong tâm trí tôi:
1. Đức là tiếng Việt chỉ về người Đức (hay nước Đức) và nói cho cùng đây là những hồi ức của một phóng viên chiến trường người Đức.
2. Đức là biệt danh mà các bạn người Việt đã đặt cho tôi khi tôi sống chung với họ.
3. Đức là tên của hai nhân vật chính, một là đứa trẻ chăn trâu tại miền Trung và người kia là anh chàng bụi đời tinh quái mà tôi đã kết bạn tại Sài Gòn.
Đức, anh chàng tôi vừa nói, người mà tôi muốn đề cập trong phần mở đầu này, là một thủ lãnh vóc dáng mảnh khảnh của một băng trẻ bụi đời vẫn thường lang thang trên vỉa hè nơi góc đường Tự Do "của tôi" tại Sài Gòn. Chúng tôi gặp nhau vào năm 1965 khi con đường Tự Do, hoặc Catinat cũ, còn mang dấu vết quyến rũ của thời thực dân Pháp với hàng me xanh tươi rậm rạp mà sau này là nạn nhân do khói thải của hàng chục ngàn chiếc xe gắn máy động cơ hai thì, và của những chiếc xe hơi cổ lỗ sĩ như chiếc Citroen màu xám đời 1938 "15 mã lực traction avant" của tôi, "chiếc xe của tụi băng đảng" trong những phim Pháp cổ điển. Chiếc xe này gần bằng tuổi tôi, một tấn khối thanh lịch trên bánh xe - và luôn luôn khát xăng; nó cho tôi tối đa được 8 dặm mỗi ga-lông xăng. Đó là nếu bình xăng không bị rò rỉ, một điều mà anh thợ máy của tôi vẫn thường giải quyết mau mắn bằng cách trét kín lại với miếng kẹo cao su Wrigley ẩm ướt móc từ trong miệng ra.
Như quý vị sẽ thấy liền bây giờ, tình bạn giữa tôi với Đức và tình yêu của tôi dành cho chiếc xe được gắn bền chặt với nhau. Sự thật, chiếc xe cũng không hẳn là của tôi. Tôi đã thuê nó từ Josyane, một cô gái người Pháp khả ái nguyên là người được hãng cho thuê xe Hertz nhường quyền kinh doanh. Sau này tôi khám phá ra cô ta đồng thời cũng là gián điệp của một nhóm tình báo Tây Âu, trong đó có BND, một cơ quan Đức tương đương với CIA của Mỹ.
Tôi vẫn thường tự hỏi tại sao Josyane hay lén lút lục lọi những bản thảo trên bàn giấy của tôi mỗi lần cùng bạn bè đến
dự những buổi "trà dư tửu hậu" tại căn suite số 214 của khách sạn Continental Palace nơi tôi trú ngụ. Tôi đã mơ mộng phải chăng cô ta mê cái mã Đức trẻ trung thanh mảnh và những ly rượu mạnh Dry Martini của tôi? Cô ta không hề lộ ra là cô biết tiếng Đức, thế tại sao cô cứ muốn dán mắt vào những bản viết của tôi, nếu cô không hiểu chúng?
Giờ thì tôi đã rõ: cô ta là một con ma sói, theo lời viên xếp bộ phận Hòa Lan có lẽ là một trong những người tình của cô. Nhưng thế thì đã sao? Tôi mê cái xe của cô còn cô ta lại mê những ly Martini của tôi mà cô trao cho mọi người với một dáng dấp đáng yêu tuyệt vời. Cô có quyền đọc những bản thảo của tôi bất kỳ lúc nào, vả lại những mẩu tin này cũng để dành cho công chúng ai cũng có thể đọc được.
Nhưng tâm trí tôi lại tản mạn rồi. Chúng ta hãy cùng trở về với Đức. Em là một đứa bé tinh ranh 12 tuổi đầu với một nụ cười tinh nghịch làm tôi nhớ lại bản thân mình khi đồng tuổi em. Tôi cũng từng là một cậu nhóc trong một thành phố lớn thời chiến. Sự thực tôi không bụi đời như Đức, mặc dù những chiếc phóng pháo cơ Lancasters của Anh quốc và pháo đài bay Mỹ ngày đêm dội bom Leipzig trong những năm cuối cùng của Thế Chiến Thứ Hai đã cố hết sức bắt tôi phải đi theo con đường đó. Giống như Đức, tôi từng là một thằng bé tinh quái thành thị đã vươn lên làm xếp sòng những đứa khác trong xóm.
Tuy nhiên, Đức có những điểm khác tôi. Em là một đứa trẻ bụi đời có tinh thần trách nhiệm rất cao. Đức trông nom bảo vệ một nhóm trẻ mồ côi nhỏ hơn em sống trên khoảng đường Tự Do giữa đại lộ Lê Lợi và đường Lê Thánh Tôn. Đức báo cáo lại với một phụ nữ trung niên gọi là bà "Má" đóng đô trên lề đường bên ngoài quán La Pagode lừng danh với những món bánh Pháp, điểm hẹn nổi tiếng của đám "trẻ nhung lụa" của Sài Gòn trước thời kỳ Cộng sản. Bà Má là "trùm sò" mạng lưới phân phối báo chí của phần đất đó trong thủ đô. Bà ngồi chễm chệ trước cửa quán La Pagode bao quanh là từng chồng báo chí Anh, Pháp, Việt, Tàu; người Việt rất ham đọc báo. Đức và đám trẻ mồ côi cùng các nhóm lâu la khác được bà giao báo đi phân phối trong các khu vực lân cận.
Theo những gì tôi nhận xét được, Đức là đàn em đắc lực nhất của bà Má và là xếp sòng giao báo của góc tấp nập nhất trong khu vực của em. Giang sơn của Đức là vỉa hè giữa quán Givral, một tiệm ăn nổi tiếng với món mì Tàu và món súp hành Tây chánh hiệu nhất toàn vùng Đông Nam Á, và cổng ra vào thông qua khu thương xá Eden, hồi đó là nơi đặt trụ sở bộ phận lãnh sự của Tòa Đại Sứ Tây Đức và văn phòng hãng thông tấn Associated Press. Tôi nghĩ tôi là một trong những khách mà Đức ưa thích nhất bởi vì mỗi ngày tôi mua của em tờ Saigon Daily News và tờ Vietnam Guardian, rồi tờ Saigon Post và tờ Journal d'Extrême Orient. Thỉnh thoảng tôi còn để em dụ mua một vài tờ báo tiếng Việt, chẳng phải vì tôi có thể đọc nổi chúng nhưng vì tôi cảm thấy hiếu kỳ bởi những khoảng trống thường xuyên xuất hiện trên những tờ báo đó, trò
thủ công của nhân viên kiểm duyệt trong chính phủ.
Trong một buổi chiều muộn khởi đầu của mùa mưa, tôi và Đức đã trở thành bạn hợp tác làm ăn chung. Những đám mây lớn trên bầu trời nhiệt đới vần vũ sắp vỡ tung ra. Những mảng nước đe dọa sẽ giáng xuống tôi với sức mạnh của lưỡi dao máy chém và sắp biến con đường lưu thông chính của thành phố Sài Gòn thành một dòng sông chảy siết. Tội vội vã lái ép chiếc Traction vào một khoảng đậu chật hẹp bên ngoài quán Givral, một bài tập thể dục thật cực nhọc vì chiếc xe với động cơ điều khiển bánh trước không có hệ thống lái trợ lực và chạy bằng động cơ sáu máy đúc gang rất nặng nề. Kiệt sức, tôi tắt máy xe. Đúng lúc tôi đang mơ tưởng đến một chai bia Larue trong sân lộ thiên của khách sạn Continental Palace thì Đức chận tôi lại.
Cánh cửa chiếc Traction cũ kỹ mở ra phía trước, tức là ngược chiều với tất cả những chiếc xe tối tân hơn. Trong lúc tôi đang cố gắng lách mình ra khỏi xe, Đức đứng trước mặt tôi chỉ vào miếng giấy phép dán nơi kính chắn gió mới được tòa đại sứ cấp sáng hôm đó. Tấm giấy mang màu cờ quốc gia Đức, đen, đỏ và vàng, chứng nhận tôi là "Báo Chí Đức" tức phóng viên người Đức. Điều này nhằm bảo vệ tôi trong trường hợp đụng độ với Việt Cộng chặn đường trong những lần cuối tuần thỉnh thoảng vù đi chơi Cap Saint-Jacques, nay gọi là Vũng Tàu, một khu nghỉ mát ven biển được biết đến như St. Tropez của vùng Viễn Đông. Nó thực sự đã cứu tôi trong những ngày đó. Lần nào đụng nhằm toán tuần tiễu du kích Cộng sản mặc toàn đồ đen, họ đều bắt tôi đóng thuế nhưng cũng cho tôi đi, sau khi cấp cho tôi một biên lai có đóng dấu hẳn hòi.
"Ông Đức!" Em khoái chí la lên. "Tên tôi là Đức! Cả hai người mình đều là Đức, giống như anh em với nhau!"
Chúng tôi bắt tay nhau. Bây giờ tôi đã có một thằng em tại Sài Gòn. Sau này tôi học được là câu nhận xét đó còn có một ý nghĩa sâu hơn. Đó là một cách chơi chữ. Đức tiếng Việt còn có nghĩa là Đức hạnh.
Thiết lập xong mối giao hảo, Đức vẫn chưa cho tôi đi. "Ô-kê, Ô-kê," em nói. "Mưa tới nơi rồi, ông Đức, mưa năm bờ ten." Tôi biết tiếng lóng dân Sài Gòn vừa đủ để hiểu là đứa em mới thân này không ám chỉ đây là cơn mưa thứ "mười." Không, "năm bơ ten" có nghĩa là xấu nhất, các lỗ sụp, những cái gì đó phải tuyệt đối tránh xa.
"Ô-kê, Ô-kê," Đức tiếp. "Ông Đức, ông năm bờ oăn (số dách). Tôi với ông làm ăn chung nhé, Ô-kê?"
Sau đó thì em phác họa sự hợp tác giữa chúng tôi: Tôi cho phép em và đám trẻ mồ côi được trú ẩn trong chiếc Traction. Nó sẽ thành chỗ ngủ của họ, và chúng hứa sẽ giữ gìn thật sạch sẽ. Nếu tôi có muốn để lại thứ gì quý giá trong xe, chúng sẽ giữ gìn cẩn thận. Vả lại khóa xe không còn dùng được nữa, điều này Đức đã chứng minh rõ ràng rồi.
"Ô-kê, Ô-kê, ông Đức?" Em bồn chồn khẩn khoản.
Tôi gật đầu. Đức liền huýt gió và tức thì có tám đứa bé chạy túa ra từ những cánh cửa chung quanh và chen chúc vào chiếc Traction của tôi. Ba đứa cuộn vào băng sau, hai đứa khác thì nhẩy vào hai cái ghế phụ nơi chỗ để chân, mỗi đứa một bên, một bé gái chiếm ngay cái ghế trước bên phải, một đứa nữa thì chui vào khoảng trống phía dưới, còn anh chàng Đức thì đương nhiên ngồi vào đằng sau tay lái.
"Chúc ông Đức ngủ ngon, ông là năm bờ oan!" Đức nói, vừa đóng xầm cửa xe lại và quay kính lên.
Ngay lúc đó, cơn mưa đổ ụp xuống tôi và chiếc xe. Bọn trẻ đã an toàn rồi. Tôi thì ướt đẫm thấu xương chỉ trong vòng vài giây đồng hồ. Tôi chạy vội về khách sạn Continental, nghĩ bụng phải cần một cái gì đó khá hơn là một chai bia Larue mới được. Đầu tiên tôi vào phòng tắm rửa, rồi sau đó nhâm nhi một ly huýt-ky ngoài sân mái hiên. Khi màn đêm buông xuống tôi ngóng qua đường Tự Do nhìn về phía chiếc xe Traction kềnh càng với những cửa kính mờ hơi nước bên ngoài tiệm Givral. Cảnh tượng này làm tôi hài lòng. Mấy đứa trẻ đã được khô ráo và ấm áp. Trong tất cả những năm sống tại Việt Nam, tôi ít khi nào cảm thấy hạnh phúc như trong buổi chiều hôm đó, một cảm giác hiếm có trong cuộc đời của một phóng viên.
Tôi xin được dành cuốn sách này cho Đức bởi vì trong thâm tâm tôi, em tượng trưng cho những đặc tính đã tạo nên tình cảm và lòng ngưỡng mộ của tôi đối với người dân miền Nam Việt Nam, và sự cảm thông với họ sau khi bị bỏ rơi bởi những người đáng lẽ phải bảo vệ họ, lại còn bị phản bội bởi một số đồng nghiệp của tôi, mặc dầu không phải là tất cả. Giống như Đức, họ rất năng động và giỏi chịu đựng; họ không than vãn mà tự vươn lên được và chăm sóc cho nhau. Khi bị vấp ngã, họ lại trổi dậy nữa và thực hiện nhiều điều đáng kinh ngạc. Tôi rất ngạc nhiên trước những thành tựu của hàng trăm ngàn người miền Nam Việt Nam sống và làm việc gần nơi tôi cư ngụ tại miền Nam California.
Lòng tôi đầy cảm phục đối với các cựu thuyền nhân và những người sống sót qua những trại tù cải tạo cộng sản, các cựu chiến binh còn đang âm thầm đau khổ vì chứng rối loạn tâm thần sau chấn thương và các bệnh tật nghiêm trọng khác gây ra bởi tra tấn và chấn thương đầu trong chiến tranh.
Tôi mong mỏi tuổi thơ và cuộc sống trưởng thành của Đức cuối cùng sẽ là một câu chuyện thành công, nhưng tôi không rõ. 18 tháng sau cuộc gặp gỡ đầu tiên, chúng tôi mất liên lạc với nhau. Có khi nào em đã gia nhập quân đội miền Nam
Việt Nam và có thể đã tử trận trong lúc chiến đấu? Hay là em đã theo Việt Cộng và đã mất mạng vì phục vụ cho họ? Em có trong số hàng ngàn thường dân bị Việt Cộng thảm sát trong đợt tấn công Tết Mậu Thân 1968 hay không? Hay đứa trẻ tinh quái này đã xoay sở trốn thoát ra khỏi quê hương sau chiến thắng của cộng sản năm 1975? Cũng có thể em còn sống trong lúc tôi đang viết những dòng chữ này và là một doanh nhân 58 tuổi thành đạt tại thị xã Westminster, California, hoặc một chuyên viên thành công đang sống ngay đầu ngõ nhà tôi? Có lẽ em đang đọc cuốn sách này?
Tôi nghĩ về Đức khi một cặp vợ chồng bạn Việt Nam tuyệt vời, Lý Văn Quý và cô vợ Quỳnh Châu, được biết đến nhiều hơn qua tên Jo, đã mời tôi phát biểu trong một buổi hội nghị của những cựu sĩ quan quân y quân đội miền Nam Việt Nam. Lâu nay họ vẫn thúc giục tôi viết lại những ký ức thời chiến tranh. "Ông phải làm điều đó cho chúng tôi," họ nói. "Cho những thế hệ con cháu của chúng tôi. Chúng muốn biết những gì đã xảy ra. Ông có được sự uy tín đặc biệt vì là người Đức và không bị thua thiệt với phía nào trong cuộc chiến này." Và rồi, sau khi nghe tôi kể lại những giai thoại, chẳng hạn như câu chuyện gặp gỡ của tôi với Đức, một số các vị bác sĩ, nha sĩ và dược sĩ đã nghỉ hưu trong số khán giả cũng thốt lên điều tương tự, và phân tán bài nói chuyện của tôi trên mạng Internet.
Tôi không mong viết lại lịch sử của cuộc chiến Việt Nam hay thậm chí tổng kết lại toàn bộ thời gian sau gần năm năm sống tại Đông Dương, trước hết với tư cách là phóng viên cho tập đoàn Axel Springer Group của báo chí Đức và sau đó là biên tập viên không thường trực của Stern, một tạp chí có uy tín đóng trụ sở tại Hamburg. Tôi xin các độc giả đừng trông đợi tôi đứng về phe nào trong các xung đột nội bộ của những thành phần trong miền Nam Việt Nam, phần nào vẫn còn tiếp diễn trong những cộng đồng lớn của các lưu dân Việt Nam. Khi tôi nhắc đến cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ chẳng hạn, điều này không có nghĩa là tôi ủng hộ ông ta hơn là Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, hoặc ngược lại. Tôi ở đây chỉ để kể chuyện, trong đó bao gồm một số về ông Kỳ và một số khác về ông Thiệu mà không có nhu cầu phê phán ai hết. Số phận của họ chẳng ai ham muốn cả, nhưng họ đều đáng được tôi trân trọng vì đã dám đứng ra nhận lãnh những trách nhiệm nặng nề.
Như tôi đã bày tỏ trong đoạn thứ nhất của chương mở đầu này, tôi không hoan nghênh chiến thắng của Cộng sản năm 1975. Họ xứng đáng để hưởng chiến thắng này một cách cũng nhỏ nhen như bọn Taliban ở Afghanistan cũng sẽ xứng đáng được hưởng chiến thắng, mà tôi sợ rằng nó sẽ đến một khi lực lượng NATO phải rời bỏ quốc gia này. Cũng vì viễn cảnh nham hiểm này trong trí, khiến tôi đã viết nên cuốn sách này.
Ở Việt Nam, tôi đã từng là nhân chứng cho những hành động tàn bạo ghê tởm mà những người Cộng sản đã thực hiện như là một chính sách chung, là nhân chứng cho những vụ giết người hàng loạt và thảm sát; mà bên cạnh đó, những vụ vi phạm qui luật chiến tranh của phe Hoa Kỳ và miền Nam Việt Nam - rõ ràng không phải là một vấn đề chủ trương hay chiến lược - thật mờ nhạt khi so sánh chúng với nhau. Tôi biết là các phương tiện thông tin đại chúng Hoa Kỳ và quốc tế, các trường đại học đã bất công, tùy tiện và ngạo mạn khi nói xấu người miền Nam Việt Nam, và họ vẫn còn tiếp tục làm điều đó. Tôi đã ghê tởm về cách đối xử của những đồng hương của tôi đối với các cựu chiến binh GIs khi họ trở về và kinh ngạc trước sự kiện là những sự đau khổ liên tục của các cựu quân nhân miền Nam Việt Nam đã không được các báo chí Mỹ đánh giá một cách xứng đáng.
Cuốn sách này là một bộ sưu tập của những bản phác thảo riêng về những sự kiện tôi đã thấy, đã quan sát, đã từng trải qua và tường thuật lại trong những năm sống tại Việt Nam, và về những người tôi đã từng gặp. Đó là một loạt những câu chuyện xen kẽ nhau về những kinh nghiệm cá nhân mà phạm vi trải rộng từ điều khủng khiếp cho đến cái phi lý, từ các cuộc theo đuổi tuyệt vời đưa đến phù phiếm, từ nỗi tuyệt vọng đến niềm hy vọng. Tất cả các nhân vật được nêu ra trong cuốn sách này đều là có thật, tuy trong vài trường hợp tôi đã thay đổi tên nhằm bảo vệ họ và gia đình họ.
Việt Nam cũng đã tác động đáng kể dến cuộc sống tâm linh của tôi. Tiến trình này trải dài hàng chục năm và sẽ không được trình bày trong cuốn sách này bởi vì tôi có ý định sẽ giải thích nó cặn kẽ hơn trong một dạng hồi ký khác. Tuy nhiên tôi cũng muốn nhắc lướt qua trong phần mở đầu này. Những gì trải qua trong cuộc chiến Việt Nam đã từ từ đưa tôi trở về với niềm tin Thiên Chúa mà bà ngoại Clara Netto đã gieo vào đầu tôi trong hầm trú bom tại Leipzig trong lúc từng chùm bom rơi nổ chung quanh chúng tôi. Chính trong những giây phút kinh hoàng như vậy mà bà đã dạy tôi hãy đặt niềm tin vào Đức Chúa Trời. Bà đã ôm chặt và rót vào tai tôi những bản thánh ca Lutheran. Đặc biệt có một bài mà tôi còn nhớ mãi trong suốt quãng đời còn lại:
Hãy ở cùng chúng con, ôi Chúa Giê-Su kính yêu
Hãy ban cho chúng con sự ân sủng của Ngài
Để quỷ Satan không thể hãm hại
Và lòng chúng con không còn đắc tội nữa
Nếu bảo rằng vào những năm 1960 trong tôi tràn đầy lòng tin Thiên Chúa thì không đúng sự thật. Giống như các bạn đồng trang lứa, tôi đã sa ngã trong một cuộc sống hoang đàng đầy những thú vui trần tục mà trong đó hút thuốc lá không ngừng tay chỉ là thứ ít độc địa nhất. Dường như nhựa ni-cô-tin đã có một tác dụng gây tê trong những tình huống chiến đấu, theo như lời xác nhận của hầu hết các binh sĩ ngoài tiền tuyến và các phóng viên chiến trường. Tấm hình ngoài bìa cuốn sách này chính là bản thân tôi đang nhăn nhó ngậm một điếu thuốc được chụp trong một phút tạm ngừng giao chiến trong biến cố Mậu Thân năm 1968. Chúng tôi đã chọn tấm hình này vì tính xác thật và hiện thực của nó. Đây là bộ dạng của một người khi đã chứng kiến những người khác chết chung quanh trong nhiều ngày đêm. Đây là hình ảnh của tôi lúc còn là một chàng trai trẻ bị đẩy vào một hoàn cảnh đáng sợ không thể nào quên được và điều đó đã định đoạt chặng đường còn lại của đời sống bản thân tôi.
Dạo đó tuy sống theo chủ nghĩa khoái lạc nhưng tôi không bao giờ là một kẻ vô thần. Tôi vẫn đọc lời nguyện Thiên Chúa đều đặn, ngân nga trong đầu đoạn mở đầu lời dâng lễ Lutheran dựa trên Thi Thiên 51, “Đức Chúa Trời ôi! xin hãy dựng nên trong tôi một lòng trong sạch, Và làm cho mới lại trong tôi một thần linh ngay thẳng. Xin chớ từ bỏ tôi khỏi trước mặt Chúa, Cũng đừng cất tôi khỏi Thánh Linh Chúa.”
Mỗi lần bị rơi vào một tình huống chiến trận nặng nề hay nắm tay một người lính nào đó đang lìa trần, tôi vẫn thường thốt lên lời nguyện cầu: Lạy Chúa rủ lòng thương!
Ngày nay tôi rất cảm kích đã được trở lại với niềm tin phụng vụ phong phú của Giáo Hội Lutheran vùng Saxony. Những lời giảng trích từ Kinh Thánh đã ăn sâu vào tâm khảm tôi. Tuy nhiên ngày đó, theo gương thánh Augustine, tôi đã bỏ mặc Thiên Chúa ngoài phòng chờ của cuộc đời vì sự hấp dẫn của các kiều nữ tóc đen mà vòng tay đã an ủi các phóng viên chiến trường chúng tôi. Các món ăn và rượu của các nhà hàng Tây tại Sài Gòn quá sức tuyệt vời, cũng như tình bạn dí dỏm của các đồng nghiệp người Anh của tôi.
Sau đó vào năm 1973, năm mà người Mỹ quay lưng lại với Nam Việt Nam, tôi đã thật sự kinh ngạc khi nhận thấy mình đang tuyên xưng đức tin Thiên Chúa trong một môi trường hết sức phi lý và vô thần của một phòng tin tức Đức mà tôi làm tổng biên tập. Những hoàn cảnh về một sự nhận thức bất ngờ này trong lúc tranh luận gay gắt với các thành viên cực tả trong khối nhân viên của tôi sẽ là một đề tài vui nhộn trong một chương của một cuốn sách khác. Không cần phải nói nhiều, đó là một bước ngoặt của cuộc đời tôi mà sau đó, sau nhiều cám dỗ và xung đột nội tâm, tôi đã ghi danh học tại trường Thần học Lutheran tại Chicago mười ba năm sau.
Tựa như cách trị dĩ độc trị độc, Việt Nam đã từ từ biến đổi tôi. Thoạt đầu tôi tưởng chừng như đã được ơn gọi sắc phong mục sư. Nhưng cô vợ Gillian sắc sảo của tôi đã làm tôi tỉnh ngộ rằng bản tính ngông cuồng cộng thêm kinh nghiệm đau thương của một phóng viên chiến trường sẽ có khả năng làm tan tành bất cứ cộng đoàn nào chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Nàng nói: "Chỗ của anh không phải nơi bàn thờ hay cái bục giảng mà là cái băng dài phía sau để anh có thể chuồn ra quán rượu gần nhất khi nghe một bài giảng kém cỏi," Và cô ta hoàn toàn đúng.
Tuy nhiên trước khi chọn con đường sư phạm Thần học đầy khó khăn, tôi đã ghi danh vào chương trình giáo dục mục vụ lâm sàng. Đó cũng là một điều kiện tiên quyết để được thụ phong tại Hoa Kỳ. Tôi tham gia khóa học này tại Bệnh viện Cựu chiến binh St. Cloud, Minnesota, nơi mà tôi xin các cấp trên cho tôi được chăm sóc các cựu chiến binh Việt Nam. Ngay lập tức tôi đã gặp hàng loạt những người đàn ông đau khổ thuật lại cho tôi sự đối xử tàn nhẫn đến tận xương tủy của dân chúng, nhất là giới phụ nữ. Mọi người đều hắt hủi họ. Tôi nhận thức ra là hầu hết đều cho rằng Chúa đã từ lâu đày họ xuống địa ngục đời đời. Họ cho biết Chúa đã ruồng bỏ họ tại Việt Nam.
Điều này đã khiến tôi có một khởi điểm tuyệt diệu để chăm sóc mục vụ cho họ, đặc biệt là tôi đã tập trung rất nhiều vào nhận thức của Dietrich Bonhoeffer về Thần học Thập giá của phái Lutheran trong các công trình nghiên cứu của tôi. Cùng với Bác sĩ Tâm lý học James Tuorila của Bệnh viện Cựu chiến binh, chúng tôi đã thành lập các nhóm điều trị 30 người, từ binh nhì cho đến trung tá. Tôi cho họ đọc cuốn sách của Dietrich Bonhoeffer tựa đề "Các bức thư và bài viết từ trong ngục tù." Điều đã khiến họ sửng sốt nhất trong cuốn sách chấn động này là sự nhấn mạnh của Bonhoeffer về lời Chúa Giê-Su đã nói với các môn đồ tại vườn Ghết-sê-ma-nê: "Thế thì các ngươi không tỉnh thức với ta trong một giờ được sao?” (Ma-thi-ơ 26:40). Bonhoeffer viết: "Đây là một sự đảo ngược của tất cả mọi thứ mà một người mộ đạo trông mong nơi Chúa. Con người đã được ơn gọi để chia sẻ sự đau khổ cùng với Chúa trong một thế giới vô thần."
Đây là lần đầu tiên các cựu chiến binh đã được giảng về một sự thật căn bản của Thiên Chúa Giáo: Người Ki-Tô giáo được ơn gọi để cùng chịu đau khổ với Chúa trong thế giới này như là một hành động môn đồ. Niềm đau đớn của họ tại Việt Nam và khi trở về nhà chính là cái thánh giá mà Chúa đã đặt lên vai họ. Nhưng điều này có nghĩa là chính Chúa cũng đã chịu đau đớn trong cái thế giới vô đạo mà những chiến binh đã trải nghiệm hàng ngày. Như vậy, Chúa đã không từ bỏ họ như họ nghĩ. Ngược lại, Chúa đã chia sẻ với họ, là bạn đồng hành với họ vậy.
Tôi đã thâu băng lại những cuộc thảo luận, hiệu đính và phê bình thêm, sau đó chuyển thành luận án Thạc sĩ của tôi tại Chicago và trình lại với trường Thần học Lutheran. Vào những năm 1990, bài luận án này đã được viết thành sách cho đến nay vẫn còn lưu hành và được sử dụng như là một cuốn sách giáo khoa để chăm sóc mục vụ cho các cựu chiến binh.
Sau đó, tôi đã tìm thấy một cơ hội khác để khai thác về đề tài Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp Thạc sĩ tại Chicago, tôi được chuyển qua trường Đại học Boston để học Tiến sĩ liên ngành về Thần học và Xã hội học về tôn giáo. Điều này đã gây cho tôi sự chú ý về một hiện tượng xã hội học về tư duy: tính cách khuôn sáo.
Được sử dụng như một phép ẩn dụ trong tư tưởng, các khuôn sáo khác biệt ở chỗ chúng có "khả năng đi tắt qua sự suy nghĩ và do đó, tác động một cách vô thức vào trong tư tưởng, đồng thời loại bỏ các khả năng liên tưởng trong phán đoán." (Theo nhà xã hội học Hòa Lan Anton Zijderveld trong cuốn "Bàn về các khuôn sáo," nhà xuất bản London 1979). Zijderveld viết: "Các khuôn sáo của xã hội này đã nằm sẵn trong tiềm thức của con người, sẵn sàng được tác động và mang ra sử dụng."
Các khuôn sáo, hay khuôn mẫu do đó đã trở thành "những thùng chứa kinh nghiệm cũ" và "trở nên cũ rích và tầm thường vì bị dùng đi dùng lại quá độ," ông tiếp. Chúng được trao đổi " giống như những đồng tiền kẽm trong cái nền kinh tế lạm phát của chúng ta." Một khuôn sáo phải được xem như là "một cái mẫu mã của cách diễn tả nơi con người, tuy đã bị mất hết tính độc đáo nguyên thủy cũng như sức mạnh về chữ nghĩa của nó, nhưng lại dành được chức năng về xã hội."
Zijderveld trông thấy một mối liên quan chặt chẽ về khuôn sáo và tính tân thời. Trong bài luận án Tiến sĩ, tôi đã diễn tả điều này sâu hơn nữa. Nếu Zijderveld đúng thì sự suy nghĩ theo khuôn sáo chính là anh em sinh đôi với phong trào Zeitgeist cũng không chấp nhận bất cứ một hình thức tương đối nào cả. Phong trào Zeitgeist có đặc tính chung với khuôn sáo mà Zijderveld đã diễn tả: "Chúng trở thành độc đoán vì các khuôn mẫu rất khó tránh khỏi trong một xã hội tân thời hết mức; chúng dễ bị trở thành các mẫu mực cho ý thức và ăn sâu vào trong cơ cấu của đời sống văn hóa xã hội và chính trị.
Thực sự mà nói , Việt Nam không phải là đề tài chính của bài luận án của tôi, trong đó tôi đã phản bác ý tưởng khuôn sáo phổ cập cho rằng Martin Luther đã dẫn đường cho Adolf Hitler. Tôi đã thực hiện chuyện này bằng cách nêu ra nhiều giá trị tương đối khác phản bác lời phỉ báng đáng khinh đó. Tuy nhiên trong cuốn sách này, tôi muốn làm một điều tương tự liên quan đến Việt Nam, tuy không dùng phương pháp khoa học nhưng bằng cách liên hệ đến những kinh nghiệm và nhận xét riêng tư.
Bốn mươi năm sau khi Cộng sản xâm chiếm Sài Gòn, một ý tưởng khuôn sáo nổi cộm đã đè nặng lên tâm thức tập thể của mọi người: cái khuôn sáo phi lý cho rằng chiến thắng này của Cộng sản, thành tựu được là do các phương tiện tra tấn và giết người hàng loạt, lại là một hành động giải phóng, tức là một điều hay ho. Do tính cách độc đoán của nó như Zijderveld đã nêu ra, ý tưởng khuôn sáo này đã không công nhận bất cứ yếu tố tương đối nào trong các dạng mà tôi sẽ mô tả hết sức tượng hình nhằm mục đích đối đầu lại với một sự dối trá mang tính lịch sử.
Tuy nhiên để nhắc nhở các độc giả và bản thân tôi rằng cuối cùng đây là một cuốn sách về một cuộc chiến tranh bi thảm được kết thúc bằng sự thất trận của các nạn nhân của kẻ xâm lược, cứ sau một vài chương tôi sẽ chen vào một đoạn hồi tưởng nhằm nhấn mạnh ý niệm này, bắt đầu bằng sự mô tả vụ giết người hàng loạt mà Cộng sản đã thực hiện trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968.
Tôi biết ơn nhiều người, đặc biệt là hai người bạn trung thành là Quý và Jo, đã luôn đứng đằng sau lưng hỗ trợ về mọi mặt trong lúc tôi khổ cực hoàn thành bản thảo cuốn sách này. Mỗi lần tôi viết xong một chương, Quý đã dịch ngay lập tức qua tiếng Việt với sự giúp đỡ của người bạn Nguyễn Hiền. Các anh đã thực hiện bản in, trang trí bìa và cung cấp cho tôi những lời khuyên hữu lý về các vấn đề văn hóa và lịch sử. Tôi rất hãnh diện trở thành một thành phần trong gia đình cổ truyền Việt Nam của Quý và Jo tại Quận Cam. Tôi cảm ơn anh họ của Quý là Tôn Thất Di và người vợ tên Trân là những người đã tiếp xúc với tôi lần đầu tiên khi tôi dọn về miền nam California và đã giới thiệu cho tôi đến với khối cộng đồng lớn đầy tính năng động của người Việt tại Quận Cam:
Điều hiển nhiên là tôi biết ơn Đức, người em vắng mặt, và vô số bạn bè Việt Nam, Mỹ, Pháp, Anh và Đức mà tôi đã kết thân tại Việt Nam. Tôi cũng muốn cảm ơn các cựu chiến binh Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh Việt Nam mà tôi đã phục vụ trong cương vị một giáo sĩ tập sự tại Trung Tâm Y Tế VA ở Saint Cloud, Minnesota, và những bác sĩ tâm lý, các mục sư
đã cùng tôi làm mục vụ chung để giúp đỡ phần hồn cho các cựu chiến binh đó. Tôi hết sức cảm ơn anh bạn Perry Kretz
đã cho phép tôi được phổ biến trong cuốn sách một số hình ảnh tuyệt vời của anh từ chuyến làm phóng sự chung tại Việt Nam vào năm 1972.
Tôi cũng cảm ơn người bạn biên tập viên Peggy Strong và, đầu tiên và quan trọng nhất, Gillian, người vợ 50 năm của tôi đã luôn sát cánh bên tôi và đã từng chịu đựng những khoảng thời gian dài chia lìa vì công vụ của tôi tại một xứ sở huyền diệu đã bị chiến tranh tàn phá mà tôi rất yêu thương.
Uwe Siemon-Netto
Laguna Woods, California, tháng 01 năm 2015
Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y
hoài vọng
01-14-2017, 09:09 PM
Có một số phóng viên ngoại quốc chỉ ngồi ở Sài gòn ( mà báo chí thời đó đặt tên là đài radio Catina ) viết theo tôn chỉ của chính phủ Hoa Kỳ ...những gì lợi cho Mỹ ...để dẫn dắt công chúng Hoa Kỳ ...nếu như phóng viên chụp ảnh , viết về Đại Lộ Kinh Hoàng thì mấy chuyện Mỹ Lai chỉ nhỏ bé như hạt cát.
Triển
01-15-2017, 11:52 AM
Chính phủ VNCH thiếu mấy ông như Thích Nhất Hạnh chịu khó làm việc cho phe quốc gia. Đi vòng vòng bên ngoài tố khổ Đại Lộ Kinh Hoàng thì cũng đâu cần gì phóng viên chiến trường của Mỹ.
thuykhanh
01-15-2017, 10:11 PM
Có một số phóng viên ngoại quốc chỉ ngồi ở Sài gòn ( mà báo chí thời đó đặt tên là đài radio Catina ) viết theo tôn chỉ của chính phủ Hoa Kỳ ...những gì lợi cho Mỹ ...để dẫn dắt công chúng Hoa Kỳ ...nếu như phóng viên chụp ảnh , viết về Đại Lộ Kinh Hoàng thì mấy chuyện Mỹ Lai chỉ nhỏ bé như hạt cát.
Những người lính Mỹ ở Việt Nam về cũng bị đối xử tệ lắm anh Hoài, có dịp tôi sẽ xin kể về mấy người mà tôi đã làm việc cùng.
thuykhanh
01-15-2017, 10:36 PM
Chính phủ VNCH thiếu mấy ông như Thích Nhất Hạnh chịu khó làm việc cho phe quốc gia. Đi vòng vòng bên ngoài tố khổ Đại Lộ Kinh Hoàng thì cũng đâu cần gì phóng viên chiến trường của Mỹ.
Năm 2004 qua Đức lần đầu, có nghe nhắc đến vườn Mai, vườn Hồng gì đó; tk chỉ im lặng.
Sách đến chiều hôm qua, anh à.
Những người trẻ sanh sau 1975 không biết vụ thảm sát Tết Mậu thân là do Việt Cộng gây ra.
Mấy đứa cháu qua đây học cũng không biết gì về trận chiến ở biên giới Việt Trung năm 1979.
Triển
01-16-2017, 12:54 AM
Những người trẻ sanh sau 1975 không biết vụ thảm sát Tết Mậu thân là do Việt Cộng gây ra.
Chị ơi, cha mẹ chúng nó còn không dám nghĩ tới huống gì mang những tội ác khiến "dải khăn sô cho Huế" xuất hiện ra nói chuyện trong nhà. Cả nói chuyện về các vụ thảm sát của VC cũng không dám nói, vì sợ con cái mình ra đường phát biểu "bậy bạ không đúng chánh sách" là bị mời lên phường "làm việc". Thử hỏi trẻ con nào sanh sau đẻ muộn mà ..... "dám" biết? Chẳng trách ai được, sống trong sóng chén nào thì phải ráng khua theo cho đúng nhịp không thì bể dĩa bể tộ. Những ông những bà mà nói super hay ho ba cái chuyện lý thuyết, thì bỏ chạy ra nước ngoài ráo trọi từ năm 1975 tới nay. Người ở lại thì phải liệu cơm mà gắp mắm thôi.
Mấy đứa cháu qua đây học cũng không biết gì về trận chiến ở biên giới Việt Trung năm 1979.
Vụ này thì hơi lạ. Vụ năm 1979 Việt cộng và Trung cộng đập lộn đáng lý ra phải biết chứ. :)
hoài vọng
01-16-2017, 02:44 AM
Các cựu chiến binh vc còn không được làm lễ tưởng nhớ , mới đây chủ tịt TĐQ đã tuyên bố trên ti vi ...kiên quyết giữ gìn biển , đảo toàn vẹn....lời của ông Thiệu muôn đời vẫn đúng !
thuykhanh
01-16-2017, 08:38 PM
** tk xin đăng tiếp bản dịch của chương 15, mời Phố đọc:
Tình Yêu của Một Phóng Viên Cho Một Dân Tộc Nhiều Đau Thương
Chương 15: Tết Mậu Thân 1968: Hoả Ngục Huế
Bản dịch của Lý Văn Quý & Nguyễn Hiền
Nguồn: Diễn đàn Cựu Sinh Viên Quân Y
Đà Nẵng là một thành phố khốn cùng vào đầu tháng 2 năm 1968. Lạnh lẽo và mưa phùn chẳng khác nào như tôi vừa bay đến một vùng Bắc Âu. Các đường phố vắng tanh, ngoại trừ xe quân đội. Tôi đã ôm ấp hy vọng được qua đêm trên chiếc Helgoland tại Đà Nẵng để biết tình trạng chiếc tầu này ra sao trong vụ Tổng công kích Mậu Thân và được ăn thức ăn Đức bổ dưỡng mà tôi đang thèm. Từ lúc rời khỏi Viên Chăn tôi chưa hề có được một bữa ăn ra hồn nào. Tuy nhiên, viên thuyền trưởng đã khôn ngoan mang chiếc tầu ra vùng an toàn của hải phận quốc tế rồi.
Vì vậy tôi đến trại báo chí MACV, tuy thiếu hấp dẫn nhưng có một nhà ăn tạm được và một quầy rượu rất đầy đủ. Tôi gọi một ly Dry Martini, ăn một miếng steak kèm một chai rượu vang, đi tắm nước nóng và cảm thấy sẵn sàng cho một cuộc phiêu lưu mà sau này hóa ra không thể có những thứ xa xỉ này trong một thời gian nữa. Trời vẫn còn tối khi tôi gia nhập một đoàn xe TQLC Hoa Kỳ sáng sớm hôm sau. Tôi bận hai bộ đồ trận chồng lên nhau, chẳng bao lâu sau còn tròng thêm một cái thứ ba nữa và tôi hài lòng là chiếc áo giáp còn giúp tôi ấm thêm chút ít.
Một số nhà báo từ trại báo chí đã can đảm dùng đường bộ đầy nguy hiểm đến vùng phụ cận của cố đô Huế vẫn còn nằm trong tay của Cộng quân. Vì đây là cơ hội tốt nhất để chúng tôi có thể sớm đến nơi đó. Màn mây rất thấp và tình hình an ninh chung quanh phi trường Phú Bài bất ổn đến nỗi chúng tôi có thể sẽ phải chờ đợi nhiều ngày để có được một cái vé đi máy bay quân sự.
Trước khi được phép leo lên xe vận tải, mỗi người trong chúng tôi được phát một khẩu M.16. "Chúng tôi biết là điều này trái với thông lệ," viên thượng sĩ giải thích, ý nói là Hiệp định Geneva quy định là phóng viên chiến trường không được mang súng. "Nhưng," ông ta nói thêm, "Chúng ta sẽ phải đi qua những vùng hết sức nguy hiểm và có thể bị phục kích. Trong trường hợp đó quý vị phải tự bảo vệ lấy. Vậy quý vị có hai sự lựa chọn: mang theo súng hay ở lại phía sau."
Chúng tôi đến Phú Bài phía Nam Huế không hề hấn gì, ngoại trừ một cảnh tượng đã làm nổi dậy tính hài hước của tôi. Ngồi cạnh tôi đàng sau chiếc xe vận tải có một cặp phóng viên tạp chí Stern gồm một nhiếp ảnh gia và một ký giả. Người chụp hình là Hilmar Pabel, một trong những người nổi tiếng nhất trong nghề chụp ảnh của giới báo chí Đức, và là một cựu chiến binh lão luyện phi thường . Bức hình chụp tôi trên bìa của cuốn sách này chính là tác phẩm của anh. Hilmar đã chụp nó trong một lúc tạm lắng giao tranh trong khu phố ở Huế.
Tay đồng nghiệp của anh là một chuyện khác. Hắn là một ký giả trẻ tuổi người Áo đặc trưng cho cái khuôn mẫu tả khuynh thổ tả đã từng nhiễm độc đời sống trí thức Tây Âu vào thời gian đó để đạt đến cực độ với cuộc nổi dậy của giới sinh viên trong đại nạn tháng 5 năm 1968 tại Paris, và nó đã lần lượt nhiễm độc toàn bộ lục địa và một phần lớn những gì còn lại của thế giới Tây phương.
Tên hắn là Peter Neuhauser. Bỏ qua cái ý thức hệ Mác-xít thì hắn lại là một gã vạm vỡ dễ mến không khác gì những người lính TQLC mà chúng tôi đang tháp tùng đi chung. Vì vậy họ rất thích hắn mà không hề biết gì về quan niệm thân cộng của hắn cả. "Anh trông giống như bọn tôi lắm," đám lính nói. "Chỉ cần cắt cái mái tóc thôi," họ tiếp. Do đó khi chúng tôi đến tiền trạm của Sư đoàn 5 TQLC Hoa Kỳ đàng sau phi trường Phú Bài, họ lôi Peter vào một cái lều, cạo cái đầu hắn, dí một cây M.16 vào tay hắn và reo lên khoái trí: "Chào mừng Trung sĩ mới của chúng ta!" Từ đó thì họ gọi hắn là "Gunny," và Peter dưới mắt bao nhiêu người, gã Peter thân cộng này lại có vẻ thích thú với "cấp bậc" mới của mình vô cùng, mà ta có thể thấy rõ qua các bức hình Hilmar Pabel đã chụp cho hắn. Điều này đã chẳng giúp được gì cho sự nghiệp của hắn. Những tấm hình chụp Neuhauser trong tư thế tác chiến cùng với những tấm khác cụ thể hơn trong bộ sưu tập phim của Pabel rốt cuộc đã đến văn phòng chính của tạp chí Stern tại Hamburg vài ngày sau đó và đã gây phẫn nộ trong các đồng nghiệp của hắn. Không một ai thấy có gì buồn cười cả. Hắn không bao giờ được phái đi công tác ở ngoại quốc nữa.
Sáng hôm sau, khi Peter và tôi tháp tùng một tiểu đoàn TQLC vật vã tác chiến từng tấc đất vào Huế, hắn có vẻ được giác ngộ, dù chỉ là trong khoảng khắc. Trên con lộ dẫn vào cố đô của Việt Nam chúng tôi thấy cơ man các xác chết của dân thường, riêng rẽ hay từng nhóm, toàn là phụ nữ, cụ già và trẻ em. Họ đều ăn mặc tươm tất nhân dịp đầu năm mới. Qua vị thế của các tử thi chúng tôi thấy có nhiều phụ nữ đã cố gắng dùng thân mình để che chở cho con, chống lại bọn sát nhân.
"Bọn Cộng sản bạn mày đã làm điều này, Peter!" Tôi mắng Peter một cách tàn nhẫn.
Mặt hắn biến sắc trắng bệch. "Chắc chắn không phải đâu," Nó trả lời, "Những người này bị máy bay Mỹ giết."
"Không đâu, Peter, thương vong vì không tập chẳng như thế này," tôi vặn lại, "Trông những vết thương trên đầu và trên mình mẩy họ kìa. Nhìn cách một số người phụ nữ đang giơ tay che mặt đi. Họ bị bắn ở cự ly rất gần. Tin tôi đi, tôi đã thấy chuyện này rồi: Đây là thành tích của những toán chuyên giết người. Những gì chúng ta đang thấy đây là bằng chứng tội ác chiến tranh. Những người này đã bị thanh toán vì bất cứ lý do điên rồ nào đó mà bọn Cộng sản phải thủ tiêu cả đàn bà, trẻ em và người già.
Peter Neuhauser giữ im lặng, nhưng tôi biết đã không thuyết phục được hắn. Chính hắn đã xác nhận với tôi khi chúng tôi gặp lại nhau vài tháng sau tại Hamburg. Neuhauser qua đời vài năm sau đó vì nguyên nhân tự nhiên, nhưng vẫn trong tâm trạng tả khuynh không sao cứu vãn được. Suốt vài chục năm sau, thỉnh thoảng tôi cảm thấy một nỗi buồn đau đớn là mặc dù đã chứng kiến hàng loạt người vô tội bị thảm sát trên con lộ đến Huế, vậy mà điều này vẫn không lay chuyển nổi tâm trí của một gã mà đáng lẽ ra là một con người dễ mến này.
Những ngày bên cạnh hắn đã dạy tôi một trong những bài học đáng sợ trong sự kiện Tết Mậu Thân là: chẳng có gì, ngay cả những bằng chứng không thể chối cãi nhất, có thể mong làm thay đổi tốt được những ý tưởng cố chấp về ý thức hệ.
Phú Bài và Huế chỉ cách nhau khoảng 10 dặm nhưng chúng tôi mất gần một ngày trời để vào đến khu trại MAVC gần bờ Đông Nam của dòng sông Hương có lẽ đã được đặt tên sai. Các cuộc đụng độ lẻ tẻ thiếu không trợ vì thời tiết bay xấu và nhu cầu phải dọn dẹp các xác chết trên đường đã khiến chúng tôi bị chậm trễ. Doanh trại nằm trong khu vực mới của thành phố, xây dựng theo lối Âu Châu với những đại lộ rộng rãi và những căn biệt thự kiểu Pháp đầy tiện nghi, một cơ sở Cercle Sportif, tức Câu lạc bộ Thể thao xinh xắn và một cư xá đại học với những tòa nhà chung cư theo phong cách thập niên 1950 cho nhân viên giảng huấn được xây dựng theo kiểu mẫu xấu xí đặc thù trong thời kỳ đó của các dự án gia cư rẻ tiền đầy rẫy ở vùng ngoại ô phía bắc Paris.
Vào thời điểm chúng tôi đến, quân đội Hoa Kỳ và VNCH đã tạm ổn định phần nào khu vực này của thành phố, ít nhất là vào ban ngày. Trong khi đó thì Cổ thành với vòng thành nội vi hoàng gia, còn gọi là "Purple City" bắt chước theo kiểu mẫu Tử Cấm Thành Bắc Kinh vẫn còn nằm chặt chẽ trong tay Cộng quân.
Doanh trại MACV gồm một khách sạn khi xưa với khu vực ăn uống ở tầng trệt, phòng ngủ của sĩ quan ở hai tầng trên và một ngôi nhà phụ với 20 căn phòng. Bên cạnh tòa nhà phụ là những cái gọi là "hootches" tức những lều tạm bợ, khu vực mở rộng cho lính tráng. Khu vực này chật cứng với tạp nham đủ loại người khác nhau: quân nhân, ký giả, tình báo viên, nhân viên cứu trợ, nhân viên Việt Nam làm việc cho Mỹ và các viên chức chính quyền cùng gia đình tìm nơi trú ẩn tránh vùng giao tranh và tránh những toán ám sát của Cộng sản vẫn còn đang lùng sục để giết tại chỗ những người mà họ quy là phản động trong thành phố.
"Xin lỗi quý vị, chúng tôi hết giường tạm rồi, không còn chăn nệm nữa. Quý vị phải tự tìm lấy chỗ nằm thoải mái trên nền xi-măng này vậy," viên Trung sĩ quân nhu đón tiếp chúng tôi tại khu vực trước kia là nhà ăn nói. "Có khẩu phần C ở góc đàng kia và rất nhiều túi giấy đựng xác để quý vị giữ ấm. Lấy bao nhiêu cũng được. Tối nay sẽ lạnh lắm đấy."
Khu trại đóng cửa ban đêm. Nội bất xuất ngoại bất nhập. Chúng tôi nghe tiếng giao tranh mãnh liệt phía Bắc dòng sông nhưng thỉnh thoảng cũng có tiếng súng đụng độ ngay bên ngoài chu vi doanh trại. Tôi thu người vào khoảng trống chật hẹp giữa mấy gia đình người Việt, trải ba cái túi đựng xác xuống đất dùng thay nệm, phủ lên mình ba cái túi đựng xác khác đúng ra dùng để chuyển những binh sĩ tử trận, có những lỗ đánh dấu phía nào là đầu phía nào là chân. Tôi gối đầu lên cái ba lô. Những người bên cạnh tôi nói được tiếng Pháp. Họ thì thầm với tôi là trong cái ngày trước Tết các toán sát thủ Cộng sản đã đến từng căn nhà với danh sách những người sẽ bị xét xử trước cái gọi là tòa án nhân dân và sau đó thì hạ sát họ tại chỗ, không cần xét xử.
"Anh có nghĩ là những ông giáo sư người Đức có tên trong các danh sách đó không?" Tôi hỏi người đàn ông bên phải tôi.
"Chắc chắn là có, giống như các linh mục người Pháp và những người ngoại quốc khác. Họ đều bị dẫn đi," anh trả lời tôi.
Giữa đêm, hàng loạt tiếng súng liên thanh ngay trong khu vực gần nhất chúng tôi nổi lên tạch tạch tạch, tạch tạch tạch, tạch tạch tạch, tạch tạch tạch, tạch tạch tạch (5 lần)...
"Xử tử," người đàn ông Việt Nam bên tay phải tôi nói. "Súng AK-47 Kalashnikov."
"Sao anh biết?" Tôi hỏi.
"Bây giờ nghe tiếng súng này quen quá rồi. Vừa rồi không phải là đánh nhau. Đó là năm loạt súng từ một khẩu liên thanh - có chủ đích rõ ràng."
"Có gần đây không?" Tôi hỏi tiếp.
"Không xa hơn trăm thước đâu."
( còn tiếp)
Triển
01-16-2017, 10:02 PM
Chị TK chơi màn cọp dê từng đoạn cho đọc thèm chơi hở? :))))
MACV mà cứ viết thành MAVC.
https://macvteams.org/
Triển
01-16-2017, 10:47 PM
Lộn chút mà. Không bươi móc nha.:z14:
thuykhanh
01-16-2017, 10:52 PM
Chị TK chơi màn cọp dê từng đoạn cho đọc thèm chơi hở? :))))
Dạ không có, tk sợ dán nguyên chương dài quá, bà con mỏi mắt rồi không thèm đọc nữa.
thuykhanh
01-16-2017, 10:57 PM
MACV mà cứ viết thành MAVC.
https://macvteams.org/
Cảm ơn ốc đọc và chỉ ra chỗ sai, để tk sửa lại.:z57:
thuykhanh
01-17-2017, 09:47 AM
Tình Yêu của Một Phóng Viên Cho Một Dân Tộc Nhiều Đau Thương
Chương 15: Tết Mậu Thân 1968: Hoả Ngục Huế
Bản dịch của Lý Văn Quý & Nguyễn Hiền
( tiếp theo và hết chương 15)
40 năm sau, tôi kết bạn với anh Tôn Thất Di tại miền Nam California, anh có họ hàng xa với hoàng tộc. Chúng tôi thảo luận về biến cố Tết Mậu Thân 1968 tại Huế và khám phá ra là cha anh, hai người chú và hai người anh em họ khác có thể là nạn nhân của vụ thảm sát đêm hôm đó. Cha của anh Di tên là Tôn Thất Nguyên đã từng là thị trưởng thành phố Đà Lạt và sau đó làm công chức bộ Xã Hội tại Sài Gòn mà trụ sở tôi rất quen thuộc vì nằm sát cạnh tiệm cà phê La Pagode trên đường Tự Do.
Tháng Giêng 1968, Tôn Thất Nguyên bay đến Huế để ăn Tết với các anh em và các cháu tại biệt thự của họ. Di và tôi đã nghiên cứu tấm bản đồ Huế. "Đây là vị trí căn nhà họ," anh nói, chỉ vào một điểm không xa hơn 100 thước cách khu nhà ăn của trại MACV. "Chúng tôi chỉ tìm thấy lại xác của một ông chú. Do đó chúng tôi không thể làm đám tang cho ông cụ được."
Tôi không bao giờ biết được rằng tôi thực sự là nhân chứng nói của cái chết của họ hay đó là một vụ thảm sát khác, tuy nhiên khoảnh khắc đó nằm mãi trong trí nhớ của tôi, chủ yếu bởi vì nó được tiếp nối bằng một một kinh nghiệm siêu thực khác đã từng xảy ra quá nhiều với tôi tại Việt Nam: một con gì đó thật to, nóng ấm, kêu quàng quạc chui vào dưới ba chiếc túi đựng xác của tôi. Hóa ra đó là một con ngỗng trắng với cái mỏ màu vàng và lông xám hai bên cánh. Tôi lúc nào cũng thích ngỗng, nhất là khi chúng được quay và dọn với bắp cải đỏ vào dịp Giáng Sinh. Nhưng tôi chưa hề có được một con ngỗng nào chui rúc vào mình như vậy cả, mà con này có vẻ hoảng hốt cùng cực. Cùng với hàng đoàn ngưòi tỵ nạn Việt Nam con chim khiếp sợ này đã trốn vào khu trại Mỹ từ lúc đầu cuộc Tổng công kích Tết và chạy lạch bạch chung quanh khu đất từ đó, thỉnh thoảng kiểm tra những chỗ ngủ. Lính Mỹ đặt tên nó là Garfield. Như một con ngỗng canh gác, Garfield hằng đêm ra một điểm quan sát luôn luôn tại một chỗ cố định để dòm chừng ra ngoài đường. Nhưng khi nó nghe thấy tiếng súng nổ ngay ngoài cổng, nó đã hoảng hốt tìm chỗ núp ngay bên cạnh tôi. Tôi đuổi nó ra khỏi khu vực ngủ, cho nó về chỗ canh gác lại.
Lúc bình minh, nhóm phóng viên chúng tôi được phép rời khỏi doanh trại với điều kiện phải mang theo súng M.16 để tự vệ. Peter Neuhauser, Hilmar Pable và tôi nhận mỗi người một khẩu, nhưng theo đề nghị của tôi, chúng tôi đã cãi lệnh và giao lại súng cho lính canh ngoài cổng. Trên đường đến khu chung cư của các Giáo sư người Đức đã bị bắt cóc, tôi lý luận: "Thử hỏi nếu chúng ta chạm trán với một toán tuần tiễu Việt Cộng thì sao? Chúng ta sẽ bị chết ngay. Nếu không mang súng, ít nhất chúng ta còn vin cớ không phải là chiến binh, mặc dù chẳng biết có nghĩa lý gì với họ hay không."
Vừa run rẩy trong cơn mưa phùn lạnh lẽo, chúng tôi vừa đi bộ về hướng Tây đường Lê Lợi. Cái đại lộ từng là một con đường lịch sự giờ đây vắng ngắt và trông hết sức tiều tụy. Những căn biệt thự lỗ chỗ vết đạn, cây cối đổ nát hay bị gãy cành hết sống nổi.
Khi chúng tôi đến gần Câu Lạc Bộ Thể Thao, nơi mà thỉnh thoảng tôi vẫn ăn tối với các Giáo sư Đức và cũng là nơi mà bà Elisabeth Krainick thường đến bơi, tôi mơ màng hy vọng là một người hầu bàn trung thành sẽ có mặt để pha cà phê cho chúng tôi nhưng đó chỉ là một ý tưởng điên rồ. Không còn một ai nữa, không có ai ngoại trừ lính TQLC Hoa Kỳ vượt qua mặt chúng tôi trên xe jeep và thiết vận xa. Trong một lúc bầu trời mây che phủ sáng ra và chúng tôi nhìn qua phía bên kia sông Hương. Chúng tôi thấy lá cờ Việt Cộng màu đỏ xanh với một ngôi sao vàng ở giữa đang bay trên pháo đài và nghe cả tiếng giao tranh ác liệt nữa.
Khu chung cư gia đình Krainick đang ở nhìn qua kinh Phú Cam. Một chiếc xe tăng Mỹ cũng đậu ở mạn Bắc của khu vực này. Đùng! chiếc xe tăng nã một phát đạn đại bác qua bên kia con kinh. Đùng đoàng! Cả căn chung cư rung chuyển khi chúng tôi đang leo lên chỗ ở của gia đình Krainick trên lầu bốn. Có cả một trung đội TQLC đang đóng tại chỗ đó và căn phòng trông hoang tàn khủng khiếp. Quần áo, sách vở, tài liệu khoa học và giấy tờ riêng tư bị ném bừa bãi khắp nơi. Tôi hết sức bực mình thấy Peter Neuhauser lục lọi đống giấy tờ và lén bỏ vào túi một số hình ảnh của gia đình Krainick.
"Mày không mắc cở hả?" Tôi hỏi anh ta.
"Phải làm vậy thôi nếu anh làm việc cho một tạp chí hình ảnh," hắn lạnh lùng trả lời tôi và bỏ đi.
Tay Trung đội trưởng là một Thiếu úy 23 tuổi dáng dấp chắc nịch quê tại New Mexico. Nhìn thoáng qua, tôi biết ngay hắn là một gã ngốc và cách ăn nói cũng đúng như vậy. Anh ta dưong oai diệu võ trong một chiếc áo thun trắng, chẳng chịu mặc áo giáp hay đội nón sắt gì cả. Đùng! Chiếc xe tăng bắn thêm một quả nữa.
"Xe tăng bắn vào cái gì vậy?" Tôi hỏi anh ta.
Viên Thiếu úy dắt tôi đến một cánh cửa kính mở trông ra ban công và chỉ vào một căn biệt thự xây theo lối Tây bên kia con kinh:
"Bọn Việt Cộng bắn tỉa," anh ta nói. "Tụi nó đang bắn về phía chúng ta."
"Tại sao anh lại đứng đây với cái áo thun trắng, để làm mục tiêu tuyệt vời cho tụi nó sao?"
"Thưa ông, tôi là TQLC, được huấn luyện để chiến đấu và để chết."
"Có phải là dân đóng thuế bên Mỹ tốn cả nửa triệu bạc để đào tạo một sĩ quan chuyên nghiệp không?" Tôi thách thức anh ta. "Mặc dù anh không thiết mạng sống anh, bộ anh thật sự nghĩ là anh có quyền đặt cái vốn đầu tư đó một cách cẩu thả như vậy hay sao? Và tạo cơ hội để lính tráng mất người chỉ huy?" Anh ta nhìn tôi chẳng hiểu gì cả.
Khi tôi bước ra khỏi cửa chính đi xuống cầu thang thì tôi nghe thấy một tiếng thét hãi hùng như chưa từng nghe thấy bao giờ. Tiếng hét không mang giọng người. Tôi quay lại. Viên Thiếu úy loạng choạng tiến về phía tôi tay ôm ngực bên trái máu phun ra có vòi. Anh lảo đảo ngã xuống, lăn nhào xuống cầu thang và chết tức tưởi. Bọn bắn tỉa đã lấy mạng sống của anh.
Tôi đi ngang qua bệnh viện trường Đại học mà Giáo sư Horst-Günter Krainick, Bác sĩ Raimund Discher và Bác sĩ Alois Alteköster từng làm việc. 75 phần trăm cơ sở đã bị phá hủy trong cuộc xung đột. Nhìn thấy quân phục tôi, hầu hết những thường dân Việt Nam tránh ánh mắt tôi. Họ quá sợ bị trông thấy đang kết thân với một "người Mỹ," mặc dù bảng tên trên nón sắt của tôi xác định tôi là một phóng viên người Đức, Tây Đức giống như các bác sĩ đã thành lập nên cái trường Đại học Y khoa. Rõ ràng là họ ngại rằng bọn Cộng sản có thể trở lại và trả thù những người mà họ thấy đã hợp tác với kẻ thù – những người như tôi.
Một người đàn ông lớn tuổi lặng lẽ kéo tôi sang một bên để kể lại những câu chuyện kinh hoàng của những phiên tòa khôi hài được gọi là tòa án nhân dân. Nó được bọn Bắc Việt dựng lên để xét xử các cư dân thuộc tầng lớp quý tộc cũ, thành phần tư sản, các công chức VNCH, những người ngoại quốc, người công giáo tòa thánh La Mã, các linh mục, nói chung tất cả những ai bị nghi ngờ không đồng lòng với "Cách mạng."
"Họ không bị bắt một cách tình cờ đâu, thưa ông," ông ta nhấn mạnh, "Tên tuổi của những người đó nằm trên danh sách mà bọn cán bộ Cộng sản mang theo. Tại những phiên tòa như vậy, họ không có cơ hội để tự bào chữa. Họ bị tuyên án, mang đi và bị bắn bỏ."
"Có bao nhiêu người?"
"Làm sao biết được? Hàng trăm, hàng ngàn?"
Cho đến ngày hôm nay vẫn không có con số chính xác bao nhiêu nạn nhân. Những con số ước đoán vào khoảng từ 2.500 đến 6.000 người.
"Phần tệ hại nhất của cuộc tấn công này là khi giao tranh lan đến khu điều trị bệnh tâm thần," ông già tiếp tục câu chuyện. Ông không cho tôi biết tên tuổi hay chức nghiệp nhưng trông ông có vẻ là một người có học qua trường Tây. "Các bệnh nhân trở nên điền cuồng, họ chạy khắp nơi, đánh lẫn nhau trong cơn hoảng loạn. Ông không thể nào tưởng tượng được nó như thế nào. Nhiều người bị mất mạng vì họ không thể chạy khỏi lằn đạn hai bên bắn nhau. Thật giống như một cảnh tượng trong vở kịch Hỏa ngục của Dante."
"Lúc đó thì ông đang ở đâu?"
"Tôi trốn trong đám bệnh nhân, thưa ông, và làm bộ cũng là bệnh nhân vậy tuy thật sự không phải, và điều này đã cứu sống tôi."
Ông khuyên tôi nên đi qua thính đường chính của trường Đại học lúc đó đang chật cứng hàng trăm người vô gia cư, tất cả vẫn ăn mặc chỉnh tề, còn đang ở các trạng thái bàng hoàng với những nét mặt không còn cảm xúc gì nữa. Nhiều người bị thương và có rất ít, nếu có, các y tá và bác sĩ để chăm sóc họ. Không có nước máy, không có điện và không có cả phương tiện vệ sinh.
"Hãy qua bên trường Quốc học nữa," ông già nói với tôi và đây là một lời khuyên đúng. Ngôi trường Trung học tuyệt đẹp này nằm trên mạn Nam của dòng sông Hương là một trong những cơ sở tráng lệ nhất trong cả nước. Được thành lập bởi Ngô Đình Khả, phụ thân của Tổng thống Ngô Đình Diệm vào năm 1896 như là một viện giáo dục quốc gia ưu tú để dậy dỗ cho các hoàng tử và con cái các Đại thần có được một nền giáo dục hỗn hợp Pháp và Viễn Đông. Danh sách học sinh giống như danh sách "Who's Who" (Danh nhân) của nền chính trị Việt Nam, miền Bắc cũng như miền Nam. Ngô Đình Diệm đã từng học tại đó, Hồ Chí Minh cũng vậy dưới cái tên cúng cơm Nguyễn Sinh Cung, đồng thời có cả tướng Võ Nguyên Giáp cũng như Phạm Văn Đồng, con của một vị quan nhất phẩm triều đình.
Khi tôi đến khuôn viên trường, nó lại giống như một khu trại tỵ nạn nữa. Có ai nói với tôi là có khoảng 8.000 người tạm trú trong cái cơ sở đẹp đẽ đó, nhiều người run rẩy trong cơn giá lạnh chờ được phát thức ăn và nước. Mặc dù tôi không thể kiểm tra được con số đó nhưng thực tế là rất nhiều.
Trên đường quay về khu trại MACV tôi phát hiện ra hàng chữ vẽ nguệch ngạc trên tường của một căn biệt thự lớn. Hàng chữ viết "Cắt đầu Mỹ." Khi tôi nhìn kỹ hơn thì thấy chữ "Mỹ" chỉ mới thay chữ "Pháp" không lâu. Có lẽ tôi hơi nóng vội tiết lộ trước chương sau nhưng cái thông tin này phù hợp với chuyện vài tuần lễ sau, khi tôi đi thăm trở lại Huế thì cái khẩu hiệu này được đổi thành "Cắt đầu Cộng sản!"
Điều này cho tôi biết là sự ghê tởm đối với hành vi của Việt Cộng đã làm thay đổi niềm ghét bỏ người ngoại quốc của dân Huế nếu có, cũng như đã thay đổi tư tưởng bài ngoại khá mạnh mẽ tại đây. Tư tưởng bài ngoại khiến người Mỹ cho tới Tết 1968 đã phải giữ một thái độ thật âm thầm trong cái thành phố này. 25 ngày đêm chiến sự tại Huế, sự bắn giết, đập đầu đến chết và chôn sống hàng ngàn cư dân, đưa đến 116.000 người mất nhà cửa trong một dân số vỏn vẹn 140.000 đã mang lại cái kết quả thất bại nặng nề nhất đối với Cộng sản: nếu có lúc nào Cộng sản được lòng dân chúng Huế thì nay chúng đã mất hết rồi.
Tôi đi nhanh về trại MACV để điện thoại tường thuật câu chuyện cho bạn đồng sự với tôi là Friedhelm Kemna ở Sài Gòn, cũng như để báo tin cho Nam tước von Collenberg tại tòa Đại sứ tin tức cập nhật về các vị bác sĩ Đức. Chỉ có một đường giây điện thoại ra ngoài mà có cả một hàng dài người đang chờ đợi để gọi đi. Hai tiếng đồng hồ sau mới tới phiên tôi. Lúc đó tôi phải làm việc thông qua một loạt các cuộc trao đổi quân sự với hy vọng là các điện thoại viên đều thông thạo công việc. Thực tế không phải như vậy.
Tôi lớn tiếng thét lên trong điện thoại dã chiến: "Huế đây, làm ơn cho tôi Phú Bài! - Phú Bài, cho tôi Đà Nẵng! - Đà Nẵng, cho tôi Nha Trang! - Nha Trang, cho tôi Qui Nhơn! Qui Nhơn, cho tôi Tân Sơn Nhất! - Tân Sơn Nhất, cho tôi Mãnh Hổ (trung tâm điện thoại quân sự Sài Gòn)! - Mãnh Hổ, cho tôi PTT - PTT, làm ơn cho tôi khách sạn Continental."
Sau hai lần thất bại, sau cùng tôi gọi được khách sạn, trong lòng cầu nguyện là "kẻ thù" của tôi, cái gã Ấn Độ từ Madras lúc nào cũng say mùi thuốc phiện không trực điện thoại chiều hôm đó. Nhưng hắn đã có mặt!
"Siemon-Netto đây, làm ơn cho tôi nói chuyện với Kemna đi," tôi nói bằng tiếng Pháp.
"Ông Siemon-Netto không có ở đây," gã nghiện thuốc phiện nói và cúp điện thoại cái rụp!
Cảm ơn Chúa, người đồng nghiệp Mỹ đằng sau đuôi tôi cũng ở khách sạn Continental và có một người nhận tin đang chờ sẵn tại đó. Anh ta đọc xong bản báo cáo và nói phía bên kia giữ đường đây để chạy qua gọi Freddy cũng ở cùng tầng lầu với nhau. Do đó, sau cùng tôi cũng xoay sở gởi bài tường thuật cho Freddy xong và yêu cầu anh chuyển lời nhắn qua cho Nam tước Collenberg.
Sau đó thì tôi cảm thấy thèm rượu. Cảm ơn Chúa, tôi có mang theo một bình huýt ky mỏng trong ba lô. Sau những kinh nghiệm rùng rợn của ngày hôm đó, một vài ngụm từ cái bình đó cộng thêm vài lát bánh mì pumpernickel thật là một niềm hạnh phúc hoàn hảo. Bây giờ tôi phải chờ quân đội Mỹ di hành.
Cổ thành Huế và pháo đài vẫn còn nằm trong tay của khoảng 10.000 quân Bắc Việt. Chúng tôi được nghe là Sư đoàn 1 bộ binh VNCH mặc dù chiến đấu dũng mãnh vẫn chưa vào được mạn Tây Bắc sau khi cố gắng tái chiếm pháo đài và đang chờ các đơn vị của Sư đoàn 1 TQLC Hoa Kỳ tấn công từ mạn Đông Nam. Nếu chuyện này xảy ra, tôi dự định sẽ bám theo một trong những Trung đội đó.
Những gì xảy ra tiếp theo đó quá kinh hoàng khiến tôi chỉ còn nhớ lại trong đầu những mảng rời rạc của cái ngày tôi tháp tùng một Trung đội TQLC vượt qua con sông Hương vào lúc ba giờ sáng. Tôi còn nhớ là Trung đội đó đông hơn bình thường, quân số khoảng 53 người. Tôi cũng nhớ là các cấp chỉ huy có bản lĩnh hơn nhiều đám chỉ huy Trung đội tôi đã gặp trong căn chung cư của Krainick. Đau buồn thay là tôi chứng kiến hầu hết trong số họ bị thương hay thiệt mạng trước khi ngày hôm đó chấm dứt.
Tôi nhớ chúng tôi đã giao tranh trong từng căn nhà gần như bắt đầu từ thời điểm đặt chân lên mạn Nam bờ sông. Bọn Bắc Việt cố thủ hết sức chặt chẽ bắn về phía chúng tôi từ khắp các cánh cửa sổ. Tôi tìm lại được câu chuyện tôi viết về trận chiến này trong tờ nhật báo Amsterdam De Telegraaf, một chi nhánh của Springer Foreign News Service.
Bài báo tập trung vào cái kinh nghiệm đau đớn nhất của tôi ngày hôm đó, một trong nhiều chuyện mà tôi chỉ còn nhớ một cách mơ hồ. Tôi chạy bên cạnh một tay Hạ sĩ da đen. Chúng tôi bị ghìm chặt bởi lằn đạn bắn tỉa từ một cửa sổ phía trên một căn lầu nên vội vàng nhào xuống đất. Viên Hạ sĩ bắn từng loạt M.16 tưới lên cửa sổ để áp đảo kẻ địch. Nhưng rồi khẩu súng anh bị kẹt đạn, dường như tất cả loại súng đó thường hay bị kẹt hoài như vậy tại Việt Nam. Tay súng bắn tỉa lập tức nã đạn vào chúng tôi. Tay Hạ sĩ ném một quả lựu đạn vào trong cửa sổ. Ngay lập tức tiếng súng ngừng lại và anh Hạ sĩ reo hò lên.
Tiếp theo đó một người phụ nữ bước ra khỏi nhà bồng xác một đứa trẻ đẫm máu đi về hướng anh Hạ sĩ. Anh ta phát hoảng. "Ôi trời đất ơi! Ôi trời đất ơi, tôi đã làm gì vậy? Tôi đã giết một đứa bé! Cứu con với Chúa ơi! Trời ơi, trời ơi!!!" Anh hét lên quay cuồng như mắc cơn động kinh trong khi đó thì Việt Cộng tiếp tục bắn tỉa về phía chúng tôi từ các cánh cửa sổ khác. Tay Trung sĩ Trung đội phải dùng sức kềm chặt anh ta lại và sau đó dẫn anh ra khỏi vùng chiến đấu.
Mãi đến ba giờ chiều tôi mới có dịp coi giờ trên cái đồng hồ của tôi trong một lúc tạm lắng giao tranh. Tôi nhìn chung quanh. Những người lính cùng chung lưng với tôi 12 tiếng đồng hồ trước đây đâu cả rồi? Tôi đếm được 10, có thể là 15. Những người khác hoặc đã bị thiệt mạng hoặc bị thương. Một Trung đội khác đến thay chúng tôi. Đã đến lúc tôi phải ra khỏi nơi này thôi. Tôi xoay sở về lại được sông Hương. Kỳ lạ thay là bọn Cộng sản đã để lại cây cầu chính còn nguyên. Tôi đi bộ qua đó và đến một khu vực bãi đáp trực thăng đầy những người bị thương nặng, có đến hàng trăm người, nhiều người đang rên rỉ vì đau đớn.
"Thưa Thiếu tá," tôi hỏi viên sĩ quan phụ trách bãi đáp, "chuyện gì xảy ra ở đây vậy? Tại sao những người bị thương vong này chưa được tản thương đi?"
Hắn chỉ tay lên trời: "Điều kiện bay xấu!"
"Nhưng thưa Thiếu tá, tôi đã từng thấy thời tiết tồi tệ hơn nhiều. Trần mây còn đủ cao mà," tôi phản đối.
"Đúng vậy nhưng anh thấy đó, TQLC chúng tôi không có đủ trực thăng."
"Lục Quân thì sao? Tôi biết là cách đây 10 dặm ở Phú Bài có hai phi đoàn trực thăng của Lục Quân đang sẵn sàng tác chiến."
"Thưa ông, TQLC chúng tôi không gọi nhờ Lục Quân bao giờ."
Tôi nhớ đã tự nhủ trong lòng: một cái lá phong trên ve áo bộ quân phục Thiếu tá rõ ràng không phải là giấy chứng nhận cho một chỉ số thông minh cao. Ðã đến lúc phải rời nơi đây thôi. Hí trường của sự phi lý đang biểu hiện dấu hiệu của sự điên rồ đây. Tôi đã thấy những mặt đẹp đẽ nhất cũng như những điều xấu xa nhất của nhân loại trong vài ngày vừa qua: sự hy sinh đầy thương tâm và lòng dũng cảm tương phản với sự ác độc không thể tưởng tượng nổi của Cộng sản và sự xuẩn ngốc của một thiểu số khờ khạo chứng nhận được mặc quân phục.
Tôi nhớ là nước mắt tôi đã ràn rụa khi nghĩ đến những người tôi thấy đã ngã xuống tại Huế, hầu hết là phụ nữ và trẻ em, và những thương binh trẻ Mỹ nằm trên cáng rên rỉ trong đau đớn cùng cực mà không có ai để báo cho họ biết nguồn tin an ủi là họ đã đánh bại quân thù. Hơn một nửa trong số 80.000 Cộng quân tham gia vào Tổng công kích Tết Mậu Thân đã bị thiệt mạng, hạ tầng cơ sở Việt Cộng hoàn toàn bị phá vỡ.
Đây là một chiến thắng quân sự lớn. Một chiến thắng cam go cho phe Đồng minh, nhưng là chiến thắng hiển nhiên.
“Ich habe genug vom Tod,” tờ báo Chủ nhật toàn nước Đức Bild am Sonntag đã lên tựa cho bài tường thuật của tôi từ Huế như vậy, có nghĩa là "Tôi đã chán cảnh chết chóc đó lắm rồi." Tôi rất nôn nóng thoát ra khỏi Huế. Nhìn thoáng qua bãi đáp trực thăng tôi đoán là tôi không có hy vọng gì mau mắn đáp được một chuyến trực thăng. Tuy nhiên tôi trông thấy một chiếc tầu đổ bộ LCU của Hải Quân Việt Nam gần đó. Tôi chạy đến chiếc tầu và gặp người chỉ huy là một Trung úy với làn da sậm dầy như một thủ lĩnh da đỏ Comanche.
"Chúng tôi sắp ra khơi đây," anh ta nói, "Mình nên chào mừng cho sự tiến bộ: đây là lần đầu tiên kể từ khi bắt đầu Tổng công kích Tết có một chiếc LCU vận hành đến khúc sông này. Sẽ có rắc rối đấy!" Chúng tôi hướng về phía Đông và lập tức bị hỏa lực súng nhỏ bắn tới từ hướng Bắc với loạt đạn đụng vỏ tầu dội ngược ra. Nhưng chiếc tầu vẫn tiếp tục đi về phía đầm phá Tam Giang, mặc dù tôi không ở trên tầu lâu lắm. Tiếng súng lắng dần khi chiếc tầu tăng khoảng cách với Huế. Tôi ngủ thiếp đi. Khoảng giữa đêm, viên Trung úy lay tôi dậy nói, "Anh nên xuống chỗ này đây." Anh đã đậu tầu lại tại bãi cảng của một căn cứ MACV nhỏ ở mạn Nam dòng sông.
Tôi không còn nhớ bằng cách nào từ đó tôi về lại Đà Nẵng, có lẽ bằng trực thăng. Tôi chỉ biết là tôi đến doanh trại báo chí hoàn toàn như một cái giẻ rách. Tôi chưa cạo râu trong tám ngày trời. Hai bàn tay bẩn thỉu, những ngón tay vàng khè vì khói thuốc và mình mẩy hôi rình. Tôi không còn nhớ tôi có đói hay không nữa, bộ phận tiêu hóa của tôi đã hoàn toàn khép lại từ khi tôi rời khỏi trung tâm báo chí này hơn một tuần lễ trước đó.
Tôi mượn đồ lót và một bộ quần áo trận mới từ một sĩ quan Mỹ và xin một người phụ nữ làm việc quét dọn trong khu trại giặt quần áo cho tôi càng nhanh cành tốt. Lúc đi tắm, một làn nước màu đen xám chảy từ mái tóc và thân thể tôi xuống. Cạo sạch bộ râu lởm chởm là việc làm chính trong ngày. Sau đó tôi xuống hội quán uống hai ly Dry Martini nhưng không thể ăn được bất kỳ thứ gì. Do đó tôi nằm thẳng cẳng trên giường và ngủ một mạch bốn tiếng đồng hồ rồi dậy viết bài tường thuật và gọi điện thoại báo cáo cho Freddy ở Sài Gòn.
Cuối ngày hôm đó tôi ghé thăm chiếc Helgoland, cảm ơn thay, nó đã quay về bến. Tuy nhiên trên boong lại thông báo là chiếc tầu sắp rời cầu tàu và yêu cầu tất cả khách đến thăm hãy trở về. "Ở lại với chúng tôi đi," các y tá và bác sĩ khẩn khoản, "Trông anh tiều tụy quá. Hãy ăn một bữa cho ngon, uống một vài ly rượu, quên chiến trận trong một đêm và nghỉ ngơi đi." Còi tầu hụ lên. Tôi không thể nào nhấc mình nổi cho dù tôi có muốn đi chăng nữa. Những người bạn Đức đã cho tôi một khoảng thời gian rất yên trên hải phận quốc tế.
Những giây phút hạnh phúc đó không kéo dài lâu. Buổi sáng hôm sau tôi quay về trung tâm báo chí. Quần áo tôi đã có lại và tôi may mắn đón được một chiếc trực thăng bay trở lại Huế. Trong doanh trại MACV tôi chạm trán với Peter Braestrup, trưởng phòng Washington Post tại Sài Gòn.
"Họ đã tìm thấy một mồ chôn tập thể," anh nói, "chúng tôi đang định đi tới đó, vậy sao anh lại không muốn đi theo hả?" Một chiếc xe vận tải quân sự chở chúng tôi và các phóng viên khác đến một chỗ thuộc ngoại vi phía Tây Bắc của Huế mới giành khỏi sự kiểm soát của Cộng sản không bao lâu.
Có hàng trăm phụ nữ, đàn ông và trẻ em trong nấm mồ đó, nhiều người rõ ràng bị chết cháy, nhiều người bị nện cho tới chết và nhiều người khác bị chôn sống, theo lời của một sĩ quan VNCH.
"Làm sao biết là họ bị chôn sống?" Tôi hỏi anh ta.
"Chúng tôi tìm thấy địa điểm này khi phát giác có những bàn tay mới làm móng chĩa ra khỏi mặt đất," anh trả lời, "Những phụ nữ này đã cố bò ra khỏi mồ chôn họ."
Peter Braestrup thúc cùi chỏ trái vào tôi và chỉ tay vào một toán truyền hình Mỹ gồm một phóng viên, một tay quay phim và một nhân viên âm thanh đang đứng trước khu mồ chôn một cách ung dung không có hành động gì cả.
"Tại sao các anh không quay cảnh này?" Peter hỏi họ.
"Chúng tôi đến đây không phải để quay phim tuyên truyền chống cộng," gã quay phim đáp.
"Thật là điên khùng, Peter," tôi nói, "Tôi đã chán ngấy cái thứ này lâu rồi."
"Tôi không trách bạn đâu. Chúng ta đang thua trận chiến này sau khi đã thắng về mặt quân sự. Tất cả ở trong cái đầu mà thôi."
Ngày hôm đó là một ngày hên của tôi tại Huế. Tôi tìm được một chuyến bay tại phi trường. Có một chuyến Air Vietnam DC-6 sắp cất cánh đi Sài Gòn và tôi có được một chỗ ngồi trên đó. Freddy Kemna nóng ruột chờ tôi tại Continental. Anh đã tỏ ra sốt sắng giữ chỗ và làm người nhận báo cáo cho tôi nhưng bây giờ anh cũng muốn đi ra ngoài chiến trường, tức khu châu thổ sông Cửu Long với một phóng viên Đức khác. "Tôi thích đồng bằng vào khoảng thời gian này trong năm. Ấm áp hơn," anh nói đùa.
Đó là một ngày Thứ Năm và tôi không mong gì hơn là được đi dự buổi Stammtisch của Donald Wise, tức bữa ăn tối thường xuyên của các phóng viên Âu Châu tại quán Aterbéa, nơi không một ai được phép nói về chiến tranh, về Việt Nam, về chính trị của Hoa Kỳ hay tất cả những vấn đề gì có liên quan dù mơ hồ nhất với toàn bộ sự việc.
Sau bữa ăn, Donald nói, "bây giờ đã xong rồi và chúng ta được phép nói về chiến tranh trở lại, cho tôi đề nghị thế này: Hay là anh và tôi chia nhau một chiếc taxi để đưa chúng ta đến những mặt trận khác nhau ngay tại Sài Gòn vào mỗi buổi sáng? Cái này rất tốn kém vì tài xế tắc xi có thể gặp rủi ro là xe bị nổ tung. Tôi nghĩ cũng đáng làm lắm. Bọn Mỹ không quan tâm nhiều đến những trận chiến lẻ tẻ này vì chủ yếu thuộc hoạt động của Quân lực VNCH. Tuy nhiên điều này dù sao cũng rất quan trọng."
Vì vậy chúng tôi kiếm được một bác tài có kinh nghiệm chiến trận và một chiếc Buick có máy điều hòa không khí. Ông đến Continental mỗi sáng để đón chúng tôi đi từ một vùng giao tranh trong thành phố này đến một vùng khác. Một buổi sáng nọ chúng tôi rơi vào một khu giao tranh cận chiến vùng Đông Nam ngoại ô Sài Gòn. Quân lực VNCH kiểm soát một bên đường và bên kia là Việt Cộng hay quân Bắc Việt. Có một căn nhà đang bị cháy phía tay trái chúng tôi.
Chúng tôi nghe tiếng một phụ nữ thét lên, "Có một con nhỏ trong nhà! Cứu tôi với!"
Chúng tôi đang nằm dài dưới mặt đất. Donald đứng dậy, lênh khênh với chiều cao một mét chín. Vừa sửa cái nón sắt và tay phải lủng lẳng cái dù che mưa, anh ta thận trọng đi từng bước dọc theo con đường còn đang đánh nhau tới căn nhà đang cháy. Cả hai bên ngừng tiếng súng. Donald bước vào trong và trở ra với một bé gái trên tay, cái dù che mưa vẫn còn treo lủng lẳng. Anh mang cô bé đến một chiếc xe tải thương phía VNCH, trao nó cho anh tài xế và nói, "Đưa nó đến bệnh viện, anh bạn à - Đưa nó đi ngay bây giờ."
Sau đó Donald lại phóng mình xuống núp dưới đất và tiếng súng lại nổi lên.
Chúng tôi quay về trung tâm thành phố ăn trưa tại Royal và lái đến vùng Tây Nam Sài Gòn mà theo như bác tài đang có cuộc giao tranh khốc liệt trong từng căn nhà giữa Việt Cộng và Biệt Động Quân VNCH. Khi lái đến gần, chúng tôi thấy nhóm BĐQ đang lúng túng, sau này mới biết vì các sĩ quan và hạ sĩ quan đã bị tử trận rồi. Giữa cơn hỗn loạn đó thì anh bạn đồng nghiệp Hans von Stockhausen của chúng tôi, một phóng viên truyền hình Đức lại đang đứng thẳng người không bối rối, cái đầu thì ngoẹo về một phía.
Câu chuyện cái đầu bị nghiêng của anh chàng bắt nguồn từ Thế Chiến Thứ Hai khi von Stockhausen là một Thiếu tá trẻ tuổi đang ở trong lò luyện Stalingrad và anh bị bắn bể một nửa cái sọ. Anh là người thương binh cuối cùng được tản thương ra khỏi Stalingrad trên một chiếc máy bay của Không lực Đức Luftwaffe trước khi thành phố này rơi vào tay Hồng Quân. Bác sĩ giải phẫu quân đội đã thay thế miếng xương sọ bị mất bằng một tấm kim loại bằng bạc làm cho cái đầu anh ta bị nặng cứ nghiêng về một bên. Điều này vẫn không ngăn cản anh chàng vui tính xuất thân từ một gia đình quân nhân lâu đời đi làm phóng sự tất cả mọi cuộc chiến tranh mà anh ta mò ra được với tư cách một phóng viên. Vì vậy Donald Wise đặt biệt hiệu anh là viên "Thiếu tá phi nước đại."
"Ah, Herr Vise," anh Thiếu tá gọi to bằng tiếng Anh pha ngọng tiếng Đức, "Zere is no system here, zere is no system here. You vere a field-grade officer, I vas a field-grade officer. Now let’s together bring some system into this mess.” (Ở đây chẳng ra cái thể thống gì, ở đây chẳng ra cái thể thống gì cả. Anh đã từng là sĩ quan cấp tá, tôi cũng đã từng là sĩ quan cấp tá. Nào chúng ta cùng nhau mang lại một ít thể thống cho cái mớ hỗn độn này đi).
Do đó Donald Wise, cựu Trung tá quân đội Hoàng gia Anh và Hans von Stockhausen, cựu Thiếu tá quân đội Đức, lặng lẽ hướng dẫn các Trung sĩ và Hạ sĩ còn sống sót của một Đại đội Biệt Động Quân VNCH cách tổ chức phòng thủ trong tình huống chiến đấu trong thành phố và chẳng bao lâu sau thì cuộc đụng độ chấm dứt.
Nhiều năm sau, Donald Wise luôn nhắc với tôi, "tôi mê cái tay Thiếu tá nhanh như cắt này lắm rồi. Thật là một nhân vật kỳ diệu! Tôi rất mong được dịp bàn về 'thể thống' với hắn ta lần nữa."
Chúng tôi lái trở về Continental. Vài ngày sau tôi đáp chuyến Air Vietnam bằng phản lực Caravelle đến Hồng Kông. Gillian đã chờ tôi tại phi trường Kai Tak. Nàng trông rất tươi mát trong chiếc váy ngắn lộ ra đôi chân quần vợt tuyệt vời rám nắng, miệng nở một nụ cười ngọt ngào nhất. Nàng dắt theo một con chó Schnudel đặc thù của vùng New Territories, nửa giống chó chow Tàu nửa giống chó xù, màu trắng đầy lông với một cái lưỡi màu xanh. Tôi rất thích con chó nhỏ này vì cái tật kỳ cục hay chào mừng khách phụ nữ của chúng tôi - mà chỉ người đẹp thôi - bằng một cái cắn nhẹ vào mông họ.
"Chúng mình đến tiệm Peninsula để mừng ngày trở về của anh bằng một bữa ăn tối sớm đi anh," Gillian đề nghị khi chúng tôi trèo lên chiếc Volkswagen màu đỏ, "Em biết anh đang thèm một miếng thịt bò Steak Tartare và một chai vang đỏ Úc." Tính nết tuyệt vời nhất của Gillian là cá tính sôi nổi của cô. Nàng làm tôi thú vị với những mẩu chuyện vui nhộn của khung cảnh xã hội thuộc địa của Vương quốc Anh. Tôi không nghĩ có khi nào tôi vui thích nhiều hơn tối hôm đó với nàng sau nhiều tuần lễ bị chấn thương.
Nhưng khi chiều xuống chúng tôi đến căn chung cư trên đỉnh Victoria Peak thì nàng đột nhiên trở nên nghiêm trọng. Nhìng thẳng vào mắt tôi, nàng hỏi, "Chuyện gì xảy ra với anh vậy, anh yêu? Trông anh xa vắng quá. Anh chưa ôm em hay hôn em thật sự nữa. Mọi chuyện ổn cả chứ?"
Bây giờ tôi không thể nhớ đã kể sự thật cho nàng ngay lúc đó hay vài ngày sau nhưng rốt cuộc tôi cũng nói được với nàng câu trả lời đúng nhất: "Anh đã không ôm em trong lòng như đáng lẽ anh phải làm, và cũng không cho em một nụ hôn thích hợp nhất vì anh không muốn làm em bị ô uế. Từ ngày Tết Mậu Thân tại Huế đến nay anh cảm thấy đã bị nhiễm bẩn vô cùng.”
Tôi bị ám ảnh bởi một cảm giác lơ là bổn phận mà tôi chưa từng bao giờ có. Hàng tuần lễ sau đó tôi không cưỡng nổi cái thôi thúc cứ phải nhảy vào vòi sen nóng để kỳ cọ thân thể nhiều lần trong ngày. Gần một nửa thế kỷ sau, thỉnh thoảng tôi nhận thấy cái tật này bị tái phát. Tôi chỉ biết gán những hồi ức này cho một sự kiện không thể chối cãi được, là tôi đang già đi rồi.
thuykhanh
01-20-2017, 12:51 PM
**
Đức: Tình Yêu Của Một Phóng Viên Cho Một Dân Tộc
Nhiều Đau Thương
Chương 16: Cuộc Chia Tay Dài Lâu Với Niềm Phi Lý
Bản dịch của Lý Văn Quý & Nguyễn Hiền
Trong những tuần lễ sau Tết Mậu Thân tôi bắt đầu nhận thức được rằng "kịch trường của sự phi lý" không còn là một đề tài để vui đùa nữa, ngay cả đối với các quan sát viên có đầu óc châm biếm nhất. Tất nhiên là anh chàng Eberhard Budelwitz, cái thước đo cho sự phi lý chưa hề sai bao giờ của tôi đã cảm nhận điều này từ lâu rồi. Bằng một hành động kỳ quái trước khi bị triệu hồi về lại Đức để đi cai rượu, và từ đó bổ nhiệm qua thủ đô của một quốc gia Á Châu khác, anh đã biểu lộ sự nhận thức này không phải bằng cách múa lưỡi trước khi trình bày ý kiến như trong quá khứ nữa. Anh không đặt những câu hỏi ngớ ngẩn tại các buổi họp "điên rồ vào lúc 5 giờ," chẳng hạn như các thắc mắc về tầu ngầm cho các nhà sư Phật giáo như là một phương tiện để ngăn ngừa lính TQLC đái bậy vào chùa nữa. Không, lần này Budelwitz đã thể hiện quan điểm của mình bằng hành động tuyệt vọng trong một cơn điên cuồng say xỉn.
Chuyện xẩy ra trong khách sạn Continental chỉ vài ngày trước khi tôi đi về Hồng Kông, nếu tôi nhớ không lầm. Văn phòng tạp chí Time-Life tổ chức một buổi tiệc chia tay náo nhiệt cho phóng viên James Wilde, một tay mặt đỏ gay, nóng tính người Mỹ gốc Ái Nhĩ Lan đã được lên bảng phong thần của những cách ngôn về chiến tranh Việt Nam bằng một câu nhận xét lạnh người: "Tử khí đã quyện vào da thịt tôi, phải mất hàng năm trời mới gột sạch nổi."
Jim được chuyển đi Canada và chúng tôi chọc phá anh bằng những câu hỏi về nhiệm sở mới của anh. "Làm sao bạn có thể giữ huyết áp ở mức cao được trong các ngày Chủ nhật khô khan tại Ottawa?" Có người hỏi anh ta như vậy. Rồi đột nhiên anh biến đâu mất. Sau một vài chầu rượu chúng tôi bắt đầu lo lắng nên tổ chức đi tìm anh, dĩ nhiên là bắt đầu trong phòng ngủ. Cửa phòng khép hờ. Ghé mắt vào trong, chúng tôi thấy một bãi chiến trường. Tủ quần áo mở toang và đồ đạc vương vãi mọi nơi. Một trong những cánh cửa sổ lớn kiểu Pháp đã bị rứt ra khỏi khung và bị đập vỡ trên sàn. Có những dấu chân đẫm máu khắp chỗ dẫn đến cửa sổ.
James Wilde đang nằm run rẩy trên giường với tấm chăn trùm kín tận đầu.
"Đi đi, đi đi!" Anh ta khóc.
"Jim, chúng tôi đây mà, bạn của anh đây! Chuyện gì xẩy ra vậy?" Chúng tôi nói.
"Ồ, các bạn đó hả? Cảm ơn Chúa!" Anh nói, "Tôi mới vào phòng tắm lên giường nằm nghỉ ngơi một chút rồi ngủ thiếp đi. Cửa phòng mở ra và cái thằng Đức cởi truồng vào làm tôi sợ vãi cả đái ..."
"Thằng Đức trần truồng nào, Jim?" Tôi hỏi, "Tao đứng ngay đây mà, và tao có mặc quần áo đàng hoàng mà."
"Không, đồ ngu, tao có nói mày đâu! Tao nói cái thằng Đức cứ hay hỏi những câu say khướt về tầu ngầm cho sư Phật giáo và những chuyện tại Follies. Tóm lại, hắn đi thẳng vào tủ quần áo của tao, lôi tất cả đồ ra, mặc cái áo khoác vào, đến gỡ cửa sổ ra đập xuống đất, dẫm một cách khùng điên lên những mảnh kính vỡ rồi đâm đầu nhẩy ra ngoài cửa sổ. Thật là kinh quá, kinh khủng quá!"
"Hắn bây giờ đâu rồi?" William Touhy của tờ Los Angeles Times hỏi.
"Tôi không biết, có lẽ nó chết trên vỉa hè rồi. Tôi nghe một tiếng bụp."
Chúng tôi ra ngoài cửa sổ nhìn xuống cái tán lớn che thêm bóng mát cho khách của mái hiên Continental bên dưới. Nằm trên cái tán đó là đồng nghiệp Eberhard Budelwitz của chúng tôi đang ngủ say, trên người chỉ bận cái áo khoác của Jim Wilde. Tay và chân của anh ta dính đầy máu nhưng ngoài ra thì anh không sao cả. Chúng tôi khiêng anh vào trong nhà, mặc cho anh đồ lót của Jim và mang vào phòng anh mà vẫn không làm anh thức dậy. Đó là lần cuối cùng tôi gặp Budelwitz. Tôi vẫn luôn trân trọng anh vì những câu hỏi sắc bén dù có phần kỳ quặc và đặc biệt là cho thành tích cuối cùng của anh tại Sài Gòn mà suy nghĩ cho cùng không làm cho chúng tôi ngạc nhiên chút nào. Sự thôi thúc ném mình ra khỏi cửa sổ như là một dấu chấm than đằng sau sự nghiệp ký giả của anh tại Việt Nam đã gây được tiếng vang lớn đối với một số đồng nghiệp của anh.
Không phải bất cứ ai trong chúng tôi mang ý tưởng tự vẫn trong đầu; trường hợp tôi chắc chắn là không rồi, còn tôi không tin là Budelwitz cũng nghĩ như vậy. Cho dù trong trong tình trạng say xỉn anh cũng đủ thông minh để biết một cú nhẩy qua cửa sổ xuống cái tán không thể gây chết người được. Nhưng bằng một cách lập dị riêng, anh đã nói lên một điều mạnh mẽ: Những gì chúng tôi vừa trải qua trong dịp Tết Mậu Thân là kịch trường của sự phi lý đã lên đến mức độ lố bịch nhất. Biến cố này đã thuyết phục tôi là câu định lý La-tinh "in vino veritas" (Sự thật nằm trong chén rượu) có thể áp dụng cho các ly rượu pha "Screwdriver," ít nhất là trong trường hợp của Budelwitz.
Sáu tuần trong nhà ở Hồng Kông sau kỳ thử thách Tết Mậu Thân không giúp gì mấy cho lòng mong muốn của tôi được tỉnh táo trở lại. Hai diễn biến chính trị song song với nhau đã khiến cho một số phóng viên đóng tại Hồng Kông tự nhủ ai thực sự đang bị hoảng loạn đây: chúng tôi hay là cái thế giới mà chúng tôi có nhiệm vụ phải tường thuật? Trong cái xứ Cộng Sản Trung Quốc bên cạnh, Cuộc Cách Mạng Văn Hóa Vô Sản Vĩ Đại đã đạt đến cực điểm. Chúng tôi nhận được các báo cáo sông Châu Giang bị tắc nghẽn bởi xác của các cán bộ Cộng sản bị đập đầu chết bởi các Vệ binh Cách mạng còn trẻ măng. Một số được tìm thấy trong vùng biển Hồng Kông với tay bị trói quặt ra sau lưng bằng dây kẽm và túi thì nhét Hồng Bảo Thư của Mao Trạch Đông.
Tuy nhiên, dưới một khía cạnh địa lý chính trị, các tin tức về một sự chia rẽ Liên Sô - Trung Cộng và sự kiện Bắc Kinh đã từ chối không cho vũ khí Liên Sô cung cấp cho Bắc Việt được vận chuyển bằng đường xe lửa xuyên qua lãnh thổ Trung Quốc lại càng quan trọng hơn nữa. Điều này đáng lẽ phải được tiếp nhận như là tin tốt đối với Hoa Kỳ nhưng hầu như không được chú trọng trong giới truyền thông Mỹ. Tiếp sau đó lại còn có một mẩu tin động trời hơn nữa.
Gillian và tôi đi dự một buổi tiệc nhỏ tại tư gia của tay trưởng trạm một cơ quan tình báo Tây Âu. Khách danh dự là một Đại tá Hoa Kỳ thông thạo sáu thổ ngữ Trung Hoa và có bằng Tiến sĩ về Hán học. Chúng tôi biết anh là sĩ quan tình báo quân đội Mỹ phụ trách phân tích các chương trình phát sóng trong phạm vi tỉnh và thông tin liên lạc nội bộ trong Cộng Hòa Nhân Dân (Trung Quốc). Chỗ làm việc của anh, cái trạm nghe lén khổng lồ của Mỹ chỉ cách chỗ ở của chúng tôi vài phút đồng hồ.
"Nói cho tôi biết đi, thưa quý vị," anh đột nhiên hỏi hai ký giả có mặt, "quý vị thỉnh thoảng có thấy khó khăn như tôi khi muốn gây sự chú ý của các xếp biên tập viên khi nắm trong tay một số tin tức sốt dẻo hay không?"
"Tôi thì chẳng bao giờ!" Tôi trả lời.
"Tôi không," anh đồng nghiệp Mỹ nói, "Nhưng tại sao anh lại hỏi?"
"Bạn thấy đấy, hiếm khi những gì tôi gởi về Washington đến tay Tổng thống trong bất kỳ hình thức thích hợp nào, bất kể tin tức đó có thể quan trọng hay không."
"Chẳng hạn như?" Tôi hỏi.
"Ví dụ như tôi đã báo với cấp trên rằng có bằng chứng càng lúc càng nhiều là một cuộc xung đột vũ trang sẽ nổ ra giữa người Hoa và người Nga. Mấy đứa nào đó ở Ngũ Giác Ðài làm nhẹ nó đi trước khi chuyển đến tay xếp tình báo quân đội. Hắn làm loãng thêm trước khi Bộ trưởng Quốc phòng Mc Namara nhận được cái tin đó. Mc Namara lại 'tưới nước' nó thêm trước khi đưa qua Bạch Cung."
"Như vậy thì Lyndon Johnson còn đọc được cái gì?" anh đồng nghiệp Mỹ hỏi.
"Một dòng chữ vô nghĩa nói rằng theo Trạm Hồng Kông, người Nga và người Hoa không hài lòng với nhau - hay đại loại một cái gì vớ vẩn như vậy."
"Tại sao anh lại nói cho chúng tôi biết chuyện này?" Tôi muốn biết thêm.
"Bởi vì tôi tin rằng Tổng thống Hoa Kỳ cần phải được chuẩn bị cho các cuộc đụng độ quân sự giữa hai cường quốc Cộng sản thế giới đó. Ông ta sẽ biết khi đọc câu chuyện này trên báo chí. Quý vị viết về sự kiện đó đi nhưng làm ơn viết nhằm loan báo chung và đừng tiết lộ nguồn."
Đêm hôm đó chúng tôi báo cáo cái mẩu tin và sáng hôm sau cả thế giới, chắc kể cả LBJ đều biết cuộc xung đột Trung Cộng - Liên Sô thật sự nghiêm trọng như thế nào. Tình trạng nguy hiểm này còn mất một thời gian nữa để đạt đến cực điểm, nhưng một năm sau cuộc trò chuyện trong bữa ăn tối đó của chúng tôi, các lực lượng Trung Cộng và Liên Sô quả nhiên có đụng độ nhau tại sông Ussuri. Lái về từ buổi tiệc của các tay gián điệp, tôi làm vui Gillian với mẩu chuyện Eberhard Budelwitz tự phóng mình qua cửa sổ như một màn trình diễn tối hậu của kịch trường của sự phi lý. Nàng cười ngặt nghẽo.
"Em hiểu ý anh rồi," nàng nói, "Những gì chúng ta vừa nghe là một màn nữa thuộc kịch trường của sự phi lý."
"Đúng vậy, kịch trường của sự phi lý ở mức độ cao nhất."
"Thật đáng sợ," nàng nói, "Đủ để muốn ném mình ra khỏi cửa sổ."
"Làm ơn theo nghĩa bóng thôi nhé!"
Sau đó, vào ngày 27 tháng 2 năm 1968 cái tin lớn bùng nổ: Phát ngôn viên Bản Tin Buổi Chiều của Đài Truyền Hình CBS, Walter Cronkite, trở về nhà từ sau một chuyến đi thăm chớp nhoáng tại Việt Nam sau cuộc Công Kích Tết Mậu Thân đã tuyên bố một cách ồn ào trước một cử tọa khoảng 20 triệu khán thính giả là không thể thắng cuộc chiến Việt Nam được. Điều này chối bỏ tất cả những gì các phóng viên chiến trường, bao gồm cả Peter Braestrup và tôi đã trải qua trong ngày Tết. Chúng tôi đã biết những gì mà bây giờ các sử gia đang tuyên bố: Người Mỹ, VNCH và các đồng minh đã đánh bại Cộng sản về mặt quân sự.
Tuy nhiên ý kiến của Walter Cronkite đã chối bỏ thực tế, chuyển một chiến thắng quân sự thành một thất bại về chính trị.
"Tôi mất Cronkite, tức đã mất thành phần trung lưu người Mỹ rồi," Lyndon B. Johnson nói, và một tháng sau ông tuyên bố tạm ngưng dội bom Bắc Việt, cũng như quyết định sẽ không tái tranh cử nữa. Với điều này, kịch trường của sự phi lý đã đạt đến cực độ. Chuyện xẩy ra là cùng ngày Johnson ra bản tuyên bố, tức ngày 31 tháng 3 năm 1968, Gillian và tôi đang cùng đi Sài Gòn. Đây là lần đầu tiên nàng đến Việt Nam. Hầu hết các phóng viên chiến trường giữ gia đình của họ tại Hồng Kông, Singapore hay Bangkok, không chỉ vì sự an ninh của họ mà còn vì một lý do nghe ra chuyên nghiệp nữa: ký giả chiến trường phải có khả năng ra ngoài mặt trận với tính cách ứng chiến đột xuất mà không cần phải bàn cãi lâu lắc vào đêm hôm trước với các bà vợ trong bữa ăn tối.
Gillian chưa bao giờ tin vào cái lập luận này một cách quá đáng và càng lại không tin nữa khi chúng tôi đáp xuống Sài Gòn. Trên chuyến bay của hãng Cathay Pacific tôi đã cảnh cáo nàng là nhân viên Di trú VNCH có thể rất khó chịu như thế nào. Nhưng khi nàng trình thông hành Anh ra thì khuôn mặt của viên chức đó lại sáng lên.
(còn tiếp)
thuykhanh
01-20-2017, 07:02 PM
Tiếp theo
"Ồ, thưa bà Siemon-Netto, xin chào mừng bà đến đất nước chúng tôi!" Anh ta nói bằng tiếng Pháp, "Dĩ nhiên tôi quen với ông nhà rồi nhưng bây giờ thật là một vinh dự được biết bà."
"Thật là một người dễ mến," Gillian nói, vừa nguýt tôi.
"Anh đã bay đến đây cả vạn lần rồi mà hắn có bao giờ nói một tiếng chào hỏi gì anh đâu," Tôi làu nhàu. "Hãy cứ đợi đến lúc gặp nhân viên quan thuế đi. Họ sẽ gây khó khăn cho em ngay mà."
Rốt cuộc thì anh ta không gây khó khăn cho nàng chút nào mà ngược lại còn đón tiếp Gillian cũng nồng nhiệt y như anh nhân viên nhập cảnh vậy. Anh ta còn không buồn ngó vào hành lý của chúng tôi mà vẫy tay cho đi. Gillian lại càng ngó tôi một cách buồn cười nữa.
"Thường ra thì mấy người này khám xét từng cái quần lót của anh," tôi lầm bầm. "Nhưng hãy đợi đến khi chúng mình phải vật lộn để có xe về khách sạn Continental đi. Xe tắc-xi không được phép lái thẳng vào ga hàng không nữa."
Ngay lúc đó thì có một anh trẻ tuổi, có lẽ là một Trung úy Không quân làm thêm công việc tài xế ngoài giờ, mời đưa chúng tôi về khách sạn trên chiếc xe Buick có gắn máy lạnh của anh. Đến lúc này thì Gillian nhìn tôi chằm chằm với sự biểu hiện đã mất niềm tin ở tôi một cách sâu xa.
Ông Lợi, quản gia chính của khách sạn Continental đón tiếp chúng tôi với một nụ cười rạng rỡ và đích thân đưa chúng tôi đến căn suite 214, trong đó có sẵn 25 bông hồng đỏ chờ đón Gillian với sự ưu ái của chủ nhân. Những bông hoa tuyệt đẹp này đã làm tăng thêm sự nghi ngờ của Gillian.
"Tại sao anh lại giữ không cho em đến cái chốn tuyệt vời này lâu quá vậy?" Nàng yêu cầu muốn biết.
Buổi tối hôm đó tại quán Royal, me-sừ Ottavi trải thảm đỏ ra: a-ti-sô, súp hành, pa-tê gan ngỗng, và vịt nấu cam kèm theo một chai Château Cheval-Blanc, loại rượu vang đỏ ngon nhất từ vùng Saint Émilion. Món bánh soufflé tẩm rượu Grand-Marnier lừng danh của Ottavi tiếp theo, chung với một chai sâm banh Dom Pérignon. Cái tay chủ này giấu đâu những kho tàng này hàng mấy năm trời nay vậy?
Trên đường trở về Continental, Gillian nhận xét một cách thẳng thừng, "Thì ra anh mang các cô tình nhân của anh ra đây!"
"Nhìn này, em yêu, em có thể nghĩ ngợi cách nào cũng được, nhưng có một điều hết sức quan trọng em phải nghe anh," tôi nói khi chúng tôi bước vào phòng. Tôi chỉ tay vào các cánh cửa sổ kính kiểu Pháp mà tôi đã dán băng keo trong một lần ở trước đó nhằm phòng ngừa miểng kính vỡ trong trường bị Việt Cộng pháo kích.
"Khi nào tối nay em nghe thấy tiếng lụp bụp," tôi tiếp tục, "em phải theo anh ngay lập tức vào trong phòng tắm và ở đó cho đến khi cuộc tấn công chấm dứt. Phòng tắm là chỗ an toàn nhất trong căn suite này vì không có cửa sổ và nhờ đó tránh được miểng kính vỡ một cách tốt nhất."
Không màng trả lời tôi, Gillian cuộn mình trên cái giường mà tôi đã có lần kể cho nàng là Graham Greene có lẽ đã từng nằm trên đó.
Hai tiếng đồng hồ sau, Việt Cộng rót một loạt hỏa tiễn từ những dàn phóng thủ công bằng tre qua sông Sài Gòn vào trong thành phố, giết hàng trăm người kể cả 19 phụ nữ và trẻ em đang trú ẩn trong một ngôi nhà thờ Công giáo. Chúng tôi ngồi suốt cả đêm còn lại trong phòng tắm. Đối với Gillian đây là bài học sơ đẳng về chiến tranh Việt Nam: mặc dù đầy vẻ quyến rũ, Sài Gòn vẫn thật sự là một nơi rất nguy hiểm.
Quan trọng hơn nữa, đây là một thông điệp không thể nhầm lẫn được từ bọn Cộng sản đối với phần còn lại của thế giới, đặc biệt cho những người mê sảng mơ rằng hòa bình đã gần kề sau khi Hoa Kỳ ngưng ném bom và cũng trong cái ngày mà Johnson tuyên bố không ra tái tranh cử nữa.
Không cần phải là thành viên của hội Mensa quốc tế để nắm bắt ý nghĩa của cuộc tấn công này: với sự giúp đỡ của Cronkite và những tay truyền thông tương tự, một chiến thắng quân sự đã biến thành một sự thất bại về chính trị cho Hoa Kỳ và VNCH.
Hơn 100.000 lính Cộng sản đã bỏ mạng trong kỳ Tổng công kích Tết Mậu Thân nhưng Việt Cộng đã –theo quan điểm của họ – sử dụng một cách hiệu quả nhất cái phản ứng vô lý của Hoa Kỳ đối với cuộc tắm máu kinh hoàng này, cái phản ứng xác nhận cho niềm tin của Võ Nguyên Giáp là các chế độ dân chủ không được trang bị về mặt tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến tranh lâu dài. Bằng thái độ ngạo mạn, thách thức và tàn nhẫn của bọn độc tài toàn trị, Cộng sản đã lấy lại thế chủ động bằng cách tàn sát và khủng bố thêm nhiều người dân thường nữa.
Lần này thời gian nghỉ của chúng tôi ở Sài Gòn khá ngắn vì chúng tôi được cấp giấy nhập cảnh đến Cam-Pu-Chia. một điều hiếm khi xẩy ra. Hoàng thân Norodom Sihanouk, người đứng đầu của chính phủ Cam-Pu-Chia ít khi nào cho phép các ký giả Tây Âu được vào vương quốc của ông mà phần cực Đông được Việt Cộng sử dụng như là một khu vực bàn đạp và tiếp vận cho cuộc chiến chống lại miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên trước khi lên máy bay đi Phnom Penh, tôi đến thăm xã giao Wilhelm Kopf, Đại sứ Tây Đức tại Sài Gòn.
Thật bất ngờ, Hasso Rüdt von Collenberg bước vào, xin lỗi vì làm gián đoạn cuộc nói chuyện của chúng tôi. Khuôn mặt vị Nam tước trẻ tuổi trông tái hơn bình thường. Nam tước thì thầm điều gì đó nghe giống như mật mã. Mặt của Kopf dài ra trông thấy. Theo linh tính, tôi mạo hiểm đoán:
"Họ đã tìm ra thi thể của các Bác sĩ Đức tại Huế rồi phải không?" Tôi nói.
Với vẻ bối rối, Hasso von Collenberg nhìn tôi trả lời, "Đúng vậy, nhưng chưa chính thức. Chúng tôi phải báo cho Bonn trước."
"Tôi hiểu. Cho tôi biết không chính thức vậy: chuyện gì đã xẩy ra?"
"Người ta đã tìm thấy thi thể của Giáo sư và bà Krainick, của Bác sĩ Discher và Bác sĩ Alteköster trong một cái mồ tập thể khoảng 20 dặm về hướng Tây của Huế. Họ đã bị bịt mắt và tay bị trói quặt ra sau bằng dây kẽm. Họ đã bị buộc phải quỳ gối trước khi bị bắn vào sau gáy rồi bị đẩy xuống mương."
Khi ông Đại sứ và tôi chăm chú nghe anh kể, chúng tôi không thể nào biết rằng lời diễn tả đó lại đúng là số phận của von Collenberg một vài tuần lễ sau, khi bọn Việt Cộng sát hại anh trên một con đường nhỏ vùng Chợ Lớn, trong khu phố Tầu của Sài Gòn không xa tòa Đại sứ bao nhiêu.
Viên ngoại giao trẻ kể cho chúng tôi là Viện trưởng Viện Đại Học Huế đã nhận diện được thi hài của các đồng nghiệp người Đức và tình trạng của họ cho phép một kết luận sơ khởi quan trọng: Họ phải còn sống ít nhất sáu tuần lễ sau khi bị bắt cóc. Với cơ cấu chỉ huy sắt máu của Hà Nội, vụ hành quyết bốn người Tây Đức này không thể là một sự nhầm lẫn trong lúc cuộc chiến hỗn loạn được; họ không phải là nạn nhân vô tình của chiến tranh. Bất chấp những lời cầu xin từ khắp nơi trên thế giới, Hà Nội đã không hề hành động điều gì để cứu những người vô tội này mặc dù họ có thừa thời gian để làm chuyện đó. Do đó, chúng ta có thể giả định rằng những vụ hành quyết như thế này và hàng ngàn những người vô tội khác có chủ đích và từ đó, được xếp hạng là những hành vi tội ác chiến tranh gây ra bởi một chế độ hay có sự đồng lõa của chế độ đó.
Một năm sau tại hội nghị hòa bình Paris, nơi cuối cùng đã dẫn tới sự triệt thoái của Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam, tôi chạm trán với một phóng viên Giải Phóng, cơ quan thông tấn của Việt Cộng. Anh ta nói với tôi là anh có tường thuật cuộc công kích Tết Mậu Thân tại Huế. So sánh các ghi chép với nhau, chúng tôi nhận thấy là có một lúc chúng tôi chỉ cách nhau không đầy 100 thước. Tôi rất muốn hỏi anh ta: "Tại sao các anh lại tàn sát hàng ngàn phụ nữ và trẻ em? Tại sao họ lại giết hại các bạn người Đức của tôi mà 'tội ác' của họ chỉ là chữa trị cho người dân Việt Nam, bất kể chính kiến của họ?" Buồn thay tôi đã không làm điều đó. Thật là vô ích hỏi anh ta những câu hỏi như vậy vì anh ta không bao giờ đi một mình. Luôn luôn có những tay công an quanh quẩn trong tầm tai nghe. Vả lại bọn Việt Cộng đã cho các ký giả Tây
Âu trong những buổi tiếp tân tại các tiệm ăn sang trọng ở Paris cái luận điệu vô lý của họ về những gì đã xẩy ra tại Huế rồi. Họ nói đó là tội ác của CIA.
Cho đến ngày hôm nay, tôi vẫn không rõ nguồn gốc của cái sự láo khoét phi lý đó. Có phải đó là sản phẩm từ bộ óc ngu xuẩn của một số đảng viên cực đoan ở Hà Nội? Hay lại là phát minh của một Bác sĩ Tây Đức khác, tay bác sĩ tâm thần Erich Wulff điên rồ? Hắn đã đóng một vai trò khó chịu trong thời gian dạy học tại Huế. Vào năm 1963 hắn đã xách động chống lại chính phủ Ngô Đình Diệm và Hoa Kỳ, cũng như lén lút chuyển thuốc men và dụng cụ y khoa cho Việt Cộng.
Sau này khi bị buộc phải rời xứ, hắn đã ra làm chứng trước tòa án quốc tế Bertrand Russell về tội phạm chiến tranh tại Việt Nam. Khi tôi gặp hắn vào năm 1965, hắn đã tố cáo ông hàng xóm của hắn là Horst-Günter Krainick đã nuôi dưỡng một sự kỳ thị chủng tộc đối với người Việt. Hắn còn bày tỏ sự phẫn nộ đối với bà vợ của Krainick hằng ngày đi bơi tại Câu Lạc Bộ Thể Thao và làm thân với người Mỹ. Bản thân tôi cũng như bất cứ những người quen nào của gia đình Krainick đều không thấy điều gì khác lạ ngoài tình thương tuyệt vời dành cho cái dân tộc mà họ đến để giúp đỡ.
(còn tiếp)
hoài vọng
01-20-2017, 08:21 PM
hoàng phủ ngọc tường , cầm đầu vụ thảm sát Mậu Thân đang sống dở chết dở , khi thì nhận có mặt vào thời điểm việt cộng chiếm đóng Huế , lúc thì phân bua thời điểm đó đang " nhảy núi " nên không nắm rõ tình hình
Sau này ,tôi được biết csbv thỏa thuận với " đồng minh vĩ đại " về trận đánh Mậu Thân
thuykhanh
01-21-2017, 02:45 PM
hoàng phủ ngọc tường , cầm đầu vụ thảm sát Mậu Thân đang sống dở chết dở , khi thì nhận có mặt vào thời điểm việt cộng chiếm đóng Huế , lúc thì phân bua thời điểm đó đang " nhảy núi " nên không nắm rõ tình hình
Sau này ,tôi được biết csbv thỏa thuận với " đồng minh vĩ đại " về trận đánh Mậu Thân
Chào anh Hoài,
Mấy người CS nói láo giỏi lắm, giờ thì ai cũng biết.
Nhờ anh nêu lên chuyện này, tôi tìm thấy đoạn phim ông ta trả lời phỏng vấn của hãng WGBH-TV ngày 29 tháng 2 năm 1982 và một
bài viết ở đây (https://vietbao.com/a245546/hoang-phu-ngoc-tuong-co-o-hue-tet-mau-than) nếu anh muốn đọc thêm.
Về câu sau, tôi không chắc, anh Hoài à.
thuykhanh
01-21-2017, 04:56 PM
Đức: Tình Yêu Của Một Phóng Viên Cho Một Dân Tộc
Nhiều Đau Thương
Chương 16: Cuộc Chia Tay Dài Lâu Với Niềm Phi Lý
Bản dịch của Lý Văn Quý & Nguyễn Hiền
( Tiếp theo)
Năm 1968 Wulff viết dưới bút hiệu Georg W. Alsheimer một lập luận kinh tởm dưới tiêu đề Vietnamesische Wanderjahre - Những Năm Tháng Chu Du tại Việt Nam (Frankfurt: Suhrkamp, 1968). Trong cuốn sách này, hắn cho là một nhân viên tình báo hàng đầu của CIA với cái tên Bob Kelly đã kể cho hắn nghe về chương trình khủng bố của CIA gọi là Những Chiến Thuật Đen. Theo Wulff, chương trình này gồm những thanh niên mặc quần áo như Việt Cộng đi sát hại người già, phụ nữ và trẻ em để kích động lòng hận thù đối với Cộng sản.
Lời giải thích của Bắc Việt và Việt Cộng về cuộc tàn sát tại Huế phù hợp với luận điệu của Wulff. Nói một cách công bằng cho hầu hết các phóng viên Tây Âu, họ thấy chuyện này không có sức thuyết phục. Trong khi đó, Erich Wulff đưa ra một lý luận điên khùng khác trong những buổi hội họp của cánh tả tại Tây Đức: hắn cho là Bác sĩ Discher, Bác sĩ Alteköster và hai vợ chồng Krainick có thể đã bị giết bởi chính các sinh viên của họ để trả thù bị điểm kém, hoặc bởi chính các đồng nghiệp Việt Nam vì lòng ganh ghét.
Một lần nữa, tôi lại đi quá xa câu chuyện của tôi rồi. Vào thời điểm chuyện này tôi đang ở trong văn phòng Đại sứ tại Sài Gòn. Nét mặt biểu hiện đầy nỗi buồn của Hasso von Collenberg không lời nào tả xiết. Tôi còn nhớ đã suy nghĩ trong đầu: "Thật là một tâm hồn cao quý! Thật là một người đàng hoàng và dũng cảm! Từ lúc khởi đầu cuộc công kích Tết Mậu Thân, anh đã lái xe khắp Sài Gòn ngày đêm để bảo đảm cho các công dân Đức được an toàn. Anh không bao giờ về nhà mà ngủ trên một chiếc chiếu trong văn phòng. Anh đã cầu nguyện bọn Cộng sản sẽ tha cho những người bạn ở Huế, đó là tất cả những gì anh có thể làm được, và nay thì họ đã chết cả rồi. Chính phủ chúng ta phải tự hào về anh!" Trái lại đằng khác. Tất cả những gì còn lại để tưởng nhớ anh chỉ là một câu chú thích ngắn gọn trên tờ báo cáo của Văn phòng Ngoại Giao Đức. Bộ trưởng Ngoại Giao Tây Đức thời bấy giờ là Willy Brandt, thuộc đảng dân chủ xã hội mà chính sách ưu tiên cao nhất của ông là nhằm xoa dịu, hoặc làm tan băng đá trong quan hệ với khối Sô Viết. Người ta chỉ có thể phỏng đoán là ông nghĩ rằng sẽ khó khăn cho mục tiêu này nếu làm lớn chuyện vụ sát hại một trong những phái viên của ông.
Với những linh cảm đen tối, tôi và Gillian đáp máy bay đi Nông Pênh, bắt tay vào một cuộc hành trình trở về quá khứ, hay có vẻ như vậy. Thủ đô của Cam-Pu-Chia lúc đó vẫn còn giống phong cách Sài Gòn vào những thời kỳ bình yên hơn: rất Pháp nhưng cũng rất đặc biệt, kỳ diệu, quyến rũ và thanh bình. Những bà vợ, các cô con gái của các cố vấn quân sự và dân sự Pháp uyển chuyển đầy trong hồ bơi của khách sạn Le Royal trong những bộ áo tắm hai mảnh. Tuy nhiên trên thực tế họ chỉ là những màn trang trí có tính chất trình diễn. Sự thật chỉ có một người quan trọng hơn cả tại Cam-Pu-Chia: Hoàng thân Sihanouk, người đã từng là vua của xứ sở này và sẽ lại lên làm vua một lần nữa về sau đó. Tuy nhiên trong thời gian chúng tôi đến thăm, ông ta chỉ vui vẻ đóng một loạt những vai trò khác nhau: đứng đầu chính phủ, làm nhà sản xuất và ngôi sao tài tử cho vô số các bộ phim, làm bình luận viên trưởng các đài radio và truyền hình, làm biên đạo chính của vũ đoàn Ba-lê Hoàng gia, làm chủ bút một tờ tạp chí trí thức, làm nhạc sĩ thổi kèn saxo chính và nhạc trưởng soạn những khúc nhạc hòa tấu tương tự như các giai điệu lãng mạn của Charlie Chaplin. Ông ta cũng đồng thời là người "phối ngẫu trưởng" hết sức phục tùng Công chúa Monique, một người tuyệt vời nhưng có tinh thần kỷ luật nghiêm khắc. Công chúa là con gái của một thợ nề người Ý và một phụ nữ khôn ngoan người Việt Nam. Khi Monique mới 15 tuổi và được Sihanouk để mắt đến trong một cuộc thi sắc đẹp, bà ta đã lén đưa con gái vào cửa hậu Hoàng cung. Từ đó Monique không bao giờ lẻn ra ngoài trở lại. Sihanouk, lúc đó là vua, đã yêu và cưới nàng gần như ngay lập tức. Họ chung sống với nhau cho đến khi Sihanouk qua đời lúc 89 tuổi vào năm 2012.
Hình thức trung lập của Sihanouk cũng khá tức cười. Có những đại lộ được đặt tên Mao Trạch Đông, John F. Kennedy và Charles de Gaulle xen kẽ nhau khắp Nông Pênh. Thật là tức cười khi thấy Sihanouk đối xử với các nhà ngoại giao của cả hai phía chia cắt Đông và Tây với sự bất kính như nhau. Trong buổi lễ khánh thành một khách sạn mới tại Sihanoukville ông ta nhẩy xuống hồ bơi, nước mầu nâu có vẻ không được sạch bởi toán nhân viên phụ trách đã quên không thay nước mới. "Này thưa ngài!" Sihanouk gọi viên Đại sứ Trung Cộng đang đứng thơ thẩn bên bờ hồ bơi, "Nếu Mao Chủ tịch của ngài có thể bơi được trên dòng sông Giang Tử lạnh lẽo thì chắc ngài cũng có thể tham gia cùng tôi tắm một cái ở nơi thơm tho đây đi." Ngay lập tức, viên Đại sứ cởi bộ áo khoác theo kiểu Mao Trạch Đông ra nhảy xuống trong khi Sihanouk cười vui vẻ xoay qua nói với tay Đại sứ Liên Sô với cái giọng the thé, "Và ngài nữa, ngài nên bảo chính phủ của ngài phá đổ cái bức tường Bá Linh đi thôi!" Mãi đến hai thập niên sau một vị Tổng thống Hoa Kỳ, Ronald Reagan, mới nói được cái câu như vậy với thủ lĩnh Sô Viết là Mikhail Gorbachev.
Cùng với đồng nghiệp Ronald Ross của tờ Minneapolis Tribune với bà vợ Marilyn, Gillian và tôi cùng thuê một chiếc xe Peugeot station wagon có tài xế lái đi thăm những đền đài tại Angkor. Trong suốt cuộc hành trình qua một vùng đồng quê kỳ diệu và thanh bình chúng tôi tự hỏi không biết bao lâu nữa đất nước Cam-Pu-Chia có thể tránh được số phận nghiệt ngã của xứ láng giềng Việt Nam. Sihanouk đã từng có những sự linh cảm đen tối. Ông đã báo động với chúng tôi: "Bọn Khmer Ðỏ muốn sát hại tất cả những vị phật nho nhỏ của tôi," ám chỉ dân chúng của ông ta. Lúc đó Khmer Ðỏ chỉ có vào khoảng 300 người. Thủ lĩnh của họ là một người nguyên là thầy giáo tên là Saloth Sar, còn gọi là Pol Pot mà trong những năm là sinh viên tại Paris đã từng là thành viên của nhóm Jean Paul Sartre. Bẩy năm sau chuyến đi thăm của chúng tôi đến Cam-Pu-chia, Pol Pot đã gia nhập vào hàng ngũ những tên diệt chủng tồi tệ nhất của thế kỷ 20 cùng với Hitler, Staline và Mao Trạch Đông bằng cách giết hết một phần ba đồng hương của hắn, vào khoảng gần hai triệu người.
Sau khi chúng tôi trở lại Nông Pênh, Sihanouk mời một nhóm khách gồm các phóng viên ngoại quốc dự một chuyến đi thăm khu vực Mỏ Vẹt bên cạnh biên giới Việt Nam. Mục đích nêu ra của chuyến đi là để cho chúng tôi thấy bằng chứng là có sự xâm nhập vũ trang của Quân lực VNCH và Hoa Kỳ vào trong lãnh thổ trung lập của Cam-Pu-Chia. Tuy nhiên Sihanouk còn có một chủ đích kín đáo khác nữa. Vùng Mỏ Vẹt được biết đến như là một khu vực căn cứ và an dưỡng của Bắc Việt và Việt Cộng, đồng thời là điểm chót của đường mòn Hồ Chí Minh. Lái xe về hướng Đông, vài người trong số chúng tôi còn thấy bằng cớ sự vi phạm tính trung lập của Cam-Pu-Chia bởi Hà Nội còn rõ ràng hơn: Trên phà xe qua các cửa thông của Sông Cửu Long chiếc xe Peugeot của chúng tôi bị mắc kẹt giữa những chiếc xe Land Rover mà nhóm quân nhân chất đầy trên đó có dấu hiệu lộ ra họ là Cộng sản Việt Nam. Họ đi những chiếc dép làm bằng vỏ xe hơi gọi là dép Hồ Chí Minh.
Khi đó chúng tôi biết rằng cái xứ hạnh phúc Cam-Pu-Chia chỉ đơn thuần là một thiên đường được tạm tha. Chúng tôi rất thích tính cách hài hước, vẻ đẹp, nhục cảm, đồ ăn ngon của nó và người cai trị với phong thái riêng mà các nhà truyền thông Anglo-Saxon sáo rỗng lại thích gán cho nhãn hiệu là lanh lợi. Không ai vui thích với tất cả những điều này hơn một tay phóng viên tự do trẻ tuổi, rất vui vẻ tên là Sean Flynn. Anh là con trai của Errol Flynn. Hai năm sau, anh là một trong những người Tây phương đầu tiên mà thiên đường tạm tha này với họ đã biến thành địa ngục. Bọn Khmer Ðỏ bắt anh, cầm giữ và có lẽ tra tấn anh trong vòng 12 tháng trời. Sau đó thì họ giết anh.
Sau chuyến đi của chúng tôi tại Mỏ Vẹt, Gillian và tôi trở lại Royal, tại đó có một bức điện tín đang nằm chờ chúng tôi. Egon Vacek, biên tập viên ngoại quốc của tạp chí Stern mời chúng tôi gặp ông tại khách sạn Siam International tại Bangkok và nơi đó tôi đã làm một chuyện sai lầm nhất trong sự nghiệp của tôi. Vacek hứa với tôi một khoản lương rất hậu hĩ và một vị trí đầy quyến rũ của một phóng viên đại diện cho Stern tại vùng Bắc Mỹ có trụ sở tại New York và Washington. Tôi đã nhận lời, có nghĩa là phải từ giã tổng công ty Axel Springer sau khi hợp đồng hết hạn vào mùa thu năm sau.
Ngày nay tôi nhận ra đó là một hành động lố bịch của bản thân tôi trong kịch trường của sự phi lý. Springer đã từng là một người chủ tuyệt vời và công ty đó đã cố gắng thuyết phục tôi ở lại. Herbert Kremp, người chủ bút uyên bác của Die Welt, tờ nhật báo hàng đầu của Springer hứa cho tôi một vị trí rất uy tín là phóng viên tại Tokyo, nơi mà tôi sẽ có cơ hội được trở lại Đông Dương thường xuyên hơn. Tôi không dám nhận nhiệm vụ đầy thử thách này mà không có một kiến thức toàn diện về tiếng Nhật Bản.
Stern có vẻ hấp dẫn vào thời điểm đó vì là một tạp chí và tôi sẽ có cơ hội tốt để viết các câu chuyện lớn nhiều mầu sắc hơn so với các tờ nhật báo. Tôi cũng thích Egon Vacek, ông xếp tương lai của tôi, một cựu phóng viên ngoại quốc dầy dạn kinh nghiệm và một người có khuynh hướng ôn hòa về chính trị trong thời điểm mà Stern càng lúc càng nghiêng về cánh tả. Khi ông qua đời vài năm sau đó vì bệnh ung thư, tôi không còn người đồng minh trong cái cơ cấu quyền lực ngày càng chuyển qua phía tả của tờ tuần báo lớn nhất Tây Âu. Không cần phải nói nhiều hơn về cái sai lầm này mà kết quả là một giai đoạn khó chịu nhất trong cuộc đời của tôi.
Tuy nhiên mối tình của tôi đối với Việt Nam chưa chấm dứt tại đó và vào lúc đó. Trong khi đang hoàn thành nốt năm cuối hợp đồng với Springer, cảm giác của tôi về một sự linh cảm đen tối tăng cao. Lúc trở lại Sài Gòn sau chuyến đi Cam-Pu-Chia và Thái Lan, anh bạn Lành của tôi, người cựu nhạc sĩ kèn trombone biết nói tiếng Đức trong đoàn Lê Dương Pháp cũ ghé thăm tôi tại Continental.
"Tôi đang học tiếng Nga đây," Lành tuyên bố.
"Tại sao không học tiếng Tầu?" Tôi hỏi anh ta.
"Bởi vì người Nga sẽ sớm hiện diện tại đây mà không phải là người Tầu. Anh sẽ thấy! Một tay người Nga sẽ ở tại căn suite này của anh, hay có thể là một tay Đông Đức không chừng!"
"Mong Chúa không cho điều này xẩy ra!"
"Vâng," Lành nói, "Mong Chúa thay!"
Qua bẩy năm, sau chiến thắng của Cộng sản, người Nga và Đông Âu quả nhiên đóng đô tại Continental, nhưng lúc đó Lành đã di tản qua Paris rồi.
Một cảnh tượng trưng cho những tháng cuối cùng bi thương của tôi làm phóng viên cho Springer tại Việt Nam vẫn còn ăn sâu trong đầu tôi. Tôi đi cùng với Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ trên một chuyến bay Boeing 707 của Air France từ Paris về Sài Gòn. Kỳ hướng dẫn phái đoàn VNCH tại các cuộc đàm phán hòa bình ở Paris, nơi vợ ông, bà Tuyết Mai đã mê hoặc mọi người với sắc đẹp và chiếc áo lông chồn đi mượn của bà. Nhưng trên đường về tất cả những sự hào nhoáng đó có vẻ đã phai nhạt đi. Tôi cảm thấy Kỳ đã mất đi cái tính nhiệt tình cố hữu của ông. Chúng tôi nói chuyện hàng giờ đồng hồ về đủ mọi thứ, nhưng hầu như tất cả các điều ông nói như chỉ là một nỗ lực vô ích để tự trấn an lấy mình. Ông biết là người Mỹ đã quyết định rời bỏ Việt Nam. Chỉ còn câu hỏi thật sự được giải quyết tại các cuộc đàm phán hòa bình là bằng cách nào và khi nào?
Trong lúc nói chuyện ông Kỳ luôn nhìn ra cửa buồng lái.
"Tại sao ông cứ mải chăm chú vào buồng lái vậy?" Tôi hỏi ông.
"Bởi vì tất cả những gì tôi thật sự khát khao là được làm phi công trở lại," ông nhẹ nhàng đáp và tôi nhận thấy một vẻ chán chường trong giọng nói ông. "Anh đến nói chuyện với Tuyết Mai một chút đi," ông đột ngột nói, quay sang một bên và nhắm mắt lại. Rốt cuộc thì ông ta đã không bao giờ là một phi công trở lại. Công việc thấp kém của quản gia một tiệm bán rượu tại Huntington Beach, California là tất cả những gì số mệnh đã dành sẵn cho ông.
Khoảng khắc ngắn ngủi trong chuyến bay Air France đưa chúng tôi tới Sài Gòn đã cho tôi được biết nhiều về câu chuyện thực sự sau hậu trường của những cuộc hòa đàm ở Paris hơn bất cứ những gì tôi đã nghe được trong nhiều tuần làm nhiệm vụ tường thuật ở đó. Dường như nó biểu tượng cho số phận toàn miền Nam Việt Nam.
Tôi nhận nhiệm sở mới làm phóng viên cho Stern vùng Bắc Mỹ vào ngày 1 tháng 9 năm 1969. Ngay hôm sau thì Hồ Chí Minh qua đời. Bản cáo phó cho Hồ là bài báo Stern đầu tiên của tôi và trong lúc viết nó, tâm trí tôi trở về nỗi kinh hoàng tại Huế vì tôi phải diễn tả cái ý nghĩa quan trọng của ngôi trường Quốc Học nơi Hồ Chí Minh đã từng học lúc còn nhỏ. Điều này làm sống lại trong ký ức hình ảnh hàng ngàn người đói lạnh tôi đã gặp trong sân ngôi trường đó, họ bị đuổi ra khỏi nhà bởi cuộc công kích Tết Mậu Thân của Hồ Chí Minh. Trong cáo phó tôi cũng nêu ra một điểm mô tả Hồ Chí Minh là "con người từ vùng đất của cái thìa gỗ" vì Hồ xuất thân từ tỉnh Nghệ An của miền Trung. Dân vùng này quá nghèo và keo kiệt nên khi đi đâu, họ thường mang theo một cái thìa gỗ để chấm vào nước mắm được cho không, tức một loại nước chấm làm bằng cá đã dậy mùi của chủ quán, để tăng thêm chất đạm cho món ăn duy nhất họ có thể mua trong quán ăn: một chén cơm trắng.
Cuộc chia tay dài lâu của tôi với Việt Nam kéo dài trong suốt ba năm rưỡi tôi làm việc cho Stern ở Bắc Mỹ. Cho dù có muốn đi chăng nữa, tôi cũng không thể nào ngớt bận tâm đến Việt Nam được. Không một ngày trôi qua mà không có tin nổi bật về Việt Nam. Những vụ tuần hành vì hòa bình bất tận, rồi vụ bốn người biểu tình bị bắn chết tại Đại Học Kent State tại Ohio và vụ án giết người của Trung úy William Calley tôi đã tường thuật tại Ford Benning, Georgia. Là một Trung đội trưởng, Calley đã đóng một vai trò then chốt trong vụ thảm sát bởi lính Mỹ vào khoảng từ 347 đến 504 thường dân tại Mỹ Lai, một làng tại miền Nam Việt Nam. Khi tham dự phiên tòa quân sự xử Calley tôi không thể không nhớ đến tay quay phim truyền hình Mỹ đã từ chối quay cảnh mồ chôn tập thể tại Huế, cho rằng, "tôi đến đây không phải để truyền bá tuyên truyền chống cộng."
Dĩ nhiên tôi rất hài lòng khi Calley nhận án chung thân nhưng đồng thời cũng rất khó chịu vì Calley là sĩ quan Hoa Kỳ duy nhất bị xử án vì tội ác chiến tranh. Tôi hoàn toàn sững sờ khi Tổng thống Richard M. Nixon ra lệnh ân xá cho Calley. Tuy nhiên sự kiện tội ác của Calley đã khỏa lấp hành vi diệt chủng của Cộng sản đối với công chúng Mỹ khiến tôi rất bối rối. Sự khác biệt giữa hai chuyện này đã bị đánh rơi trong cách lập luận mê sảng đã trở thành một sắc thái không thể chịu đựng nổi trong một nền văn hóa bị truyền thông áp đảo: Tội ác của Calley rõ ràng là sự vi phạm chính sách đã được xác nhận của chính phủ Hoa Kỳ cùng các tiêu chuẩn về chiến tranh đã được quốc tế chấp nhận. Trong khi đó, các tội ác của Bắc Việt và Việt Cộng đã được thi hành như một phần không thể thiếu trong chính sách của nhà nước bao gồm cả chiến lược quân sự dựa trên khủng bố. Đối với tôi, đây là một sơ xuất nghề nghiệp lớn của các phương tiện truyền thông đã không nêu lên thật rõ ràng điểm mấu chốt này đối với công chúng.
Mùa xuân 1972 tôi trở lại Việt Nam một lần cuối cùng. Hơn bao giờ hết tôi mong muốn nhìn lại Huế một lần nữa, cái thành phố mà bẩy năm trước tôi đã trải qua một đêm huyền diệu trên một chiếc đò, lắng nghe giọng ca của một cô bé xinh đẹp với mái tóc dài đen tuyền. Tôi còn nhớ cái giọng ám ảnh gợi cảm của cô và giai điệu kỳ lạ của cây đàn Đáy hình thang, một nhạc cụ có ba giây mà cô gẩy trong lúc đò chúng tôi trôi trên dòng sông Hương. Tôi tương tư một cách gần như là bất thường cái thành phố tử đạo tôi đã rời bỏ trên một chiếc tầu đổ bộ bọc sắt sau nhiều tiếng đồng hồ tham dự chiến đấu trong từng căn nhà trong đợt công kích Tết Mậu Thân. Tôi cứ nhớ mãi ba bộ đồ trận tôi đã mặc cái này chồng lên cái kia, mọi thứ toát ra bụi bặm và tử khí. Ngoài ra tôi cũng cảm thấy bị thôi thúc một cách bệnh hoạn và u sầu là phải đi lại những bước chân dọc theo đại lộ Lê Lợi và được nhìn lại lần cuối cái cư xá đại học mà các vị bác sĩ Đức bị sát hại đã từng cư ngụ ở đó.
Lần này tôi đi cùng nhiếp ảnh viên Perry Kretz của Stern, một tay Mỹ gốc Đức sừng sỏ, biết hai thứ tiếng theo một kiểu riêng biệt: tiếng Anh theo giọng dân New York pha với tiếng Kölsch, một thổ ngữ tức cười của vùng Cologne. Thật là hay có anh là bạn đồng hành vì anh đã từng tham gia chiến trận nhiều rồi, khởi đầu với cuộc chiến Triều Tiên mà anh đã chiến đấu như một chiến sĩ trong quân đội Hoa Kỳ. Perry có thể tin tưởng được là sẽ không bị hoảng sợ dễ dàng.
Chúng tôi biết là nhiệm vụ phía trước rất khó khăn. Cộng sản mới phát động công kích mùa xuân, một chiến dịch lớn nhất từ trước đến nay. Mục tiêu của nó không hẳn để chiếm đất mà chủ đích là dùng để mặc cả trong các cuộc đàm phán hòa bình Paris. Một lực lượng xâm lăng khổng lồ đổ vào miền Nam Việt Nam từ Cam-Pu-Chia, Lào và đặc biệt trắng trợn vượt qua cái vùng gọi là phi quân sự chia đôi miền Bắc và miền Nam. Một phần lực lượng này, sau này tôi biết ra, gồm 25.000 quân tinh nhuệ mới trở về sau khi được huấn luyện tại Liên Sô và các quốc gia khối Hiệp ước Warsaw, trong đó có Đông Đức.
Quân Bắc Việt đã chiếm Quảng Trị mà vào năm 1965, trong một chuyến thăm Ủy Ban Kiểm Soát Quốc Tế đáng nhớ tôi đã từng làm thông ngôn cho một Thiếu tá Ba Lan khi ông ta cần điều trị vết thương đầu do chơi bóng chuyền. Tuy nhiên cuộc tấn công của Cộng quân vào Huế đã bị chận đứng, không phải do ngưòi Mỹ lúc đó đã triệt thoái gần hết ra khỏi Việt Nam, chỉ còn lại 69.000 người, mà nhờ các lực lượng ưu tú nhất của Quân Lực VNCH: Nhẩy Dù, TQLC Việt Nam, Sư đoàn 1 và Biệt Động Quân. Họ được chỉ huy một cách xuất sắc bất chấp sự bịa đặt loan truyền bởi một số ký giả Mỹ cho là quân đội VNCH không biết chiến đấu.
Thực tế thì họ có kỷ luật và chuyên nghiệp hơn đối phương phía Bắc. "Bọn Bắc Việt mang qua 100 chiến xa do Liên Sô sản xuất vượt qua vùng phi quân sự nhưng lại không biết sử dụng chúng," một cố vấn Mỹ kể với chúng tôi trên chuyến bay từ Sài Gòn ra Huế, "Họ phải bỏ lại hàng đống các chiến cụ này. Anh mà lái lên quốc lộ 1 thì sẽ thấy các bộ phận thiết bị đầy rẫy với chiến xa của Liên Sô bị bỏ lại."
Perry và tôi thuê một anh tài xế với dáng vẻ và thái độ đặc biệt của giới trí thức thuộc tầng lớp thượng lưu cổ kính của Huế. Anh là một thanh niên điềm đạm và nghiêm trang, bị cận thị với cặp mắt kiếng dầy cộm và nói tiếng Pháp rất giỏi. Tên anh là Hiền. Anh làm chủ một chiếc xe jeep còn tốt được trang bị bao cát để chống miểng trong trường hợp chúng tôi cán phải mìn dưới đất.
Đầu tiên chúng tôi lái lên Kỳ Đài, nơi mà tôi không thể vào được trong dịp Tết 1968 vì còn nằm trong tay Cộng quân. Tuy nhiên trong lúc này tôi gặp các chiến sĩ VNCH vẻ mệt mỏi đang nghỉ ngơi trên những chiếc võng mắc ngang các khẩu thần công có niên đại từ đầu thế kỷ 19. Những khẩu súng này là biểu tượng của niềm hy vọng và tự hào cho họ, đặc biệt trong thời điểm mà các đơn vị ưu tú VNCH - mà không phải là Hoa Kỳ đang sửa soạn triệt thoái - đã chận đứng một cuộc xâm lăng toàn bộ mới của quân Cộng sản. Những khẩu đại bác nhắc nhở họ là đất nước đã từng bị chia lìa trong 200 năm. Chính một vị vương miền Nam, Nguyễn Ánh, đã kết thúc sự chia cắt bằng cách đánh bại triều đại Tây Sơn vào các năm 1801/1802 với sự trợ giúp của 300 lính đánh thuê người Pháp.
( còn tiếp)
thuykhanh
01-25-2017, 08:26 PM
Đức: Tình Yêu Của Một Phóng Viên Cho Một Dân Tộc
Nhiều Đau Thương
Chương 16: Cuộc Chia Tay Dài Lâu Với Niềm Phi Lý
Bản dịch của Lý Văn Quý & Nguyễn Hiền
( tiếp theo và hết chương 16)
Sau đó Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế với danh xưng Gia Long. Vua Gia Long đã tịch thu các mảnh đồng chiến cụ của quân Tây Sơn bại trận và ra lệnh đem nấu chảy đúc thành chín khẩu thần công. Năm khẩu được đặt tên theo ngũ hành là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, còn lại bốn khẩu thì đặt tên theo bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Những khí cụ này chưa bao giờ được khai hỏa trong chiến trận mà chỉ được sử dụng trong các dịp lễ lạc.
"Chi tiết lịch sử này rất sâu đậm trong tâm trí chúng tôi," Chuẩn tướng Bùi Thế Lân nói. Ông là tư lệnh TQLC VNCH và Bộ chỉ huy đặt trong Thành Nội Huế. Tôi quen với tướng Lân từ nhiều năm qua. Dưới mắt nhiều viên chức Hoa Kỳ, các tùy viên quân sự ngoại quốc tại Sài Gòn và các phóng viên thì người lính sinh trưởng tại Hà Nội này thuộc vào hạng chỉ huy có khả năng và dữ dằn nhất trong cuộc xung đột này.
"Nếu Huế rơi thì cuộc chơi của chúng tôi sẽ chấm dứt," Lân tiếp tục. "Đó là lý do tại sao chính phủ chúng tôi đã điều động các đơn vị tinh nhuệ nhất ra phía Bắc và phía Tây nơi đây. Nếu ngày nào Việt Nam được thống nhất thì Huế phải thành thủ đô trở lại. Bọn Bắc Việt biết điều này nên cuộc công kích hiện giờ cũng hoàn toàn nhằm vào điều đó." Ngày hôm sau, một tù binh Bắc Việt xác nhận với tôi chuyện này.
"Mục tiêu của chiến dịch này là gì, theo cấp chỉ huy của anh?" Tôi hỏi anh ta.
"Chiếm Huế và thiết lập một chính quyền cách mạng trong Thành Nội ngay lập tức," anh trả lời.
Chúng tôi phỏng vấn anh ta tại một vị trí tiền phương khoảng 20 dặm về hướng Bắc của Huế. Anh ngồi xổm dưới đất, bị trói và bịt mắt trong khi một Đại úy TQLC VNCH quạt đuổi ruồi khỏi mặt anh, một trung sĩ gắn trên môi anh một điếu thuốc đã châm sẵn và một hạ sĩ khác cho anh uống nước. Perry và tôi rất cảm động trước nghĩa cử đối với kẻ địch vào một thời điểm mà miền Nam còn đang phải chiến đấu cho sự sống còn của mình.
Anh lính mới chỉ 17 tuổi, xuất thân từ Nam Định, một thành phố cách Hà Nội 50 dặm về hướng Nam. Sau ba tháng huấn luyện căn bản anh được điều vào Trung đoàn 66 Bắc Việt đến Quảng Trị và lần xung trận đầu tiên cũng là lần cuối cùng của anh. "Ba phần tư người trong Tiểu đoàn tôi đã tử trận và tôi bị thương trên đầu," anh nói với tôi, "sau đó thì tôi bị bắt."
http://www.svqy.org/2013/6-2013/frame/DSC_0545c%20%28558%20x%20600%29.jpg
Perry Kretz
Lính Thủy Quân Lục Chiến VNCH nghỉ ngơi bên những khẩu đại bác
đúc từ đầu thế kỷ 19 trong Kỳ Đài Huế
http://www.svqy.org/2013/6-2013/frame/Perry_K_004.jpg
Perry Kretz
Không đội trời chung với Việt Cộng, tuổi trẻ Huế xung phong chống cộng
http://www.svqy.org/2013/6-2013/frame/Perry_K_007.jpg
Perry Kretz
Thủy Quân Lục Chiến VNCH săn sóc tù binh Cộng sản Bắc Việt
http://www.svqy.org/2013/6-2013/frame/Perry_04.jpg
Perry Kretz
Perry Kretz, Tướng TQLC Bùi Thế Lân và tác giả tại Huế
Chúng tôi lái lên hướng Bắc theo Quốc lộ 1 được người Pháp đặt tên là "Con lộ không niềm vui," do đã có quá nhiều lính tráng và dân thường đã bỏ mạng nơi này trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất. Chúng tôi biết là không thể đi xa được bởi vì hầu hết các đơn vị tiên phong của Bắc Việt chỉ cách Huế 20 dặm.
Mục đích của chuyến đi này là thử xem tình trạng của con đường này trong bối cảnh lịch sử của nó, so sánh với những gì tôi đã đọc trong các cuốn sách của Bernard Fall. Tôi cũng tự hỏi không biết những đứa trẻ chăn trâu mà tôi đã kể khá nhiều trong một chương trước có còn đây hay không. Té ra là chúng biến mất đâu cả rồi và điều này là một dấu hiệu đáng ngại. Quốc lộ 1 đã trở thành một con đường đáng sợ. Chiếc xe của chúng tôi là chiếc duy nhất trên con lộ đột nhiên trở thành chiến tuyến giữa vị trí quân Bắc Việt hướng Tây và các lực lượng VNCH hướng Đông. Đạn súng cối và pháo binh bay qua đầu từng đợt bất thường.
Perry ngồi trên ghế hành khách bên cạnh Hiền trong khi tôi thì ngồi đằng sau ngó chăm chú qua vai Hiền vào mặt đồng hồ tốc độ, càng lúc càng lo lắng. Mũi kim đồng hồ ít khi nào vượt qua mức 30 cây số một giờ. Dán sát mũi vào mặt trong kính chắn gió, anh chàng Hiền cận thị lái chậm rãi một cách nguy hiểm vô cùng trên đoạn đường gian nguy này.
"Lái nhanh lên đi, Hiền," tôi khẩn khoản nói với anh, "Chúng ta bị bắn sẻ mất. Chỉ có tốc độ mới thoát thôi."
"Tôi phải xem xét mặt đường kẻo có mìn, thưa ông," Hiền nói, "Nhưng mắt tôi không tốt lắm để có thể nhìn thấy chúng."
"Vậy thì để tôi lái đi, mắt tôi còn tinh," tôi nói.
"Không được thưa ông. Chiếc xe này chỉ được bảo hiểm dưới tên tôi thôi,"
anh trả lời một cách không thành thật lắm làm Perry nổi điên lên.
"Ya hoid him, ya schmuck..., lái nhanh lên!" Perry tru lên bằng một giọng có thể được kính nể tại New York nhưng hoàn toàn không phải là cách lý tưởng để thuyết phục một nhà trí thức người Huế.
Đến đây thì Hiền giận lắm rồi. Anh đạp mạnh thắng. Chiếc xe jeep đậu lại ở một chỗ tệ hại nhất có thể bị mắc kẹt trong một cuộc đụng độ: tại một nơi trống trải trên một con lộ thoáng ra mọi hướng, trong khi đạn pháo binh hai bên bay vun vút qua đầu.
Hiền và Perry cãi nhau càng lúc càng hăng bằng bốn thứ tiếng. Tiếng Hiền the thé pha lẫn tiếng Việt và tiếng Pháp trong khi Perry hò hét phần giống như dân New York, phần như dân sinh trưởng vùng Rhineland của anh. Kịch trường của sự phi lý đã đạt đến một mức độ mà có lẽ thần chết đã trở thành một khả năng có thể xảy ra. Tôi giựt lấy chìa khoá xe của Hiền và nói, "Tôi muốn sống sót qua trận này và tôi chạy đi núp đây. Nếu quý vị bình tĩnh lại trước khi mất mạng thì theo tôi vào cái mương kia." Tiếp theo tôi nhảy ra khỏi đằng sau xe và chạy lúp xúp khoảng 500 thước đến khi tìm được một một cái hốc bên cạnh đường đủ sâu để núp vào như một cái hố cá nhân.
Hiền và Perry còn tiếp tục cãi nhau một chập nữa nhưng không lâu lắm. Họ chạy theo tôi vào cái hố cho tới khi cuộc đụng độ lắng dịu dần. Thật là kỳ diệu, chiếc xe của Hiền không hề hấn gì.
"Tôi sẽ lái đây," tôi nói và vòng xe lại. Tôi nhấn ga và lái quanh co về lại hướng Huế, vừa cố gắng tránh bị bắn tỉa vừa lái vòng qua những khoảng mặt đường bị vá trông có vẻ như có dấu bị đặt mìn.
Trên đường về gần thành phố chúng tôi chỉ đi ngang duy nhất một chiếc xe dân sự khác. Đó là một chiếc xe buýt Lambretta ba bánh, hay xe Lam. Người tài xế có vẻ không màng gì đến chuyện bị bắn sẻ hay đạn súng cối gì cả. Đột nhiên anh ta ngừng lại, chúng tôi cũng vậy, khá ngạc nhiên về đồ chở trên xe và người hành khách. Chúng tôi thấy hai cỗ quan tài nhỏ và một người đàn bà có bộ răng nhuộm đen. Bà ta vật vã gào thét, "Ôi các con tôi, ôi các con ơi, tại sao con lại bỏ mẹ ra đi?"
"Chuyện gì vậy?" Tôi hỏi người tài xế xe Lam. Hiền dịch lại.
"Mấy đứa nhỏ bị chết đêm qua vì Bắc Việt pháo kích làm ngôi làng chúng tôi đằng kia bị phá hủy hoàn toàn," người tài xế trả lời, chỉ tay về hướng một cụm những túp lều đổ nát vài trăm thước về phía Nam dọc theo Quốc lộ 1. Tám người lính VNCH xuất hiện từ những hầm cá nhân cạnh bên đường tiến đến khiêng hai cỗ quan tài. Họ chôn chúng bên bờ một khúc ruộng, dặn dò người mẹ đừng đến quá gần. "Cẩn thận có mìn đấy!" Họ cảnh cáo.
Từ một khoảng cách ngắn, người phụ nữ ném một nắm kẹo vào ngôi mộ trước khi các binh sĩ lấp nó lại.
Chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình. Đến vùng ngoại ô Huế chúng tôi đi ngang khoảng một chục thiếu niên có vũ trang ngồi xổm trên một bức tường. Trông họ còn quá trẻ để vào lính.
"Họ là ai vậy?" Tôi hỏi Hiền.
"Nhân dân tự vệ," anh nói. "Tất cả họ đều tình nguyện chiến đấu chống Cộng sản."
"Cái này mới à," tôi thăm dò, "Đặc biệt ở Huế mọi người có vẻ không muốn dính dáng đến chiến tranh."
“Không đâu,” Hiền giải thích. "Chúng tôi khi trước thường ghét người ngoại quốc, đầu tiên là người Pháp rồi sau đó là người Mỹ. Nhưng từ sau Tết Mậu Thân chúng tôi thù Cộng sản, tất cả mọi người từ học sinh cho đến
Hoàng Thái Hậu."
"Cái gì? Vẫn còn Thái Hậu à?"
"Dĩ nhiên rồi, bà là mẹ của Hoàng đế Bảo Đại. Tên bà là Hoàng Thị Cúc," anh trả lời, "Chúng tôi gọi bà là Đức Từ Cung, có nghĩa là một vị cung phi từ bi đức độ nhất."
"Đức," tôi thốt lên. "Biệt danh tôi cũng là Đức và có nghĩa là người Đức nữa. Như vậy chúng tôi cũng có điểm giống nhau đây."
Ít nhất một lần anh chàng Hiền đạo mạo cũng tự cho phép mình nở một nụ cười và đùa một chút:
"Ngoại trừ một điều, bà ta là Đức... Hoàng Tộc."
"Như vậy thì bà ta không phải đi theo con trai lưu vong qua miền Nam nước Pháp à?"
"Không, bà sống ngay đây trong một căn biệt thự trên đại lộ Lê Lợi."
"Anh có quen với bà không, có thể sắp xếp cho tôi phỏng vấn được không?" Tôi hỏi.
"Đúng, tôi có quen với bà. Nhưng không, bà sẽ không cho anh phỏng vấn. Thái Hậu không cho ký giả phỏng vấn, chỉ cho tiếp kiến thôi. Tuy nhiên tôi nghĩ có thể thu xếp được cho anh."
Hai ngày sau, Hiền đưa chúng tôi đến chỗ cư ngụ của Thái Hậu. Điều đầu tiên tôi nhận ra là hàng chữ nguệch ngoạc trên bờ tường vườn bà. "Cắt đầu," có nghĩa là cắt cổ họng. Nhưng chữ tiếp theo "Mỹ," có nghĩa là người Mỹ, đã bị sơn trắng đi, rõ ràng là một nhận định chính trị.
Một người cận thần thật gầy mặc bộ áo dài đã sờn nát hướng dẫn chúng tôi cung cách hành xử trước mặt Hoàng gia. Chúng tôi phải cung kính chắp tay trước mặt. Chúng tôi không được chạm vào người Bà và không được lên tiếng trước. Bà có đặc quyền được mở đầu câu chuyện.
Chúng tôi được dẫn vào phòng khách và Đức Từ Cung, một người phụ nữ bé nhỏ 83 tuổi mặc chiếc áo dài màu vàng, màu dành riêng cho vua chúa, ngồi trên một chiếc ngai vàng cầu kỳ đằng trước một bàn thờ cũng cầu kỳ không kém trên đó có hình phu quân của bà, Hoàng đế Khải Định và hình của người con xa xôi Bảo Đại. Bà luôn miệng hút thuốc lá Bastos là một loại thuốc lá đen rất nặng.
http://www.svqy.org/2013/6-2013/frame/Perry_K_005b.jpg
Perry Kretz
Triều kiến Đức Từ Cung Hoàng Thái Hậu
Nước trà ướp hoa nhài được dâng lên trong những chiếc tách sứ tráng men có viền vàng. Đức Từ Cung nói nhỏ nhẹ bằng tiếng Việt và người cận thần dịch lại. Bà nói rõ Bà chỉ là người giữ chỗ cho con trai là người cai trị chính danh của Việt Nam. Bà sẽ không bao giờ tự nguyện rời bỏ Huế trừ phi bọn Cộng sản tiến chiếm và bắt Bà. Tuy nhiên Bà đã không chịu rời nhà trong suốt ba tuần lễ khủng bố của bọn chúng trong đợt Tết Mậu Thân 1968.
"Tôi không thể lìa bỏ thần dân," Bà nhấn mạnh.
"Dân chúng Huế vẫn còn ủng hộ triều đình. Họ đến diện kiến tôi cả ngày, người giàu cũng như kẻ nghèo, quý tộc và thường dân, cao hay thấp. Tổng thống Thiệu và Phó Tổng thống Kỳ mới đây còn phái các vị phu nhân đến viếng thăm tôi để bày tỏ sự kính trọng và Đại tá Tôn Thất Khiêm, Tỉnh trưởng Thừa Thiên vẫn thường xuyên thỉnh ý kiến tôi."
Nghe Bà kể chuyện là một kinh nghiệm u sầu, giống như lần gặp Hoàng thân Norodom Sihanouk vào năm 1968. Có phải đây là một màn kịch trường của sự phi lý nữa chăng? Tôi không nghĩ như vậy. So sánh với những gì tôi đã trải qua tại Huế, điều này đánh động tôi một thoáng nhìn về một cuộc sống bình thường có văn hoá đáng lẽ cái xứ sở này phải có và lòng tôi trĩu buồn khi nghe kể là để kinh tài cho phong trào phục hoàng, Bà đã phải bán đi những chiếc bình sứ trong các ngôi đền tổ tiên hoàng gia.
Còn một chuyện nữa tôi phải làm trước khi vĩnh viễn rời Huế: là một người say mê về xe lửa, tôi muốn đi thăm một lần chót cái ga tầu hỏa cũ kỹ của Huế. Tất nhiên du lịch bằng xe lửa tại Việt Nam đã bị gián đoạn từ lâu rồi, nhưng tôi vẫn luôn bị xúc động bởi cái phong cách mà người Việt Nam gìn giữ, ít nhất về bề ngoài của một sự liên tục, với các thời khóa biểu và lịch trình giá cả được cập nhật hóa hết sức tỉ mỉ.
"Chúng ta có mặt ở đó tám giờ vào buổi sáng đi," Hiền đề nghị.
Chúng tôi đến sớm hơn một chút, tản bộ trên nền sân ga. Chúng tôi nhận thấy một tấm bảng mờ cho biết là Sài Gòn cách 1.041 cây số và Hà Nội 688 cây số. Một đầu xe lửa diesel đang nổ máy đậu tại đó. Cái đầu máy này cùng với một toa hành lý tạo thành Chuyến Tầu Tốc Hành Xuyên Đông Dương đã từng lừng danh một thời.
Ông trưởng ga xuất hiện, mở ra một lá cờ đỏ, vẫy lên và huýt một hồi còi. Chiếc đầu máy hụ còi và đúng tám giờ sáng chuyến tầu hỏa rời khỏi trạm ga. Năm phút sau, nó trở lại, chỉ di chuyển một vòng vỏn vẹn không hơn một cây số. Kỹ sư tầu, một người trạc 50 tuổi có tên là Dương tắt máy. Trưởng ga cuộn cờ đỏ lại và một ngày làm việc của họ chấm dứt. Một lần nữa họ đã chứng tỏ là Chuyến Tầu Tốc Hành Xuyên Đông Dương vẫn còn hoạt động.
Lạ lùng thay, hoạt cảnh này không có gì là phi lý đối với tôi mà nói lên niềm đức hạnh hay "Đức" trong tiếng Việt tức một lời chứng thực cho niềm hy vọng khi đối mặt với tai họa. Khi chúng tôi rời ga xe lửa, hai chục người phu xe đang chờ bên ngoài với những chiếc xích-lô xếp hàng thật ngay ngắn.
"Tại sao lại ở đây?" Perry Kretz hỏi anh xích-lô trưởng toán.
"Không ở đây thì chúng tôi ở đâu bây giờ?" Anh hỏi ngược lại.
Vào lúc đó và tại nơi đó, tôi chợt hiểu là có sự hợp lý trong cái kịch trường của sự phi lý.
http://www.svqy.org/2013/6-2013/frame/Perry_K_003.jpg
Perry Kretz
Tài xế xích lô xếp hàng đợi khách vô hình trước cổng ga xe lửa
tầu đã ngừng chạy tại Huế
PS:
tk cảm ơn quí bạn đã ghé đọc, đôi khi tham gia, cho ý kiến;
đặc biệt là CCG.
Bài dài, tk không giỏi nên đã chuyển sang một cách vụng về nhưng
CCG vẫn kiên nhẫn theo dõi.
:z57:Chị Thuỵ Khanh.
Em vô chào chị. Bài viết rất là hay, càng đọc càng ngậm ngùi cho những năm tháng lớn lên trong chiến tranh.
"Vào lúc đó và tại nơi đó, tôi chợt hiểu là có sự hợp lý trong cái kịch trường của sự phi lý."
- em cám ơn chị đã post.:z57:
ps: NganHa1 có nhắc về chị khi 2 đứa em gặp nhau. Tụi em rất quí chị. Mong được gặp chị khi có dịp.
Thương,
em.
thuykhanh
01-27-2017, 10:55 AM
:z57:Chị Thuỵ Khanh.
Em vô chào chị. Bài viết rất là hay, càng đọc càng ngậm ngùi cho những năm tháng lớn lên trong chiến tranh.
"Vào lúc đó và tại nơi đó, tôi chợt hiểu là có sự hợp lý trong cái kịch trường của sự phi lý."
- em cám ơn chị đã post.:z57:
ps: NganHa1 có nhắc về chị khi 2 đứa em gặp nhau. Tụi em rất quí chị. Mong được gặp chị khi có dịp.
Thương,
em.
tk chào CCG,
Cảm ơn em đã theo dõi, còn cho tk lời khuyến khích quí báu. Cho chị gởi lời thăm và cảm ơn Ngân Hà. :z57::z57:
Hồi ký của ông Uwe Siemon-Netto đã giải đáp cho chị vài thắc mắc có từ hồi còn ở Traị tỵ nạn Mã - Lai. Trong một lần nói chuyện, ông Đức trẻ này nói thẳng là không thích người Mỹ và bảo rằng nếu sau này có qua Mỹ chỉ để thăm những người bạn Việt Nam như chị và những người tỵ nạn khác.
Chị đã không hiểu sao người thanh niên này có vẻ bài Mỹ vậy nhưng ngại không hỏi.
Thì ra người dân Đức đã theo dõi và biết tình hình nước mình từ lâu, còn rõ hơn mình nữa; nhờ bài viết của những người như ông phóng viên chiến trường kể trên.
Khi gia đình chị được chuyển qua trại chuyển tiếp Cheras ở Kuala Lampur, ông Đại sứ Đức và bà vợ có đến thăm trại và hỏi chị cần gì không. Vì trại sắp đóng cửa nên chị không dám xin gì hết, sợ phí.
Trước đó chị đã xin mấy bà Mỹ vô làm việc thiện nguyện sách báo và phương tiện để làm một thư viện nhỏ cho mọi người có nơi đọc sách; xin banh cho mấy em nhỏ chơi. Họ còn mang con vô múa hát, sinh hoạt chung với các em nữa.
Sắp sang năm mới, xin chúc CCG, Kim, dulan, anh Hoài, anh Triển, ốc, cuocsi, Việt Hạo Nhiên, anh Kiến, The Monk of Canterbury cùng Phố và các bạn cũng như gia đình được sức khỏe dồi dào, nhiều niềm vui và muôn điều như ý.
http://i.imgur.com/7Y9seHM.png
(Nguồn hình: từ Net và anh Triển)
hoài vọng
01-29-2017, 08:36 PM
Trong một lần nói chuyện, ông Đức trẻ này nói thẳng là không thích người Mỹ và bảo rằng nếu sau này có qua Mỹ chỉ để thăm những người bạn Việt Nam như chị và những người tỵ nạn khác.
Chị đã không hiểu sao người thanh niên này có vẻ bài Mỹ vậy nhưng ngại không hỏi.
Không phải chỉ có những người dân sự không thích Mỹ , trong QLVNCH cũng có những người ghét Mỹ ...đã có lần tôi nói đến Cố Vấn J P Vann trong mặt trận Charlie , khi còn sống , anh SONGCON gửi cho tôi xem những nhận xét không tốt về J P Vann , có những người Mỹ rất tốt ...tiếc rằng HỌ chỉ là những tiếng nói lẻ loi trong guồng máy khổng lồ phải chạy theo ý định quốc hội Mỹ
thuykhanh
01-30-2017, 09:35 AM
Không phải chỉ có những người dân sự không thích Mỹ , trong QLVNCH cũng có những người ghét Mỹ ...đã có lần tôi nói đến Cố Vấn J P Vann trong mặt trận Charlie , khi còn sống , anh SONGCON gửi cho tôi xem những nhận xét không tốt về J P Vann , có những người Mỹ rất tốt ...tiếc rằng HỌ chỉ là những tiếng nói lẻ loi trong guồng máy khổng lồ phải chạy theo ý định quốc hội Mỹ
Chào anh Hoài,
Những người lính Mỹ ở Việt Nam về cũng bị đối xử rất tệ. Tôi nhận ra điều này sau khi làm việc ở nhà thương một thời gian. Biết tôi là người Việt, không có vẻ thù oán gì, một bác sĩ chuyên về giải phẫu não bộ, cột sống ( Neurosurgery) cho tôi hay đã ở Quảng Trị năm 1969.
Mỗi buổi sáng, xe jeep của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đưa ông từ Lavang đến bệnh viện QT làm việc rồi buổi chiều đưa về căn cứ chứ không hề bắn giết ai. Ông dặn tôi dấu chuyện này, đừng cho người nào biết.
Về sau có 2 DS trước kia cũng ở VN, họ vào sau và tránh nói chuyện về VN. Tôi tận tình giúp (training) họ quen với công việc đến nỗi
boss và supervisors đã hỏi sao mấy người mới biết việc mau vậy. Thế là từ đó, khi nào có DS mới là họ giao cho tôi huấn luyện đó anh Hoài.
Cô DS phụ tá boss kể rằng hồi chồng cô ta ở VN về, đã bị người dân Mỹ nhổ bọt vào mặt.
Sau này, tình trạng đã cải thiện nhiều rồi, anh Hoài à.
thuykhanh
07-13-2017, 02:14 PM
**
Ngày 30 tháng 6 vừa qua, vị BS của TQLC nói ở trên nghỉ hưu.
Nhân viên của bịnh viện chuẩn bị một phòng tiếp tân để ông có dịp chào giã từ sau 50 năm làm việc trong ngành Y.
Các BS kỳ cựu thường không có đông người đến gặp nên ông không mong đợi gì nhiều.
Rồi thì BN bắt đầu đến : " ông ấy cứu tôi mấy lần", Darren Cox ở Laureldale nói. " Ông giúp giải phẫu tôi từ khi 12 tuổi, bây giờ tôi 42."
(còn tiếp)
Meganne Quick, 35 tuổi, ở Sinking Spring có khuyết tật bẩm sinh nơi cột sống mang tên spina bifida.
"Ông ấy là BS của tôi từ khi mới sinh ra" cô nói. "Tôi sẽ nhớ dù chỉ được thấy ông."
Trong ba giờ đồng hồ, Cox, Quick và 250 bịnh nhân khác cùng gia đình của họ đến để gặp vị BS sắp nghỉ hưu.
Giòng người bao quanh hai phòng họp.
Bịnh nhân từ rất trẻ đến rất già. Vài người cầm gậy hay dùng xe lăn, chậm chạp tiến đến nơi tiếp tân của
bệnh viện. Nhưng tất cả đều muốn có mặt ở đó.
Những người khác rơm rớm nước mắt vì BS này đã có mặt khi họ cần ông.
" Vợ tôi có bướu não và ông BS đã mổ bỏ đi và tiếp tục chữa trị bà năm năm dài," Roy Snyder ở Wyomissing nói
vậy. Bà vợ Mary Jane của ông mất năm 2015.
" Ông ấy là BS giỏi nhất và tôi muốn đến để cảm ơn," lời ông Snyder.
Phỏng dịch một phần trong bài Gifted surgeon gets big send-off của Matthew Nojiri
đăng trên nhật báo Reading Eagle ngày July 11,2017
http://life@readingeagle.com
_________
PS:
Chào và cảm ơn anh Hoài cùng Phố.
tk xin lỗi đã không dịch hết được toàn bài vì lý do sức khỏe.
Hôm qua, lúc cho tk xuất viện, BS đã dặn phải nghỉ dưỡng nên không
dám làm hết sức mình.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5 Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.