PDA

View Full Version : Văn, Thơ Sưu Tầm__



XXG
04-18-2021, 09:18 PM
___ Hôm nay tôi mở ra trang này để đăng lại những vần thơ, những áng văn mà tôi yêu thích của nhiều tác giả khác nhau, kể cả những tác giả hiện đang là hội viên của Phố. Vì đang trong Tháng Tư, như một lời cảm ơn đến những anh/chú/bác đã từng một thời khoác áo chiến binh dưới màu cờ của Quân Lực VNCH, nên những bài thơ đầu tiên tôi mang về sẽ là thơ lính hoặc thơ được sáng tác cho người lính VNCH. Xin mời ACE cùng thưởng thức...

XXG
04-18-2021, 09:20 PM
Lời Trước Nghĩa Trang__


Tao sống đến ngày cuối cùng cuộc chiến
Được cái hơn mầy nhìn thấy đau thương
Đành làm người ngu đổ thừa vận nước
Uổng cả tháng ngày gối đá nằm sương

Mầy đã hơn tao vì mầy đã chết
Hưởng chút lễ nghi hưởng chút ân cần
Có được người thân cho lời nuối tiếc
Còn tao bây giờ sống cũng như không

Mầy có tin không, quê hương đã mất
Giữa lúc bọn tao nguyên vẹn hình hài
Đâu thuở quân trường đâu thời huấn nhục
Để nhận lấy ngày khốn nạn hôm nay

Một lũ đàn anh tan hàng cuốn gói
Bỏ mặc bọn tao đứng khóc dưới cờ
Món nợ tang bồng bao giờ trả nổi
Mất cả sơn hà cứ tưởng như mơ

Giờ chẳng dám nhìn ngay vào mắt Mẹ
Cũng chẳng đủ lời tâm sự cùng Cha
Đành đến thăm mầy
................. những thằng đã chết
Ngày…
....... Quê Hương
.................. còn lắm nỗi thiết tha.

___________
(Trạch Gầm)

XXG
04-18-2021, 09:24 PM
Ta Về__


Ta về một bóng trên đường lớn
Thơ chẳng ai đề vạt áo phai
Sao bỗng nghe đau mềm phế phủ
Mười năm đá cũng ngậm ngùi thay

Vĩnh biệt ta-mười-năm chết dấp
Chốn rừng thiêng im tiếng nghìn thu
Mười năm mặt sạm soi khe nước
Ta hóa thân thành vượn cổ sơ

Ta về qua những truông cùng phá
Nếp trán nhăn đùa ngọn gió may
Ta ngẩn ngơ trông trời đất cũ
Nghe tàn cát bụi tháng năm bay

Chỉ có thế. Trời câm đất nín
Đời im lìm đóng váng xanh xao
Mười năm, thế giới già trông thấy
Đất bạc màu đi, đất bạc màu

Ta về như bóng chim qua trễ
Cho vội vàng thêm gió cuối mùa
Ai đứng trông vời mây nước đó
Ngàn năm râu tóc bạc phơ phơ

Một đời được mấy điều mong ước
Núi lở sông bồi đã mấy khi
Lịch sử ngơi đi nhiều tiếng động
Mười năm, cổ lục đã ai ghi

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cảm ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ nỗi lẻ loi

Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa
Làng ta ngựa đá đã qua sông
Người đi như cá theo con nước
Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng

Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này

Ta khóc tạ ơn đời máu chảy
Ruột mềm như đá dưới chân ta
Mười năm chớp bể mưa nguồn đó
Người thức mong buồn tận cõi xa

Ta về như hạt sương trên cỏ
Kết tụ sầu nhân thế chuyển dời
Bé bỏng cũng thì sinh, dị, diệt
Tội tình chi lắm nữa người ơi

Quán dốc hơi thu lùa nỗi nhớ
Mười năm người tỏ mặt nhau đây
Nước non ngàn dặm bèo mây hỡi
Đành uống lưng thôi bát nước mời

Ta về như sợi tơ trời trắng
Chấp chới trôi buồn với nắng hanh
Ai gọi ai đi ngoài cõi vắng
Dừng chân nghe quặn thắt tâm can

Lời thề buổi ấy còn mang nặng
Nên mắc tình đời cởi chẳng ra
Ta nhớ người xa ngoài nỗi nhớ
Mười năm ta vẫn cứ là ta

Ta về như tứ thơ xiêu tán
Trong cõi hoang đường trắng lãng quên
Nhà cũ mừng còn nguyên mái, vách
Nhện giăng, khói ám, mối xông nền

Mọi thứ không còn ngăn nắp cũ
Nhà thương-khó quá sống thờ ơ
Giậu nghiêng cổng đổ, thềm um cỏ
Khách cũ không còn, khách mới thưa

Ta về khai giải bùa thiêng yểm
Thức dậy đi nào, gỗ đá ơi
Hãy kể lại mười năm chuyện cũ
Một lần kể lại để rồi thôi

Chiều nay ta sẽ đi thơ thẩn
Thăm hỏi từng cây, những nỗi nhà
Hoa bưởi, hoa tầm xuân có nở?
Mười năm, cây có nhớ người xa?

Ta về như đứa con phung phá
Khánh kiệt đời trong cuộc biển dâu
Mười năm, con đã già trông thấy
Huống mẹ cha đèn sắp cạn dầu

Con gẫm lại đời con thất bát
Hứa trăm điều một chẳng làm nên
Đời qua, lớp lớp tàn hư huyễn
Giọt lệ sương thầm khóc biến thiên

Ta về như tiếng kêu đồng vọng
Rau mác lên bờ đã trổ bông
Cho dẫu ngàn năm em vẫn đứng
Chờ anh như biển vẫn chờ sông

Ta gọi thời gian sau cánh cửa
Nỗi mừng giàn giụa mắt ai sâu
Ta nghe như máu ân tình chảy
Tự kiếp xưa nào tưởng lạc nhau

Ta về dẫu phải đi chân đất
Khắp thế gian này để gặp em
Đau khổ riêng gì nơi gió cát
Thềm nhà bụi chuối thức thâu đêm

Cây bưởi xưa còn nhớ, trắng hoa
Đêm chưa khuya quá hỡi trăng tà
Tình xưa như tuổi già không ngủ
Thức trọn, khua từng nỗi xót xa

Ta về như giấc mơ thần bí
Tuổi nhỏ đi tìm một tối vui
Trăng sáng soi hồn ta vết phỏng
Trọn đời nỗi nhớ sáng khôn nguôi

Bé ơi, này những vui buồn cũ
Hãy sống, đương đầu với lãng quên
Con dế vẫn là con dế ấy
Hát rong bờ cỏ giọng thân quen

Ta về như nước Tào Khê chảy
Tinh đẩu mười năm luống nhạt mờ
Thân thích những ai giờ đã khuất
Cõi đời nghe trống trải hơn xưa

Người chết đưa ta cùng xuống mộ
Đâu còn ai nữa đứng bờ ao
Khóc người ta khóc ta rơi rụng
Tuổi hạc ôi ngày một một hao

Ta về như bóng ma hờn tủi
Lục lại thời gian kiếm chính mình
Ta nhặt mà thương từng phế liệu
Như từng hài cốt sắp vô danh

Ngồi đây nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ thủa thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi

Ta về như hạc vàng thương nhớ
Một thủa trần gian bay lướt qua
Ta tiếc đời ta sao hữu hạn
Đành không trải hết được lòng ta

____(Tô Thuỳ Yên)___

XXG
04-18-2021, 09:29 PM
(Đăng bài thơ này tặng riêng ông anh Hoài Vọng)




Tâm Sự Người Lính Dù__

lòng đã nguyện với hồn thiêng sông nùi
hiến dâng đời khi đất nước lâm nguy
anh bỏ nhà năm mười chín tuổi ra đi
ôm chí lớn trong tầm tay súng nhỏ

những tháng quân trường mồ hôi tháo đổ
và sa trường là khắp nẻo biên khu
tính đến hôm nay năm tuổi lính dù
ba lần chiến công, hai lần chiến tích

một buổi xung phong vào lòng đất địch
anh ôm dù lao xuống giữa mật khu
những chiếc dù to chụp xác quân thù
tin chiến thắng bốn phương về rộn rã

Bắc, Băng Lăng, Ðức Cơ, Bình Gìa...
khói súng cay nòng lấm áo chiến binh
những chuyến đi dài nuốt trọn đời anh
không kịp nhớ, kịp thương một lần lấy đẹp!

súng gác lưng đèo đêm ba mươi tết
sương rơi rơi kín lạnh nẻo rừng gìa
sờ đế giày mòn tính quảng đường xa
anh mới thấy đi đã trọn vòng đất nước

sao lòng chiều nay buồn lên côi cút?
hay anh si tình anh lính dù ơi!
có phải một lần qua xứ dừa rồi
anh gởi trọn tình theo tà áo đó?

ai đứng bên bờ kinh xóm lạ
nắng lưng chiều soi mái tóc nghiêng nghiêng
anh đến nơi đây bản thảo, thôn hiền
xin dừng bước, vì em thơ mộng quá!

gối chiếc ba lô nằm nhìn cây lá
nghe lũ chim rừng ríu rít gọi nhau
anh chợt buồn, chợt nhớ đâu đâu...

_(Trang Châu)__

XXG
04-19-2021, 09:42 PM
Tháng Tư Cơm Nấu Vo Bằng Lệ

Tháng Tư lửa ấm tàn trong bếp
Nhưng lửa hận tình ai vẫn khơi
Kẻ góp thêm tên vào Sử sách
Người đau vì thẹn hổ danh đời

Tháng Tư bếp dẫu tàn tro lạnh
Nhưng vẫn bùng sôi nước réo vang
Em nấu gì khi giòng nước cạn
Cả vần thơ nhỏ cũng tan hoang ..

Tháng Tư cơm nấu vo bằng lệ
Những kẻ thăm chồng cũng xác xơ
Vượt suối trèo non lòng chẳng quản
Gặp nhau đôi phút đã tan giờ

Tháng Tư em có bao giờ hỏi
Người cũ còn chăng nữa nụ cười
Có thắp dùm nhau môi mắt đợi
Đợi gì trọn kiếp đã xa xôi ..

Tháng Tư không xóa mà môi nhạt
Vết thủng tim sâu buốt tận trời
Chưa vá mà nghe đời đã bạc
Cõi người xa lạ đến thơ rơi...

___(Nhược Thu)__

XXG
04-19-2021, 09:44 PM
Th Ơ__cÙ n g__t h Ơ__l Í n h


thơ tháng Tư đã bầm máu đỏ
chén cơm mặn chát tử sinh rồi
thơ tháng Tư láo lơ ghìm lại
họng súng buồn thiu . thượng cấp ơi

vua bay đường vua . quan lối quan
thân trụ chiến hào phơi sức lính
hăm chín cạn rồi ba mươi sang
đô thị ngỡ ngàng tan trống trận

một trận . ghim vào quân sử . nhớ
bàng hoàng bại tướng vẫn uy nghi
Xuân Lộc . Xuân Lộc . bầm tim đỏ
tái mặt cùng chung rượu lạnh . lì

thơ tháng Tư . cười đau . khóc hận
lá quốc kỳ rơi cuối ngõ sâu
vận nước đã rồi khôn chuộc lại
bồi hồi . lính trận khóc thương nhau

__(Thăng Trầm)__

XXG
04-19-2021, 09:48 PM
https://i1.wp.com/batkhuat.net/images/tuong-tiecThuong2.jpg?zoom=2

Một Ngày...

Một ngày, tượng đá buồn rơi lệ
Gục ngã âm thầm trước nghĩa trang
Bao năm xương máu dâng Tổ Quốc
................ Bỗng đâu,
.......... một phút hoá tro tàn

Một ngày, oan nghiệt trùm tâm khảm
Khắp dải sơn hà khoác áo tang
Giọt lệ anh hùng sôi ngục đỏ
Quê hương tôi đấy,
................. cõi lầm than!

Một ngày, cúi lượm tuổi thơ rơi
Tìm chữ tương lai tựa bóng mờ
Đã biết bao lần nơi biển vắng
Trông về quê Mẹ
...................... ngỡ rằng mơ

Một ngày, đếm nhịp với thời gian
Thoáng chốc mà nay đã nửa đời
Viết nốt vần thơ mùa Quốc Hận
................ Để nghe
....... vị đắng
................. vướng theo lời

__(XXG__ 4.2017)__

XXG
04-24-2021, 10:06 AM
Một ngày của ta___


Một ngày của ta dưới tuổi hai mươi
Ta lang thang đi trên khắp nụ cười
Ta dắt tương lai vào vùng mơ ước
Ta cùng thật thà dạo phố rong chơi

Bạn bè của ta, ngàn trang sách vở
Bạn bè của ta thành phố Sài Gòn
Ta được nhìn em, nhìn em mắc cở
Để mỗi một ngày rạng rỡ cô đơn

Một ngày của ta trên tuổi hai mươi
Quê hương của ta khói lửa ngập trời
Cơm áo nhà binh ta vào cuộc chiến
Tìm lấy tự do bằng chính mạng người

Ta quen Bình Long, ta quen Quảng Trị
Vuốt mặt bạn bè chết giữa gió sương
Ta gánh trên vai bao tình chiến hữu
Không có tình nào lại dễ thương hơn

Một ngày của ta ở tuổi ba mươi
Ta mất Quê Hương, ta mất hết rồi!
Bạn bè của ta có thằng tự sát
Bạn bè của ta có đứa ra khơi

Ta quảy thân tù từ Nam ra Bắc
Long Giao, Văn Bàn, Vĩnh Phú, Lào Cai
Ta gặp Quê Hương lưng tròng nước mắt
Thương xót cho ta thương xót mọi người

Một ngày của ta trên tuổi bốn mươi
Thành phố ta quen biến thành chợ trời
Cái tách, cái ly, cái quần, cái áo
Giải phóng ra đường đổi bát cơm tươi

Ta đạp cyclo ngày vài chục chuyến
Cố dặn tâm hồn, đừng nhé chớ điên
Gắng sống nghe chưa, tìm đường vượt biển
Để… cùng bạn bè lấy lại tình thương

Một ngày của ta ở tuổi năm mươi
Trời đất tha phương ru ta ngậm ngùi
Ta nhìn ra ta
......... ôi loài vô dụng
Hoài bão trùm chăn, khóc suốt đêm dài

__(Trạch Gầm)__

XXG
04-24-2021, 10:18 AM
__SAY...

Ta say, tiếng khóc chào đời
Ta say mộng đẹp, theo lời Mẹ ru
Ta say ngọn gió chiều Thu
Ta say tuổi trẻ mịt mù tương lai

Ta say vị đắng men cay
Ta say kỷ niệm một ngày yêu em
Ta say mật ngọt môi mềm
Ta say nỗi nhớ êm đềm, khó phai

Ta say sống kiếp làm trai
Ta say binh lửa,
........... rủi may phận người
Ta say vinh dự rạng ngời
Ta say tầm đạn cắt đời chinh phu

Ta say hai chữ ngục tù
Ta say cơn đói, đòn thù bủa quanh
Ta say khi tóc còn xanh
Ta say,
........ cô phụ lều tranh, đợi chồng

Ta say sóng cả Biển Đông
Ta say định mệnh
......... long đong, phũ phàng
Ta say nỗi hận ngút ngàn
Ta say một bóng Cờ Vàng,
........................ còn đâu!

Ta say trong cuộc bể dâu
Ta say tiếng gọi vực sâu, chập chùng
Ta say, mơ giấc tương phùng
Ta say giọt lệ nghìn trùng, biệt ly
............

Ngẫm trông thế sự,
...................... trọn đời ta say
Quay cuồng trong kiếp làm người,
........ ta say!

(XXG__)

XXG
04-24-2021, 11:31 AM
__"ĐÃ LÀ THỨ MẤY CỦA CUỘC ĐỜI?"


Mở mắt chào đời sáng Thứ Hai
Tương lai, tuổi trẻ nắm trong tay
Đưa vai ta "đáp lời sông núi"
Khoác áo chinh nhân, thỏa chí trai

Thoáng chốc, giật mình, đã Thứ Ba
Đạn thù, tử địa, vẫn quanh ta
Trời chăn,
............ gối đá,
................. dày năm tháng
Đội pháo rừng khuya, viết chữ "Nhà"

Vật đổi sao dời một Thứ Tư
Ân tình, nợ nước thiếu hay dư
Bao năm xương máu,
....................... mà nay đã
bỗng chốc thành tro cuối Tháng Tư

Tủi nhục, gông cùm suốt Thứ Năm
Hùm thiêng gạt lệ với thăng trầm
(dương oai, diệu võ, bầy chồn cáo)
............ Ta đếm ngày qua,
......................... nén chữ căm

Thứ Sáu, dung thân ở xứ người
Nỗi buồn xa Mẹ có nào vơi
Chén cơm manh áo ngày hai buổi
Trả nợ trần gian,
................ vốn lẫn lời

Thứ Bảy Cuộc Đời sẽ đến đâu
Niềm đau vong quốc hãy còn sâu
"Ngựa Hồ vẫn mãi chờ Đông đến"*
Ta có chờ đây tới bạc đầu

Chủ Nhật đời ta sẽ tặng con
Phận trai, con phải sống cho tròn
Tròn niềm kiêu hãnh làm Dân Việt
Tròn chữ ân tình với nước non

Để có một ngày ta bước đi
Xin đừng rơi lệ phút phân ly
Thâm tình phụ tử con mang nặng
Tâm huyết lời cha hãy khắc ghi...

_______o0o_____
(XXG__)


* "Ngựa Hồ vẫn mãi chờ Đông đến": Mượn ý từ câu "Hồ mã tê Bắc phong - Việt điểu sào Nam chi."


o0o




https://youtu.be/YC72vC0-QZA

XXG
04-24-2021, 03:06 PM
.
Những Hạt Mưa Đời__

7-8 tuổi...

__ Nhà Chú & Thím ở đường Lê Thánh Tôn, cũng không xa nhà mình là bao. Có một khoảng thời gian dài, vì công ăn việc làm, hai ông bà phải đi xa nhiều nên gửi 3 tên quý tử “mái hiên” của ông bà qua sống bên nhà mình. Sinh năm một, nên khi ba thằng khỉ đứng gần nhau trông như cái mái hiên vậy.

Mỗi sáng, khi bọn tiểu yêu xách cặp-táp dắt nhau đi học, Mẹ không bao giờ cho tiền chúng ăn quà vặt. Thế nhưng, đứa nào đứa nấy, kể cả mấy tên con trai của Chú & Cậu cũng đều có một chàng heo ống rủng rỉnh tiền trong đó vì mỗi tháng hễ tên nào mang bảng danh dự về để Mẹ bỏ vô album hình của gia đình thì sẽ được Mẹ đổi cho một "tờ" - tuỳ theo hạng nhất, nhì, ba. Trự nào học giỏi, nộp bảng danh dự hạng nhất, sẽ được Mẹ thưởng cho tờ màu xanh có hình Đức Thánh Trần ($500) để ăn quà vặt & mua đồ chơi suốt tháng. Hạng nhì, hạng ba thì sẽ được tờ $200 hoặc $100.

Nếu tính theo đám con trai trong nhà thì mình là đứa lớn nhất, lại có nhiều tiền nhất, nên chiều Thứ Sáu nào mình cũng canh giờ sách vừa in xong (giao đến tiệm) là mình chạy một mạch ra Khai Trí để mua tiếp số tới của những quyển truyện hình Lữ Hân-Phi Lục, Xì-Trum, Tin-Tin, T & K do tủ Sách Vàng (có logo con mèo) xuất bản, mang về cho anh em trong nhà cùng đọc.

Một lần, vừa ôm chồng truyện hình mới tinh (còn thơm mùi mực) bước vào cổng thì mấy thằng em con Cậu, con Chú phóng ra giành giựt nhau đòi xem trước, rách mất đi vài trang của 2 quyển truyện hình. Mình giận ghê lắm, muốn thọi cho mỗi thằng một loi bõ ghét nhưng không dám vì Mẹ cấm đánh em...

Tịch thu lại hết mớ truyện hình vừa mua về, cúi xuống lượm lên những trang bị rách đang nằm rải rác, mình làm thinh ôm tất cả lên phòng. Chả cho thằng khỉ nào xem nữa... Ghét! Không biết vì mặc cảm tội lỗi hay còn muốn "vớt vát" để coi truyện ké, tên Kiệt (con trai trưởng của Cậu) lon ton chạy lên cầu thang theo mình, cười mơn.

Lấy cuộn băng keo ra, mình ngồi bệt dưới sàn gạch bông, lọ mọ xếp theo thứ tự từng trang để dán lại. Khi thấy những trang sách mới tinh bị nhăn nheo, rách tả tơi, mình tức quá, đưa tay quẹt mũi... "khịt, khịt."

Cậu đang trong thời gian về phép, bước ngang phòng thấy 2 thằng nhỏ lọ mọ dưới sàn - thằng lớn thì "hic hic" mũi. Cậu hỏi: "Vinh, sao khóc vậy con?" Nghe Cậu hỏi, dằn hết được, mình khóc ra tiếng. Vừa khóc vừa méc Cậu: "Con mới mua về, tụi nó giành nhau, rách hết truyện của con rồi. Con muốn đánh tụi nó mà sợ bị Mẹ phạt đòn.. Hu,hu..." Cậu xoa đầu, bảo: "Con nghe Cậu này: là con trai, đừng bao giờ khóc. Con gọi tụi nó lên đây, bắt tụi nó phải dán lại cho con. Nhớ, từ rày về sau, đừng bao giờ khóc nghe chưa." Tên Kiệt nghe Bố nói thế, còn cả gan thò tay qua vỗ vỗ vai mình, cứ làm như là hắn vô tội vậy.

Từ đó về sau, cho dù có bị đòn oan vì mấy thằng trời đánh làm bể bình bông đồ sứ của Mẹ; đá/chọi banh bể kính cửa; phá hư TV; phá hư dàn máy Akai.... hay có tức đám tiểu yêu đến thế nào thì mình cũng không bao giờ khóc nữa.

Cho đến một ngày ...

__o0o__

11 tuổi...

Chiều hôm ấy, bầu trời cũng u ám như những bước đường tương lai trước mặt của anh em nhà mình... Ngồi theo đoàn xe lam cùng người lớn ra nghĩa trang mà đầu óc mình trống rỗng. Hình như bộ óc non nớt của một đứa con nít không thể nào chấp nhận được những biến chuyển quá đột ngột của cuộc đời và nỗi mất mát to lớn này. Was my mind still in a "state of denial?" Yes, it was. Definitely was...

Nhìn thằng em trong bộ tang phục đang ôm chặt di ảnh của cha trước ngực khóc nức nở, mình đứng kế bên cũng muốn khóc theo lắm nhưng vẫn cắn môi, cố không để rơi xuống một giọt nước mắt nào...

Lúc người lớn chuẩn bị làm lễ hạ huyệt, thấy mẹ mang bụng bầu, đầu quấn khăn tang đang vật vã bên hòm cha, nó càng khóc lớn hơn. Bước sát vào choàng vai em, mình nói với nó: "Kiệt, đừng khóc nữa em. Bố dạy, là con trai mình không được khóc..."

..... Trời bỗng đổ mưa ....

Những hạt mưa trái mùa như đồng loã với nỗi đau đang cố dằn nén từ mấy ngày nay của một đứa con nít... Ngước lên nhìn trời, rồi nhìn xuống huyệt Cậu, mặc cho hai hàng nước mắt đang tuôn hoà lẫn với nước mưa, mình nói nhỏ "Cậu ơi, con không có khóc đâu nha... Tại trời mưa đó!"

.... Mưa...


__o0o__
(XXG__)


.




https://youtu.be/PkXKJ7KaKMQ

XXG
04-26-2021, 12:13 AM
Chỉ Là Một Ước Mơ....


https://youtu.be/mEZoiX8RtZc



.........

Trả súng đạn này, ôi sạch nợ sông núi rồi
Anh trở về quê, trở về quê
Tìm tuổi thơ mất năm nao
Vui cùng ruộng nương

Cùng đàn trâu
Với cây đa khóm trúc hàng cau
Với con đê có chiếc cầu tre
Đã bao năm vắng chân anh
Nên trở thành hoang phế rong rêu

Rồi anh sẽ dựng căn nhà xưa
Rồi anh sẽ đón cha mẹ về
Rồi anh sẽ sang thăm nhà em
Với miếng cau, với miếng trầu
Ta làm lại từ đầu

Rồi anh sẽ dìu em tìm thăm
Mộ bia kín trong nghĩa địa buồn
Bạn anh đó đang say ngủ yên
Xin cám ơn, xin cảm ơn
Người nằm xuống

Để có một ngày, có một ngày
Cho chúng mình
Ta lại gặp ta
Còn vòng tay mở rộng thương mến bao la
........




______o0o_____



___ Lời nhạc phẩm trên, là ước mơ của người lính VNCH - những người đã hy sinh tuổi trẻ để chiến đấu cho Tự Do & Nhân Bản của 17 triệu rưởi dân Miền Nam trong suốt hai mươi năm dài. Họ đã cho thế hệ của tôi, những đứa con nít, có được một khoảng thời gian tuy là ngắn ngủi nhưng lại hoàn toàn đúng nghĩa với hai chữ "tuổi thơ"...

Nhưng buồn thay, khi "hoà bình" đến với quê hương của họ & của tôi vào ngày 30/4/1975, thì hàng trăm ngàn quân cán chính VNCH phải bị lưu đày vào những nhà tù khổ sai nơi rừng sâu nước độc, với "bản án vô hình" lên đến hàng chục năm trời. Một số không nhỏ đã bỏ mình trong những địa ngục trần gian với tên gọi là "trại cải tạo." Họ chết bởi sự tàn ác của bọn Cộng Sản Bắc Việt. Họ chết vì cơ thể không chịu đựng nổi với bệnh hoạn, với khí hậu khắc nghiệt và cơn đói triền miên.

Hàng triệu thường dân Miền Nam đã phải bỏ lại nhà cửa, bỏ lại mồ mả ông bà, bỏ nơi chôn nhau cắt rốn để ra đi sau ngày "Hoà Bình 30/4/1975" đó. Họ làm một cuộc "vượt ngục" vĩ đại, mà theo ước tính của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc thì con số thuyền nhân đã chết trên Biển Đông để đổi lấy 2 chữ Tự Do phải lên đến hàng trăm ngàn. Như lời của tác giả Carina Oanh Hoàng của "Boat People" (in English) "Thuyền Nhân: Nước Mắt Biển Đông" (phiên bản Việt Ngữ) đã nói:

- "Nỗi đau, vết thương của thuyền nhân Việt Nam sẽ không bao giờ lành. Một số những gia đình có người thân chết trên biển khơi hoặc chết trong trại tị nạn mà không được một nắm mồ. Nhưng đau khổ nhất là những người bị bắt cóc đi mà đến hôm nay gia đình cũng không biết nên để tang cho con cho vợ hay vẫn tiếp tục hy vọng tìm được họ. Có nhiều trường hợp khác nhau, mà mỗi câu chuyện cho mình thấy những khía cạnh của thảm cảnh thuyền nhân Việt Nam. Oanh nghĩ không bao giờ mình sang trang được, trang lịch sử này sẽ tồn tại mãi mãi."

Như câu hỏi của Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng TĐ82/BĐQ Vương Mộng Long trong buổi sáng ngày 30/4 cách đây 46 năm, rằng:

- "Hòa bình rồi. Tại sao người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung để buông súng?"




__o0o__





Câu hỏi được trích ra từ hồi ký "Cuối Đường" của tác giả VML, xin mời ACE cùng đọc sau đây:

XXG
04-26-2021, 12:17 AM
Cuối Đường...


“Vinh quang một đời của người cầm quân là một món nợ.Nợ với tổ quốc, với đồng bào, và với thuộc cấp của mình!” (Vương Mộng Long)

Bảy giờ sáng ngày Ba Mươi tháng Tư 1975, tôi dừng quân trên một tọa độ cách thủ đô Sài-Gòn hơn hai chục cây số. Nơi đây là đoạn cuối của quốc lộ 1. Chỉ còn một quãng đường ngắn ngủi nữa thôi, quốc lộ 1 sẽ chấm dứt. Tối qua, 29 tháng Tư chúng tôi rút về tới Long-Bình thì Bộ chỉ huy Liên đoàn 24 Biệt Động Quân đã di chuyển đi đâu mất rồi. Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân của tôi như con gà con lạc đàn. Tôi vào máy gọi Liên đoàn 24 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 81 BĐQ, gọi Tiểu đoàn 63 BĐQ, và gọi cả Sư đoàn 18 BB/ HQ trên tần số riêng. Tần số nào cũng rối loạn. Tôi không bắt liên lạc được với ai. Nửa đêm, thình lình máy vô tuyến đưa lệnh, chẳng hiểu của giới chức nào, chỉ vắn tắt một câu:

- “Các đơn vị cấp tốc rút về phòng thủ Sài-Gòn!”

Mờ sáng Ba Mươi tháng Tư, chúng tôi bỏ Long-Bình, rồi từng bước, rút về hướng thủ đô, để “phòng thủ thủ đô”. Cuối cùng, lết bộ tới Cầu Hang (Biên-Hòa) thì mỏi mệt quá, tôi cho quân dừng lại nghỉ. Trên quốc lộ 1, cách Cầu Hang chừng hai trăm mét, hơn sáu chục người lính sống sót cuối cùng của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân bơ vơ. Vào giờ này, quân số Tiểu đoàn 82 BĐQ bách thắng của Quân khu 2 còn lại chừng nửa đại đội, với bốn sĩ quan là tôi (Thiếu tá Vương mộng Long), Thiếu úy Thủy, Trung úy Trâm, Chuẩn úy Thiều cùng hơn sáu mươi binh sĩ. Ông Đại úy Ngũ văn Hoàn (TĐP) chết đêm 28 tháng Tư. Trung úy Đăng mất tích. Thiếu úy Châu đi thụ huấn chưa về. Thiếu úy Học, Thiếu úy Hoàng vắng mặt từ chiều 27 tháng Tư, trước khi tiểu đoàn vào vùng. Chuẩn úy Gấm, Chuẩn úy Trung, hai ông Chuẩn úy Phước (Lê văn Phước, Nguyễn văn Phước) cùng Trung úy Phước (Trần văn Phước) thất lạc trên đường rút lui từ Hố-Nai về Long-Bình ngày hôm qua. Từ nửa khuya, những đơn vị đồn trú ở Long-Bình đã bắt đầu theo cơ giới rút đi.

Lúc tôi tới Cầu Hang thì những vị tu hành áo vàng của ngôi chùa Theravada bên kia lộ đang lên xe chạy về hướng Sài-Gòn. Giờ này họ đã quay trở lại. Họ trở lại chùa, vào phòng, khóa chặt cổng ngoài. Có một điều lạ lùng, khác với những lần rút lui từ Quảng-Đức và từ Long-Khánh, đó là, trong lần rút bỏ Biên-Hoà này, tôi không thấy dân chúng bồng bế nhau chạy theo quân đội. Chiếc xe nhà binh sau cùng di chuyển qua Cầu Hang đã khuất bóng từ lâu. Khoảng tám giờ sáng thì không còn ai đi sau chúng tôi nữa. Sau lưng chúng tôi, thành phố Biên Hòa có lẽ đã rơi vào tay Cộng Quân. Trước mắt chúng tôi là quốc lộ 1, dài mút mắt, hướng Sài-Gòn. Cuối trời hướng tây có từng cột khói đen cuồn cuộn bốc lên. Trong vài túp lá, quán cóc bên đường xe lửa, xác những người bạn Nhảy Dù chết cách đó một vài ngày còn nằm trên sạp tre. Họ đã hi sinh khi nhổ chốt địch để lấy lại đoạn đường quanh Cầu Hang. Tôi không còn tâm trí đâu mà lo chôn cất cho những người bạn đã kiêu dũng nằm xuống này. Chính tôi cũng không rõ số phận chúng tôi sẽ như thế nào trong vài giờ sắp tới.

Mười giờ sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975. Tôi thẫn thờ rời cái quán cóc bên đường. Chiếc xe Jeep của Thiếu tướng Lê minh Đảo,Tư lệnh Sư Đoàn 18 BB đã khuất dạng nơi khúc quanh có vườn cây xanh, về hướng Thủ-Đức. Tư lệnh đã quay lại tìm tôi, nhưng giây phút cuối cùng, chúng tôi không kịp gặp nhau. Vào giờ phút này, trên máy thu thanh, ông Dương văn Minh đang oang oang ra lệnh cho chúng tôi buông súng. Ông Dương văn Minh gọi kẻ thù của chúng tôi là “những người anh em”. Chỉ trong vòng mấy tiếng đồng hồ, buổi sáng Ba Mươi tháng Tư năm 1975, cuộc chiến tranh Việt-Nam hai mươi năm đi vào trang chót. Đứng trên đường tà vẹt, tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng tự hỏi:

- “Có phải ta đang trong cơn ác mộng hay không?”

- “Sao chiến tranh lại có thể kết thúc một cách đột ngột, vô lý, và thê thảm như thế này?”

Chua xót thay! Tôi không mơ. Tôi đang sống với thực tế phũ phàng. Thằng Y Don Near nắm chặt sợi dây ba chạc của tôi, nó khóc sướt mướt:

- “Thiếu tá ơi! Sao lại thế này? Thiếu tá ơi!..."

Vào Nơi Lửa Đạn

Từ chiếc máy PRC 25, trên lưng nó, trong tần số liên đoàn, có nhiều giọng đàm thoại lạ. Những hiệu đài không quen, gọi nhau, chửi thề, quát tháo, than van...

Trước mắt tôi, bên kia đường, lá cờ ngũ sắc trong sân chùa bay phất phới. Hai bên quốc lộ, những bộ rằn ri còn bố trí, thế tác chiến sẵn sàng. Những người lính Biệt Động đang chăm chú nhìn cấp chỉ huy của họ. Họ nhìn tôi với ánh mắt của những đứa con nhỏ đang nép mình trong lòng mẹ, vào những buổi ngoài trời giông bão, mịt mù sấm sét. Cảnh này quen thuộc lắm. Những khi tình hình nghiêm trọng, thuộc cấp của tôi thường chờ đợi quyết định của tôi với những cái nhìn kính cẩn, tin tưởng và thương yêu như thế này. Trong mười năm chiến trận, đã có đôi lần tôi bị bỏ lại đàng sau. Đôi lần đơn vị tôi bị dồn vào tình trạng vô cùng nguy khốn, thập tử nhứt sinh, nhưng thấy con chim đầu đàn còn hiện diện, những người lính dưới quyền tôi vẫn không xiêu lòng, không bỏ vị trí. Nhưng sáng nay, trước mắt họ, người chỉ huy của họ đã trở thành một hình nhân, bất động. Thực sự, tôi không biết phải làm gì bây giờ. Radio chỉ có một chiều; tôi chỉ nghe được; không trả lời được; không hỏi lại được. Có ai cho tôi biết ông Dương văn Minh lên chức Tổng thống lúc nào đâu? Tôi biết hỏi ai rằng ông Tổng thống này là thiệt hay giả? Theo tôi biết, ông tướng này, sau khi giết cụ Diệm để tiếm chức, đã bị các nhóm khác hất cẳng về vườn lâu rồi. Sao tự nhiên ông ta trở thành Tổng thống VNCH được nhỉ? Sao một thường dân có thể lên làm Tổng thống dễ dàng thế nhỉ? Đùng một cái, sáng nay, ông ta ra lệnh cho tôi buông súng. Đầu hàng? Đầu hàng cách nào? Đầu hàng ở đâu? Đầu hàng với ai? Giữa đồng không, tôi đứng chết trân. Mặt trời lên, thày trò chúng tôi lặng lẽ nhìn nhau. Những bàn tay đen đủi Bana, Jarai, Rhadé đưa lên quệt nước mắt.

Hướng Tân-Uyên có tiếng trống múa lân .... thùng!...thùng... thùng... nghe lớn dần... lớn dần. Tới Cầu Hang, đoàn múa lân quẹo phải, về tây. Tôi thấy một cán binh Cộng-Sản vai quàng AK, vác lá cờ Mặt Trận Giải-Phóng Miền Nam đi đầu, tiếp đó là cái đầu lân nhảy múa, rồi một đoàn người điên cuồng, la hét, hoan hô, đả đảo, nối theo sau. Tiếng loa vang vang,

- “Hoan Hô Mặt-Trận Giải-Phóng Miền-Nam!”

- “Hoan hô!...Hoan hô!”

Thùng... thùng... Hoan hô... Hoan hô... Thùng... thùng... Tiếng loa và tiếng trống lân dập dồn theo gió. Lá cờ Giải-Phóng khổng lồ, xanh đỏ, uốn éo trong gió.

- “Đù má tụi mi! Tụi mi chọc giận ông phải không?” Chửi thề xong, ông Hạ sĩ Phi xả hết một dây đạn M60 về hướng đoàn múa lân. Chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Đoàn múa lân như ong vỡ tổ, chạy tán loạn. Chiếc đầu lân bị vứt chỏng chơ giữa đường. Thằng VC vác cờ cũng quăng cờ, bò lê, bò càng tìm chỗ tránh đạn.

- “Thôi! Ta đi!” Tôi ra lệnh cho những người lính cuối cùng của đơn vị.

- “Mình đi đâu bây giờ, Thiếu tá?” Thiếu úy Thủy băn khoăn hỏi.

- “Thì cứ đi về hướng Sài-Gòn, tìm xem có ai ở đâu đó, mình nhập vào với họ.” Tôi trả lời Thủy. Mà chính tôi cũng chẳng biết mình sẽ dẫn đơn vị đi về đâu! Không mục tiêu, chúng tôi đi rất chậm.

- “Thùng... thùng...hoan hô...hoan hô”. Chúng tôi đi được chừng nửa cây số thì đoàn múa lân lại tiếp tục theo sau lưng.

- “Hoan hô! Hoan hô cái mả cha tụi mi!” Hạ sĩ Phi lại đổ quạu.

- “Cành! Cành! Cành... cành... cành! Cành!” Một dây đạn đại liên M60 lại quét ngược về đàng sau. Vẫn chỉ là bắn dọa. Đạn bay cao. Thằng VC vác cờ lại vội quăng cờ núp đạn. Cái đầu lân lại bị ném chỏng chơ trên mặt đường. Đoàn múa lân lại tán loạn chạy chết. Chúng tôi tiếp tục lê gót theo đường, về hướng Sài-Gòn. Cứ đi được vài trăm mét, chúng tôi lại dừng chân nghỉ mệt. Có mục tiêu nào cho chúng tôi tìm tới đâu mà phải vội vàng? Khi đi ngang khu núi đá vôi Bửu-Long thì thằng Don đưa ống nghe cho tôi:

- “Có Hai Lẻ Bảy (207) gọi Thái Sơn!”

Tôi nghe tiếng Trung tá Hoàng kim Thanh, Liên đoàn trưởng LĐ24/BĐQ:

- “Thái Sơn! Đây Hai Lẻ Bảy! Anh cho hai chiếc xe tới đón chú và con cái về Đường-Sơn Quán. Các đơn vị đang tập trung ở đây chờ lệnh!”

Giọng anh Thanh vẫn bình tĩnh, từ tốn, không có vẻ gì là lo lắng.

Nghe ba tiếng “Đường-Sơn Quán”, tôi chợt nhớ thời 1971-1973, ở BCH/BĐQ/QK2 có một biệt đội Biên-Vụ (Viễn Thám) do tôi thành lập, huấn luyện, và trực tiếp chỉ huy. Sáu toán Biên-Vụ trang bị AK, dép râu, nón tai bèo, nghênh ngang, xuôi ngược trên các tuyến đường Hồ chí Minh, dọc theo biên giới Việt, Miên, Lào, trong căn cứ địa 609, 613, 701, 702, 740. Những cú nổ mìn phá ống dẫn dầu, phá xe tải, bắt cóc cán binh, dọc Trường-Sơn Đông, phá Ngầm 24 trên sông Sésan là một mối đe dọa kinh hoàng hàng ngày đối với đoàn quân xâm lăng vào từ phương bắc. Chuyện chúng tôi xuất, nhập các mật khu, huấn khu địch, xảy ra như cơm bữa. Những tay súng dưới quyền tôi cũng yêng hùng, ngang tàng như các hiệp sĩ trong phim. Họ quen gọi tôi là “Anh Hai”. Bất cứ giờ nào, dù đang lội trong rừng gai mây Plei-Trap Valley hay trong rừng khọt Nam Lyr (Cambốt), họ vẫn nghe được tiếng “Anh Hai” của họ, từ một đỉnh núi cao nào gần đó. Thỉnh thoảng, “Anh Hai” lội rừng chung với họ để thi hành những nhiệm vụ gay go do Quân-Đoàn 2 giao phó. Tôi và họ, thương nhau như anh em cùng mẹ, cùng cha. Khi cuốn phim “Đường-Sơn Đại-Huynh” được chiếu trên màn ảnh các rạp Diệp-Kính, Diên-Hồng, Thanh-Bình, ở Pleiku, thì đàn em của tôi gán cho tôi biệt danh “Đường-Sơn Đại-Huynh” chỉ vì tôi có cái tên Long, trùng với tên ông Lý tiểu Long, tài tử chính của phim này. Sau khi “Anh Hai” vào Plei-Me nhận Tiểu đoàn 82/BĐQ/BP, đơn vị này bắt đầu đánh giặc với cái phong thái “Đường Sơn” khiến quân thù vừa nghe tên đã khiếp vía... Tôi ở Cao-Nguyên mút mùa, làm sao biết được ở Sài-Gòn cũng có cái quán được đặt tên như trong phim võ hiệp của Tàu? Tôi mở miệng định hỏi anh Thanh tọa độ của Đường-Sơn Quán thì máy liên đoàn đã cúp. Tôi đành cho anh em ngừng lại bên đường, chờ đợi. Chừng nửa giờ sau, hai chiếc xe be từ hướng Thủ-Đức chạy lên. Xe ngừng, ông tài xế ló đầu ra lớn tiếng hỏi,

- “Có phải Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đó không?”

- “Phải rồi! 82 đây!”

- “Lên xe đi! Tôi chở các ông về Đường-Sơn Quán!”

- “Có ai ở đó không?”

- “Đông lắm! Có lẽ các ông là những người tới sau cùng”

Xe trở đầu, chúng tôi lên xe. Tôi, Trung úy Trâm và thằng Don ngồi trên cabin chiếc xe đi đầu. Chú Thủy và chú Thiều đi xe sau. Thành xe be thấp hơn thành xe GMC, không có thế để đứng, những người lính đành phải ngồi chồm hổm. Ông tài xế xe be, cười rất tươi,

- “Hòa bình rồi! Hòa bình rồi! Hết đánh nhau rồi các anh ơi!”

Tôi là một người lính nhà nghề, nên dù cho “hòa bình” có ở ngay trước mắt, hiệu lệnh phản phục kích xe vẫn được tôi ân cần nhắc nhở cho thuộc cấp. Hai khẩu M60, một của Hạ sĩ Phi, một của Trung sĩ Tài, được đặt trên nóc buồng lái của hai chiếc xe be.

Xe đang bon bon trên con lộ vắng thì khựng lại, bò từ từ. Trên mặt lộ, đàng xa, có người dang tay phất phất lá cờ nửa xanh, nửa đỏ, ra hiệu cho xe chạy chậm lại. Tới gần, tôi nhận ra một du kích Việt- Cộng, quân phục xanh, mũ tai bèo, dép râu. Tên du kích cột lá cờ trên cánh tay phải, cờ phất lia, phất lịa. Tay trái nó dương họng khẩu AK 47 hướng vào đầu xe của tôi. Xe vừa ngừng thì hai bên đường có tiếng la,

- “Bắn! Bắn!... Không cho đứa nào chạy thoát!”

Rồi thì tiếng súng đủ loại rộ lên. Những người lính Việt-Nam Cộng-Hoà trên hai chiếc xe be vừa ngừng trên mặt quốc lộ trở thành những cái bia sống.

....... "Hòa bình” rồi. Tại sao người ta nỡ đang tay giết chúng tôi, khi chúng tôi đang trên đường về điểm tập trung để buông súng?

- “Choác! Choác!....Choác!”

XXG
04-26-2021, 12:25 AM
Tôi tối tăm mặt mũi vì loạt đạn bất ngờ. Tấm kiếng che gió của chiếc xe tôi đang ngồi lãnh cả chục viên AK của loạt đạn đầu tiên. Mảnh thủy tinh văng rào rào trên đầu, cổ, mặt mũi tôi. Ông tài xế gục trên vô lăng. Thùng nước xe bể, hơi nước phun “phì...phì...” che kín đầu xe. Tôi phóng nhanh xuống đường. Sau một cái lạng mình, tôi đã ở đàng sau thành xe. Tôi rút khẩu Colt 45, vẩy một viên về hướng thằng du kích. Viên đạn trật mục tiêu. Một BĐQ vừa nhảy khỏi xe, té trên mặt đường. Hình như anh ta bị trúng đạn, không ngồi dậy được. Tôi giựt khẩu M16 trên tay anh,

- “Đưa tao!”

Tôi kéo cơ bẩm. Đạn tuôn ra khỏi nòng. Tên du kích giãy giụa trên vũng máu. Lá cờ Mặt-Trận phủ trên mình thằng du kích. Tôi ghếch mũi súng về lề phải con đường, nơi hàng chục họng AK và B40 đang đua nhau nã đạn vào hai chiếc xe be. “Oành!”. Một trái B40 nổ ngay trước mặt tôi. Tôi cảm nhận rõ ràng nhiều mảnh B40 và đá, sỏi đã ghim vào cẳng mình. Chủ nhân khẩu M16 mà tôi đang xử dụng bị bay mất cái đầu. Máu từ cổ anh xịt thành vòi; phần thân thể còn lại của anh giựt giựt trên mặt lộ. Khẩu B40 cách tôi chỉ vài sải tay, ngay bên kia đường. Tôi nhắm đầu thằng xạ thủ B40 quạt một tràng M16. Ngón tay tôi tiếp tục siết cò. Địch đông lắm. Chúng đứng lố nhố trong vườn có những luống đậu, dây leo. Một băng đạn ria đại vào đây cũng có thể hạ gục cả chục tên. Chúng tôi không dự trù sẽ vướng vào một cuộc giao tranh vừa bất ngờ vừa điên cuồng này. Chúng tôi ở vào cái thế không biết xoay trở cách nào để phản công. Thôi, đành liều mạng! Ai đang ở đâu nằm tại đó, chống trả. Cũng may, đêm qua, ở Long-Bình, chúng tôi có cả kho đạn lận lưng cho ngày hôm nay.

Đạn địch từ hai bên đường trước mặt tôi tưới như mưa vào những người lính còn đứng trên xe. Những thân hình rằn ri rơi rụng xuống mặt lộ. Có người chân vừa chạm đất, đã lăn ra chết. Có đôi người vừa nhảy ra khỏi sàn xe, còn lơ lửng trên không, tay đã bóp cò, nã đạn về hướng địch. Hầu như ai cũng lo bóp cò. Không ai để ý đến thân thể mình đã trúng thương nơi đâu. Hạ sĩ Đinh Lít nằm nghiêng dưới gầm xe, tay trái anh đã trúng đạn, xuội lơ, tay phải ôm cứng khẩu M16. Anh nằm trên vũng máu, mặt anh tỉnh như không. Mặc cho đạn địch cài dày dặc xung quanh. Với một tay còn lại, anh liên tục bắn hết băng đạn này, tới băng đạn khác. Lựu đạn miểng, lựu đạn nổ, lựu đạn cay, B40, M72, chớp nhoá, “Cành! Cành!...” - “Choác! Choác!... “ - “Xoẹt! Xoẹt!...” - “Oành! Oành!..” Hai bên đường, địch vẫn tiếp tục ào ra. Xác Việt-Cộng đè lên nhau từng lớp, ngổn ngang.

- “Cành! Cành! Cành!...” Trên xe, Hạ sĩ Phi vừa rải từng tràng M60 về phía quân thù, vừa la rú như người mất trí,

- “Đù má tụi mi ! Chết cùng chết! Ông chết! Tụi mi cũng chết!”

Trưa Ba Mươi tháng Tư, trên đoạn cuối của quốc lộ 1, một cuộc hỗn chiến loạn đả xà bần đã diễn ra giữa thanh thiên, bạch nhựt. Dân chúng tràn ra đường, xem hai bên đánh nhau. Có đôi ba người dân thường, liều mạng chạy vào khu giao tranh, mang vác những Biệt Động Quân bị thương đem đi cứu cấp. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài trên xe thứ nhì đã được di chuyển xuống lề đường. Điều lạ là, hai phụ xạ thủ của Tài lại là hai em bé trai, tuổi khoảng mười hai, mười ba. Như vậy có nghĩa là, người phụ xạ thủ và tải đạn của Tài đã bị loại ra ngoài vòng chiến. Đạn nổ rền trời. Đạn bay qua. Đạn bay lại. Việt-Cộng chết. Biệt Động Quân chết. Dân chúng cũng chết! Những người lính Biệt Động cuối cùng của Plei-Me, vùng 2, ruột đổ lòng thòng vẫn ôm súng bắn như khùng, như điên. Hết đạn, những con cọp giãy chết đành dùng tất cả những gì cha mẹ ban cho để tự vệ: Nắm đấm, gót chân, đầu gối, khuỷu tay và cả...răng cũng được xử dụng. Trong phút giây tuyệt vọng, những chiến sĩ Việt-Nam Cộng-Hoà lăn xả vào địch, la hét, vật lộn, đấm đá, cào cấu, cắn xé... Binh nhứt Liêu chí Cường (gốc Chợ-Lớn) trước khi chết, còn cố ôm cứng một thằng địch để cắn vào mặt nó. Tôi biết chắc người đó là chú Cường, vì cái khăn len xanh cố hữu, bốn mùa quấn trên cổ chú (cái khăn của người tình phụ).

Tôi đã bắn hết số đạn mang theo trên lưng người lính nằm chết dưới chân tôi. Tôi vừa rướn người, quơ quào được một băng M16 trên sàn xe thì đạn 12,7 ly của địch từ xa ào ào bắn tới. Có tiếng trung úy Trâm thét lên, bên hông trái xe,

- “Thái Sơn ơi! Hình như tank tới !”

- “Làm gì có tank! Chỉ có 12,7 ly thôi!”

Đạn phòng không của Việt-Cộng quét sát mặt đường nhựa, toé lửa khi nổ lần thứ hai. Những viên 12,7 ly nổ “đúp” (hai lần), chui qua thân người bị đạn, hất thân mình người đó lên khỏi mặt đất, đục những lỗ to như bàn tay trên thân thể nạn nhân. Trên mặt lộ là cả chục xác Biệt Động Quân không toàn thây. Khẩu M60 của Hạ sĩ Phi đã gãy nát. Hạ sĩ Phi vỡ óc. Hạ sĩ Đinh Lít cũng vỡ óc. Sáu bánh xe be xẹp lép. Chiếc xe nằm bẹp xuống mặt đường. Trên sàn xe, trên mặt lộ, chỗ nào cũng ngập máu. Máu đọng thành vũng, máu chảy tràn xuống ruộng. Bên tôi, không còn khẩu M16 nào hoạt động. Những Biệt Động Quân đi trên xe thứ nhứt có lẽ đã chết gần hết. Những người đi trên xe thứ nhì đang là mục tiêu cho khẩu 12,7 ly. Tôi thấy họ rút vào ruộng mía bên phải quốc lộ. Đám dân đứng xem đánh nhau, bị trúng đạn cũng nhiều.

Súng của tôi lại hết đạn rồi. Tôi trườn ra giữa đường để nhặt khẩu AK và giây đạn của tên du kích. Khẩu đại liên của Trung sĩ Tài đã gãy làm đôi. Hai em bé tải đạn cho Tài đều chết vì trúng đạn 12,7 ly. Trung sĩ Tài đang lăn lộn trên vũng máu. Tôi lăn mình vài vòng, tới bên Tài. Tài nhìn tôi, thều thào,

“Chạy đi!... Ông thày... chạy đi!...”

Tôi định xốc Tài lên để dìu anh vào lề đường thì hai mắt anh đã lạc. Đạn bay xém bên mình tôi, nổ “toang toác!” trên mặt lộ. Chợt ai đó nắm sợi dây ba chạc sau lưng tôi, lôi tôi chạy về bờ ruộng bên trái quốc lộ.

- “Anh em chết hết rồi. Chạy đi, thày ơi!” Đó là tiếng Trung úy Trâm.

“Toác! Toác!” - “Chíu! Chíu!” đạn địch đuổi theo. Tôi cắm đầu chạy. Chạy được một đỗi thì tôi đuối sức, lảo đảo. Trâm bèn ghé vai, vác tôi lên lưng. Trâm khỏe như một đô vật. Trâm cõng tôi, nhanh chân lẩn vào rặng dừa bên trái lộ. Hết vạt dừa, Trâm đặt tôi xuống đất. Chúng tôi lội trên mảnh ruộng vừa gặt xong. Chân tôi vướng gốc rạ. Tôi ngã bổ nhào trên mặt ruộng. Trên mặt ruộng có những đồ chơi của trẻ con vương vãi đó đây. Một con búp bê bằng nhựa, một cái xe hơi bằng nhựa, những chén bát nhỏ tí, cũng bằng nhựa, màu mè xanh đỏ. Tôi chợt nhớ tới gia đình vợ con tôi ngoài Ban Mê Thuột. Chắc vợ con tôi đã chết hết. Tôi nghĩ tới đất nước tôi. Đất nước tôi đã mất. Đơn vị tôi đã tan tác. Một phút bất thần, phẫn uất, tôi rú lên như con thú...

Tôi rút khẩu súng Colt ra, kê nòng súng vào mang tai mình, bóp cò. Bàn tay như sắt nguội của Trung úy Trâm phạt ngang một cú Karaté. Viên đạn bay lên trời. Khẩu Colt văng trên mặt ruộng.

- “Trâm ơi! Làm ơn!... Cho anh chết! Trâm ơi!...” Nước mắt dàn dụa, tôi thất vọng, van lơn. Chẳng nói chẳng rằng, Trung úy Trâm lầm lì, xốc vai tôi bước đi. Ngoài lộ vẫn còn lác đác tiếng đạn bắn qua, bắn lại và tiếng lựu đạn nổ. Trâm lột sợi dây ba chạc của tôi, của anh, mũ sắt của tôi, của anh, vứt trên một gò mả. Trâm từng bước dìu tôi về hướng xóm làng gần đó. Giờ đó tôi như con sên yếu đuối, mặc cho chú Trâm tha lôi đi đâu thì đi. Chúng tôi vừa đụng đầu một con lộ đất thì một nông dân đạp xe tới chặn đường,

- “Ông thiếu tá bị thương hả?”

Thói quen, ngược đời, đi trận tôi thường đeo lon trắng. Về nhà tôi lại đeo lon đen. Người dân đã nhìn thấy cặp lon trắng của tôi. Ông cụ có vẻ động lòng,

- “Ông trung úy lấy xe này đưa thiếu tá chạy đi! Luẩn quẩn ở đây lâu không tốt đâu!”

-”Cám ơn cụ!” Trâm lanh tay nhận chiếc xe đạp thồ từ tay người dân tốt bụng.

Con lộ đất dẫn tới một văn phòng Hội Đồng Xã, cửa đóng, khóa ngoài. Rồi con lộ đất dẫn vào một ngôi nhà thờ xứ đạo. Trong sân nhà thờ, lố nhố nhiều người đang tập trung. Một cái rờ-moọc xe GMC chất đầy súng ống nằm ngay giữa sân. Đó đây, từng đống quân trang, quân phục VNCH vừa bị cởi bỏ. Trâm dựng cái xe đạp ngay giữa sân. Chú đứng quan sát một phút, rồi thở dài,

- “Cởi quân phục vứt đi thì chỉ còn cái áo mayor với cái quần xà-lỏn. Mình làm sao đây, Thái Sơn?”

Tôi rờ rẫm những khẩu M16 trên chiếc rờ-moọc, “Lên đạn. Dựng khẩu súng thẳng đứng. Đưa nòng súng vào dưới cằm. Lách ngón chân vào cò súng. Nhấn ngón chân xuống. Thế là xong!” Tôi đang suy nghĩ, sắp thử một cú tự giải thoát nữa, thì chú Trâm van lơn,

- “Thày ơi! Thôi đi thày ơi! Đừng bỏ em, thày ơi!”


Gian Lao

Trung úy Trâm ôm chặt vai tôi, khóc nức nở như một đứa bé. Thày trò tôi ôm nhau... Những người đứng gần đó, bị nỗi đau đớn chung lôi cuốn, cũng ôm mặt khóc theo. Như giữa đám ma, cả một khu sân nhà thờ xứ đạo vang lên tiếng khóc. Một đám ma không có người chết, mà những người đang đứng đây, chẳng có họ hàng gì với nhau, nhìn nhau, ôm nhau, cầm tay nhau, chúng tôi khóc vùi.

Một thanh niên cưỡi chiếc Honda 90 từ hướng quốc lộ 1 phóng tới. Anh kè sát bên tôi, nói nhỏ :

- “Thiếu tá lên xe, em chở đi trốn.”

Trâm đẩy tôi lên yên sau xe, chú leo lên theo.

- “Chúng nó (VC) chết nhiều lắm! Chúng nó bắt được mấy anh lính bị thương, tra khảo họ xem cấp chỉ huy của họ là ai, đâu rồi? Họ khai có ông thiếu tá, chắc chết rồi. Chúng kiểm xác chết. Không có xác thiếu tá. Chúng đang túa đi lùng. Em sẽ đưa thiếu tá đi dấu. Không để cho chúng nó bắt.”

Xe chạy trong đường làng quanh co một đỗi thì ngừng. Anh thanh niên dựng xe, đập cửa một căn nhà gỗ, mái dừa,

- “Mẹ ơi! Con đây! Hải đây! Mẹ mở cửa cho con!”

Cánh cửa hé mở, một bà già, giọng Bắc Di Cư:

- “Đánh nhau, súng nổ ầm ầm mà mày cứ nhơn nhơn ra đường. Về nhà đóng cửa lại cho tao đỡ lo!”

- “Vâng con về ngay. Mẹ cho con gửi hai anh này. Có ai hỏi, mẹ cứ nhận là hai con của mẹ. Anh Cả, anh Hai đi lính vắng nhà lâu rồi, chòm xóm không nhớ mặt đâu! Mẹ làm ơn, làm phúc. Con đi một chút nữa con về ngay. Mẹ đừng lo!”

Bà mẹ nhìn tôi và Trâm, bà biết ngay hai đứa chúng tôi là sĩ quan QLVNCH đang bị truy đuổi. Bà cụ không dài dòng hỏi han. Cụ đưa tay chỉ cho tôi cái tủ đứng góc nhà,

- “Hai đứa lấy quần áo 'si-vin' của thằng Hải mà mặc vào ngay đi! Đưa quần áo nhà binh cho tao đi dấu!” Thoáng chốc, tôi và Trâm thành hai anh dân sự. Bà cụ Bắc Kỳ đã chôn hai bộ rằn ri dưới bùn ruộng muống sau nhà.

Trước sân, anh thanh niên (Hải) con bà cụ đang bơm lốp xe. Tôi và Trâm ngồi uống nước vối nóng, nghe ngóng động tĩnh. Chợt, ngoài đường có tiếng đối đáp,

- “Anh kia! Anh có thấy hai thằng lính rằn ri Ngụy chạy qua đây không?” một giọng Nghệ-Tĩnh gặng hỏi.

- “Có! Chúng nó chạy thẳng sang hướng Thủ-Đức. Đấy! Con đường quẹo phải! Chổ cây dừa nghiêng...”

Tên Việt-Cộng chỉ huy liếc mắt vào trong nhà. Thấy tôi và Trâm, nó hỏi trống không,

- “Chứ hai anh kia làm chi rứa?”

- “Anh Cả và anh Hai của tôi đó!” Hải nhanh miệng.

- “Thưa ông, hai thằng con tôi đi lính ngoài miền Trung. Tụi nó mới đào ngũ về nhà được mấy tuần. Xóm này ai cũng biềt.” Bà cụ phân trần.

Thằng Việt-Cộng hết nghi, quay sang đồng bọn, nó ra lệnh,

- “Nhanh lên! Đuổi theo chúng nó nhanh lên! Hướng cây dừa nghiêng. Đừng cho chúng nó chạy thoát! Các đồng chí cẩn thận đấy! Tụi nó có súng!”

Rồi tiếng chân người huỳnh huỵch chạy đi, xa dần. Bà già lấy khoai lang luộc đưa cho chúng tôi ăn đỡ lòng. Anh Hải rồ máy xe. Nửa giờ sau anh trở về,

- “Thiếu tá đi được rồi! Quân của chúng nó đi hết rồi.”

- “Hai con có còn tiền để đi xe về quê không? Nếu không mẹ cho!” bà cụ ân cần.

- “Cám ơn bác. Chúng cháu còn tiền đây. Chúng cháu mới lãnh lương. Mải lo đánh nhau, chưa tiêu đồng nào.” Tôi cảm động nói không nên lời. Bà già nhìn chúng tôi, ánh mắt bà chứa ẩn một tấm tình thương xót bao la.

- “Thưa Mẹ! Con đi!”

- “Thưa Mẹ! Con đi!”

- “Anh đi nhé, Hải! Cám ơn Mẹ và em vô cùng!”

Lần đầu tôi gọi một người không sinh ra tôi là Mẹ. Tôi gọi bà là Mẹ, không ngại ngùng, như thể bà đã là Mẹ tôi, đã sinh ra tôi. Tôi và chú Trâm bước ra vườn sau, theo bờ ruộng rau muống, leo lên con lộ đá đi về hướng Thủ-Đức. Tôi biết sau lưng tôi, Mẹ và chú Hải còn trông theo.

Hai đứa tôi nhanh chân nhập vào dòng người hướng về Thủ-Đức. Chợt sau lưng tôi có tiếng gọi, “Thái Sơn ơi! Trâm ơi!” Thì ra người gọi chúng tôi là Thiếu úy Trần văn Thủy. Ba thày trò tôi không dám lớn tiếng hỏi han nhau về những gì đã trải qua. Chúng tôi đi như những người dân chạy loạn đang tìm đường về nhà, sau khi im tiếng súng. Chúng tôi vào Thủ-Đức. Nhà nhà, cửa đóng kín mít. Vài chiếc xe Cảnh-Sát cháy dở dang. Vài tiệm buôn bị đốt phá. Trong phố đã xảy ra cướp bóc, hôi của. Cổng Trung-Tâm Cải-Huấn Thủ-Đức mở toang. Sân nhà lao vắng tanh. Tội phạm mới ra khỏi khám đang lộng hành (?) Nhiều người tay mang băng đỏ chở nhau trên Honda, trên xe Ford Cảnh-Sát. Xe chạy nhanh như bay, qua lại nhiều lần trên đường phố. Tới chợ Thủ-Đức, chúng tôi may mắn đón được chiếc xe Lamb chạy đường Thủ-Đức, Thị-Nghè, giá sáu trăm đồng một người. Chiếc xe Lamb bò ì ạch vì quá tải. Xe chúng tôi qua mặt từng đoàn người bận quần đùi, áo thun, chân đất, đang chen vai nhau, đi về hướng thủ đô. Tôi nhận ra, trong đoàn người áo thun, quần xà lỏn đang đi dưới đường, có Thiếu tá Nguyễn hữu Tài, tiểu đoàn phó tiểu đoàn 81 Biệt Động Quân. Có lẽ anh ta cởi bỏ quân phục nơi Đường-Sơn Quán (?).

Còn cách ngã ba xa lộ Đại-Hàn chừng hơn trăm mét, chúng tôi phải xuống xe đi bộ vòng qua một khu ao cá và ruộng nước bên trái quốc lộ, vì giữa đường có một chiếc tank T54 đang cháy. Có vài cán binh Cộng-Sản Bắc-Việt ôm AK chặn không cho bộ hành và xe cộ qua lại đoạn đường này. Lội hết vạt ruộng thì thày trò tôi tới xa lộ Đại-Hàn. Lúc này, trên xa lộ, tank T54 và xe chuyển quân của CSBV đang nối đuôi nhau hướng về Sài-Gòn. Sau khi cuốc bộ một đỗi, chúng tôi tới cây cầu đúc. Qua cầu, chúng tôi lẫn trong biển người xuôi ngược.

Chúng tôi về tới Thị-Nghè thì mặt trời xế bóng. Giữa cầu Thị-Nghè là một chiếc M41 đứt xích vì B40. Chiếc chiến xa nằm bẹp, bụng xe đè sát mặt cầu. Trên pháo tháp, có vết máu đã khô, nhưng không thấy xác người chết. Bên cạnh đó, vương vãi vài bộ quân phục Việt Nam Cộng Hòa, dây đạn, nón sắt, ba lô...

Tôi không dám về nhà mẹ tôi, sợ trong lúc tình hình lộn xộn, chòm xóm biết mình là sĩ quan QLVNCH, sinh chuyện không hay. Để hai người đàn em chờ trên cầu, tôi đi kiếm nhà người quen, xin cho chúng tôi tá túc. Nhà anh bạn Nguyễn gia Hân của tôi nằm ngay chân cầu. Bạn tôi là sĩ quan Cảnh-Sát, Trưởng đoàn phòng vệ Toà Đại-Sứ Hoa-Kỳ. Nhà khóa cửa. Có lẽ gia đình bạn tôi đã di tản rồi. Tôi trở lại cùng Trâm và Thủy. Qua cầu, chúng tôi tiếp tục đi. Bây giờ, trong phố, người qua lại nườm nượp. Bên lề đường, sát tường rào Sở Thú, những người đi hôi của đang bày bán đủ thứ, chăn màn, quần áo, chén bát, sách truyện, tranh ảnh, rượu bia...

Quên đời? Chỉ còn cách uống rượu. Năm trăm đồng một chai Hennessy. Ba thày trò tôi kẹp nách mỗi người một chai. Tôi vẫy tay chận một chiếc xích lô máy để vào Chợ-Lớn, về nhà Trung úy Trần văn Phước; vừa có nơi lạ để nghỉ qua đêm; xóm giềng không biết mình là ai; vừa tìm xem chú Phước còn hay mất. Chiều rồi, nhưng nhà chú Phước còn mở cửa. Trước nhà là cái bảng hiệu “Chiêm-Tinh Gia Trần-Cẩm, Chuyên Bói Bài, Coi Chỉ Tay, Đoán Vận-Mệnh”. Bác Cẩm là thân sinh của chú Phước. Xe ngừng, tôi vừa bước xuống đất thì Phước từ trong nhà ào ra ôm chầm lấy tôi, “Ôi! Anh Hai! Anh Hai! Mừng quá! Anh Hai ơi!” Thì ra trong cuộc lui binh dưới mưa pháo ngày 29 tháng Tư, Phước bị tụt lại đàng sau, mất liên lạc với tiểu đoàn. Phước không biết chúng tôi rẽ vào Long-Bình. Phước đi thẳng một lèo, theo xa lộ về tới Sài-Gòn.

Đêm 30 tháng Tư bốn anh em tôi ngồi bên nhau, cạn ba chai rượu. Chú Thủy cho tôi biết rằng, ngay đợt tấn kích đầu của địch, chiếc xe thứ nhì đã bị thương và chết khá nhiều. Nhiều BĐQ bị thương đã được dân chúng di tản đi cứu cấp. Thiếu úy Thủy đã cố gắng mở một mũi bọc hông phải để giải tỏa áp lực địch nhưng không thành công, vì địch quá đông. Đến lúc khẩu phòng không 12,7 ly của địch tham chiến thì Thủy cho anh em phân tán chạy vào nhà dân. Sau đó Thủy được dân chúng cưu mang, cho quần áo cải trang rút chạy. Chú Thủy nói, hình như chú Thiều bị thương ngay từ phút đầu, không rõ số mệnh ra sao. Sáng Mồng Một tháng Năm 1975, tôi cho Thủy và Trâm một số tiền để làm lộ phí về quê. Từ dạo ấy, anh em chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau nữa.


___o0o___


Thời gian trôi...

Mười ba năm sau, cũng vào ngày Ba Mươi tháng Tư, đầu làng, cuối xóm, rợp bóng cờ đỏ sao vàng. Nơi nơi, loa vang vang, bài ca “Mùa Xuân Trên Thành Phố Hồ Chí Minh”. Có một anh Bắc-Kỳ, tuổi lửng lơ, nửa già, nửa trẻ, đạp xe thồ, đèo theo một cái giỏ, đi rao bán cá khô trong khu ngoại ô Thủ-Đức. Tới căn nhà gỗ, mái dừa, anh bán cá khô vừa mở miệng hỏi thăm, một bà người Xứ Quảng đã mau mắn trả lời :

- “Đi rồi! Bán nhà, vượt biên. Năm, sáu năm rồi!”

- “Xin cám ơn bà. Xin cám ơn Trời!” Anh Bắc-Kỳ mừng rỡ. Bà chủ nhà... nghệt mặt, giương mắt nhìn anh chăm chăm, mà chẳng hiểu ý anh.

Anh bán cá khô lên xe, đạp từ từ theo con lộ đất. Xe tới cổng nhà thờ. Gác chuông lặng câm. Sân nhà thờ vắng ngắt. Trên thánh giá, Chúa cúi đầu. Không biết Chúa có còn nhận ra anh không? Qua văn phòng Ủy-Ban Nhân-Dân Xã, đến quốc lộ 1, anh quẹo phải, ngừng lại bên đường ngồi nghỉ. Nơi đây chỉ cách Đường-Sơn Quán vài cây số. Cũng ngày này, mười ba năm trước, các chiến sĩ của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân đã tả xung hữu đột trong trận đánh đẫm máu bi hùng cuối cùng. Những người nằm xuống đã sang thế giới bên kia trong quân phục rằn ri, với cái huy hiệu đầu beo, phía trên phù hiệu đó là một bệt tím có chữ số “82” màu vàng. Trưa nay, có lẽ dân chúng trong vùng còn nhớ tới họ, nên cắm vội bên đường đôi bó nhang, hương khói.

Anh bán cá khô ngồi xẹp trên lề cỏ, rưng rưng,

- “Các chú tha lỗi cho anh...”

Hai bên quốc lộ là rừng bạch đàn. Những cây bạch đàn lớn lên từ lòng đất từng thấm đẫm máu của những anh hùng Plei-Me. Hình như trong gió, thoảng như ru, có tiếng ai, thiết tha, não nuột:

- “Thày ơi! Chạy đi!... Thày ơi!...”

Ngồi bên bìa rừng, đôi mắt Đường-Sơn Đại-Huynh đẫm lệ...!


__o0o___
(Vương Mộng Long)

XXG
04-26-2021, 09:17 PM
Đợi Bình Minh___
(Tác giả: Bùi Xuân Cảnh)


Đã ba ngày nay, chiếc xà lan to dềnh dàng này vẫn lang thang quanh quẩn trong những sông rạch vùng Bến Tre, cửa Tiểu, cửa Đại. Nếu có ai bỏ công theo dõi, sẽ thấy chiếc thuyền này như không có nơi để đi tới, không có một bến cảng để hẹn hò. Khi nước lớn, nó suôi dòng từ phía biển đi vô, khi nước ròng, nó lại lừ đừ trôi về phía biển! Ban đêm, khi bóng tối đầy đe dọa đã phủ trùm cảnh vật và con sông đã trở thành một giải mực đen ngòm, nó táp vào những lùm cây vắng ven bờ, buổi tối náu mình bên tả ngạn, nửa đêm đã thấy núp dưới bóng lá bên hữu ngạn.

Dưới hầm xà lan, nơi thường chất đầy các bao lúa, lúc này rộng rinh. Một nhóm người gồm đủ đàn ông, thanh niên, phụ nữ, con nít trong những bộ quần áo lôi thôi, nhem nhuốc, ẩn mình trong các xó kẹt. Cha con tôi cũng lẫn lộn trong đám người đang lo âu, hồi hộp đó. Mới có ba ngày trôi qua mà tôi đã thấy lâu như đã mấy năm! Nhớ lại, mới hôm kia, tôi và bé Giang vẫn còn nằm trong chăn ấm, dưới mái nhà ở Cư Xá Sĩ Quan Chí Hòa.Trời cuối năm Saigon hơi se lạnh. Giang vẫn còn đang ôm lưng mẹ, và tôi cũng ngán ngẩm, chưa bắt đầu một ngày vô định, chờ đợi sự sách nhiễu của tên Lĩnh, Công an khu vực. Chợt có tiếng xe gắn máy ngừng trước cửa nhà, rồi tiếng Hòa lọt qua khe cửa:” Chú Cảnh thức chưa ?” Hòa là cháu, con bà chị họ của tôi, đang tổ chức vượt biên.

Saigon năm 1979, dưới móng vuốt của quân cướp nước, dường như ai cũng chỉ còn có một chuyện để lo toan: vượt biên ! Vượt biên với bất cứ giá nào.! Đối với tôi và đám bạn hữu quân nhân công chức mới thoát ra từ các trại tập trung kinh hoàng và còn đang bị cộng sản quản chế, vượt biên là con đường duy nhất, là lẽ sống. Sau ngày giặc cộng chiếm đóng Saigon, bàn tay nham hiểm của chúng đã gieo rắc bao tang thương đau đớn cho người dân miền Nam, đến mức không ai chịu nổi. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã, những tin kinh hoàng, tin thực và tin đồn, đã như những nhát búa giáng vào thần kinh căng thẳng của đám dân đen vừa bị mất nước và mất tự do: Đánh tư sản, tịch thu nhà đất, bắt bớ văn nghệ sĩ, truy lùng sĩ quan, công chức, đổi tiền, gạo thóc biến mất, đói khổ, trại tập trung như Đúc Quốc Xã, khu “ kinh tế mới” lưu đầy nơi ma thiêng nước độc dành cho Ngụy… toàn những tin có sức quất xụm sự chịu đựng cuối cùng của cái bản năng sinh tồn nơi một sinh vật.

Thà liều thân tranh đấu với thủy thần nơi đại dương sóng gió,hay với hải tặc dã man, còn hơn sống với bọn người đồng bào đồng chủng, nhưng say men chủ nghĩa, mê man trong chém giết, nên đã hết là người. Sự hành hạ, khủng bố về tinh thần, sự thiếu thốn những nhu cầu vật chất tối thiểu, đã xô người dân đến đường cùng. Không khí thê lương ảm đạm bao trùm khắp nơi, khiến không ai biết được ngày mai.

Tiếng ru hờ, tiếng khóc ơ
Vương trên khung cửa bây giờ tang thương
Đìu hiu cuối ngõ, cùng đường
Bên anh tuyệt vọng, đoạn trường bên em
Ngày lại ngày, đêm lại đêm
Ngày rơi tàn tạ, đêm chìm phôi pha
Buồn từ trong cửa buồn ra
Buồn từ ngã bảy, ngã ba buồn về.
(Hoàng Hải Thủy)

Không có hộ khẩu, đã hết hạn tạm trú, tôi bị tên công an khu vực săn đuổi như thú dữ tìm mồi. Cái sự ngược ngạo: chủ nhà phải xin phép để được tạm trú trong nhà mình, chỉ là một trong ngàn thảm cảnh mà dân ta phải chịu dưới bàn tay “giải phóng” của lũ ăn cướp!

Ban ngày, tôi lang thang ngoài đường phố bụi bặm, áo quần nhầu nát, dưới cái nắng thiêu người, trong đói khát, vật vã. Đêm đến, tôi hồi hộp trà trộn trong đám người qua lại, len lén vượt qua cổng cư xá có bộ đội canh gác, để lẩn về nhà, mê mệt thiếp đi trong giấc ngủ đầy mộng mị hãi hùng. Có đêm vừa mới chợp mắt, tôi đã nghe tiếng công an đập cửa ầm ầm, khám hộ khẩu. Biết không có chỗ ẩn mình trong nhà, tôi trườn mình qua cửa sau, thoát ra mảnh vướn nhỏ sau nhà. Nhưng tên công an khu vực giống như một loài chó săn thính mũi, nó còn biết mọi xó kẹt trong nhà, ngoài vườn, hơn cả chủ nhà. Đừng có làm trò diễu dở, núp mình như con nít trong bụi chuối, gốc cây, chơi trốn tìm.

Không nơi ẩn mình, tôi đành nằm vùi mình bên rãnh nước cống hôi thối, kéo một tấm tôn sét rỉ che trên mình. Vậy mà thoát ! Bọn công an sau khi lục soát mọi ngõ ngách trong nhà, liền ra vườn soi đèn pin hết các gốc cây, bụi chuối. Tôi nghe tiếng thằng công an khu vực người Bắc kỳ hậm hực nói :“Thằng này lẩn như chạch! Rõ ràng cái áo nó còn treo trong nhà mà nó đã biến mất rồi!"

Trong tình cảnh trên đe dưới búa như thế, con người nào còn có thể sống ở nơì mà ta gọi một cách trìu mến là đất nước, quê hương. Rõ ràng quê hương, tổ quốc đã bị cướp đoạt và giầy xéo, chẳng còn là chốn dung thân, dù là chỉ để sống cúi mặt, lầm lũi một đời như con thú !

Hôm nay, Hòa tới như đã hẹn trước để dẫn cha con tôi tới một nơi bí mật. Biết giờ ly biệt đã tới, vợ tôi vội vã buông bé Hồng Vân lúc ấy mới hơn ba tuổi, để lo cho tôi và Giang. Cũng như bao gia đình sĩ quan khác trong Cư Xá, chúng tôi lâm cảnh khốn cùng khi giặc Bắc vào Nam. Hai vợ chồng , năm đứa con nhỏ dại, đứa lớn nhất mới tám tuổi và đứa nhỏ nhất còn ẵm trên tay và một mẹ già trên bảy mươi, đột nhiên bị cắt hết nguồn sống, bị “ chém treo ngành ”, chờ giờ chui vào tù tội. Chồng quân nhân, vợ công chức, chúng tôi không dành dụm được chút vốn liếng nào để phòng ngừa trong cơn hoạn nạn này. Hai vợ chồng bàn nhau cho đứa con trai lớn và lanh lợi nhất vượt biên theo bố. “ May ra đi được, thì nó thoát cái cảnh phải sống đời của một con vật, và nhà cũng bớt một miệng ăn ! ” Niềm “mơ ước” mới tội nghiệp làm sao ! Nhưng khi con người ở đáy sâu địa ngục, ước mơ được làm người và được có đồ ăn mỗi bữa, rõ ràng cũng là một mơ ước gần như viễn vông.

Thương ôi ! chính niềm khao khát cho con được làm người, và có cơm ăn , đã đẩy vợ chồng tôi đưa ra một quyết định thảm khốc , đã bao năm qua , và sẽ suốt đời vò xé nát tim tôi, làm chảy bao nhiêu nước mắt trong gia đình tôi. Giờ đây , khi viết những dòng chữ này, nước mắt tôi cũng rơi ướt bàn phím đánh chữ.

Bịn rịn nhìn người vợ trẻ mắt đẫm lệ và đàn con thơ dại đang ngủ yên lành trong giờ ly biệt, trí óc tôi như tê dại, chân tôi như bị chôn chặt trong đất. Trong một ánh chớp của linh tính, tôi cảm nhận được có cái gì đó, vô cùng đau thương, vô cùng thảm khốc, đang rình rập theo bước chân cha con tôi. Tôi đã muốn buông trôi tất cả, ôm lấy vợ con, để cùng nhau chịu khổ nạn dước ách bọn thực dân bản xứ, mà sự tàn độc còn gấp nhiều lần kẻ ngoại xâm. Nhìn thấy chúng tôi bịn rịn, và vợ tôi mắt đẫm nước, Hòa dục dã : “Thôi ! thím để cho chú và em Giang đi cho may mắn ! Cháu cũng đang vội vì còn nhiều việc phải lo. ”. Như một cố gắng cuối cùng để bảo vệ con, vợ tôi vồ lấy Giang trong vòng tay với dáng dấp của con gà mẹ che chở cho con trước bóng đen của lũ diều, quạ. Và tôi cũng xô tới ôm chặt cả hai mẹ con. Khi chúng tôi buông tay nhau, tâm trí tôi rã rời. Tôi có cảm giác rất rõ rệt: mình đang bị một bọn lưu manh vô lại chận đường, ăn cướp và hãm hiếp vợ con, mà tôi đành phải khoanh tay bất lực.

Tôi quay ra cửa, vật vờ như kẻ mộng du, Hòa dắt tay Giang theo sau. Trời chưa sáng rõ. Những ngọn cây như còn mờ mịt trong sương đêm. Cư Xá Sĩ Quan im lìm, câm nín, như đang bị bóp nghẹt bằng một bàn tay vô hình nhưng vô cùng tàn bạo. Trong cái buổi sáng hôm đó, khi bóng đêm đen còn lấn áp bình minh, khi “đêm như vô tận, ngày chưa hết ngày” ( Huy Lực ), tôi nghĩ tới và khắc khoải chia sẻ tâm hồn đòi đoạn của những người bị cướp đánh giết, phải rời bỏ mái ấm của vợ con để lao mình vào nơi vô định, đầy chông gai nguy hiểm. Có ai đo lường nổi sự đau thương, bi phẫn đắng cay của những người dân Việt miền Bắc như tôi, đã một thời kinh tởm đến tột độ cái xã hội sắt máu của bọn quỷ đỏ không tim óc, đến phải bỏ cả những thứ mình thương yêu nhất, chỉ để được cách ly, xa lìa một sự cuồng tín thú vật, mà giờ đây định mệnh lại cho nó chụp xuống đầu mình.

Chiếc xe gắn máy chở ba người phải mất gần một giờ mới tới một bến sông vắng. Một chiếc thuyền gắn máy đuôi tôm nhô ra từ đám lau sậy ven sông. Hòa ra dấu với người lái đò và vội vã dắt cha con tôi xuống thuyền. Khi chiếc thuyền rời bến, Hoà cũng cùng với chiếc xe gắn máy biến mất trong màn sương sớm. Tôi ôm chặt Giang khi chiếc thuyến nhỏ chòng chành như muốn lật. Gió lạnh từ mặt sông thổi lên cùng với sự giá lạnh trong lòng, làm cho cha con tôi cùng cảm nhận rõ ràng sự rình rập của tử thần như gần gũi đâu đây. Người lái thuyền câm nín, mắt dáo giác nhìn tứ phía, nét mặt luôn có vẻ hốt hoảng. Trên đường đi, thỉnh thoảng anh ta lại thình lình lủi thuyền vào một đám lau sậy ven bờ, ngồi sụp xuống, lặng lẽ quan sát tứ phía. Thái độ và hành động của anh ta làm cho hai hành khách trên thuyền vốn đang hồi hộp và lo sợ, trở nên hoảng loạn. Giang níu chặt lấy tôi, mặt trắng nhợt vì sợ hãi, nói nhỏ vào tai tôi: “Bố ơi ! con sợ quá, mình đi về nhà đi !” Tôi chưa kịp đáp lời con thì anh lái đò đã trợn mắt, ra dấu phải giữ im lặng và lấy tay đè đầu chúng tôi sát xuống sàn xuồng.

Giây lát sau, một chiếc xuồng tuần tiễu xé nước trên sông, tạo ra những lớp sóng làm cho con thuyền nhỏ của chúng tôi cơ hồ muốn lật úp. Cuộc hành trình hồi hộp kéo dài trong những sông lạch quanh co, tới khoảng chiều tối thì chúng tôi cặp vào một chiếc sà lan lớn dềnh dàng đang đỗ ở một khúc sông vắng vẻ. Hai cha con tôi hối hả leo lên sà lan và được đưa ngay xuống hầm tầu. Hầm rộng rinh, nhưng tối om và vắng lặng như tờ. Khi mắt đã quen với bóng tối, chúng tôi nhận ra ít nhất cũng có cả chục người đang núp mình trong các xó kẹt . Họ như những con gián, thấy ánh sáng và tiếng động là vội vã chui vào khe, lỗ ẩn mình. Chừng như đã quan sát rất kỹ, và nhận biết chúng tôi chỉ là những người như họ, đang tìm cách trốn đi, một vài người ra khỏi chỗ núp và lân la làm quen, hỏi thăm tin tức. Nhưng chúng tôi vẫn còn qúa dè dặt, nghi ngờ nhau, nên không ai biết thêm được tin tức gì ngoài cái tin mình cùng là người đang tìm cách vượt biên và đang nằm chờ đợi chưa biết đến bao giờ. Vả lại, chúng tôi cũng đâu có biết tin gì khác !
Sà lan vẫn lờ lững trên giòng sông mênh mông, nước trôi cuồn cuộn. Mỗi ngày, vào chiều tối, lại có thêm người từ các thuyền nhỏ chở tới. Họ xuất hiện bất ngờ, nhưng ai cũng giống nhau ở nét mặt hốt hoảng, đôi mắt dáo giác, đầy lo âu, sợ sệt. Vào ngày thư hai, khi ruột gan tôi đang nóng như lửa đốt, thì chiều tối, một toán người được đưa xuống sà lan. Có ba người là anh em cuả Hòa trong đám mới tới. Vì tôi là anh em họ và cùng có nhà trong cư xá sĩ quan, Hòa lại là người trong tổ chức vượt biên, chúng tôi vồ lấy nhau, mừng rỡ, tưởng như đã qua mười kiếp đầu thai mới gặp lại . Nhờ mấy người em của Hòa, chúng tôi đuợc biết đêm mai, đúng đêm Chúa Giáng sinh, mọi người sẽ ra “cá lớn” và sẽ thoát, vì đã mua hết các trạm công an biên phòng !

Mấy đứa em Hòa cũng mang tới nhiều đồ ăn và lương khô. Chúng tôi chia nhau ăn, và cùng cảm thấy bớt lo âu. Giang cũng vui, vì có thằng Hiệp cùng trạc tuổi nó và là bạn học cùng truờng Trần Phú trong cư xá. Hai đứa nhỏ rù rì kể chuyện với nhau. Tôi lóng tai nghe trộm, mới biết trong thời gian tôi trần mình trả nợ đòn thù trong trại tù cải tạo, thằng con trai chưa đầy mười tuổi của tôi đã phong sương và dầy dạn như thế nào. Giang kể cho Hiệp rằng nó đã từng trốn mẹ, ra tới bến Nhà Rồng, nơi cô giáo của nó khi giảng bài, đã phải uốn lưỡi và méo miệng mới đọc nổi tên con tàu “La tút Trê Vi Ê ” chở bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu nước. Nó cũng đã tập bơi trên sông Saigon, và hợp sức với bạn làm phu khuân vác, kiếm chút tiền, để làm dịu bớt cơn đòi hỏi dữ dội của dạ dày! Câu chuyện kiếm ăn độ nhật của Giang như mũi dao nhọn xoáy vào tim tôi. Thằng Hiệp đáp lời Giang bằng cách nêu những câu hỏi rất khó cho Giang trả lời: “Sao bác đi tìm cách đánh Tây mà bác lại được Tây cho xuống tàu của nó, cho bác làm bồi, rồi chở bác sang Tây ! Đi tàu của Tây chắc khoái lắm. Sao mày không nói với ba mày tới bến Nhà Rồng xem có tàu nào thuê gọt vỏ khoai, rồi mày đi theo, khỏi phải đi tàu bé tí tẹo của anh Hòa. Mà sao bác Hồ phải sang Tây để đánh Tây. Chắc ở bên Tây có nhiều Tây, nên bác dễ tìm nó để đánh hơn là ở bên ta ? ” Câu chuyện thơ ngây của hai đứa trẻ khiến tôi nghĩ tới một tên đại gian, đại ác khoác áo “kách mệnh ”.

Đúng ! dưới biện chứng phét của nhà cộng, “bác” của chúng nó, một thằng lưu manh trôi sông, lạc chợ, đi lang thang kiếm ăn, đã được đảng cướp của cộng phù phép cho là đi “ kíu ” nước, song vẫn không dấu được cái việc xin làm bồi dưới tàu Tây, lãnh lương Tây, ngồi gọt vỏ khoai để kiếm bánh mì và sang tới Tây, ngồi rị mọ chia véc bờ, viết đơn xin học trường thuộc địa, nuôi mộng được Tây cho nhập hàng khuyển mã. Nhưng thôi, nó gọt vỏ khoai để kiếm ăn , thì mặc mẹ nó, nhưng điều đáng nói là cái thằng bất nhân đó, dưới thời thống trị của thực dân mà chúng ta vẫn cho là tàn bạo, nó đã có thừa tự do, dư an toàn, để xuất ngoại học nghề làm loạn và ăn cướp, nhưng bây giờ đồ đảng của nó đang rình rập, hờm súng bắn giết những kẻ vì bàn tay tàn bạo của nó mà phải bỏ xứ ra đi. Ngày nay, dưới ánh sáng chói lọi của lịch sử, “bác ” của chúng nó đã hiện nguyên hình là một con quỷ giết vợ, bỏ con, chặt đầu ân nhân đã che chở nó lúc nó khốn cùng. Nó trơ trẽn say mê danh vọng, đến nỗi phải dùng mưu con trẻ, dấu mặt, viết sách để tự ca tụng “công đức” tưởng tượng của nó. Tôi ước ao được có ngày nhổ vào mặt nó, hay hơn nữa, như “cháu ngoan ”Dương Thu Hương của nó hằng ước mơ, được ị lên mặt nó.

Vào ngày thứ ba dưới sà lan, cũng là ngày cuối cùng, một nhóm đông đảo được mấy chiếc suồng nhỏ chở tới. Tôi chú ý tới một gia đình có bốn người. Người chồng là một thanh niên đẹp trai. Bà vợ là môt thiếu phụ rất trẻ và duyên dáng. Họ có một con nhỏ khoảng bốn năm tuồi, mà họ gọi là thằng Bo. Một người nữa trong gia đình đó là một thanh niên, tôi đoán là em bà vợ, vì nét mặt đẹp trai của cậu rất giống chị. Trong hoàn cảnh nghiệt ngã, phải núp lén và chờ đợi trong lo âu, căng thẳng, họ vẫn giữ được vẻ hồn nhiên, tươi mát. Người vợ dỗ con bằng giọng ngọt ngào : “Bo ơi ! con ăn miếng bánh nhé ? hay uống cho mẹ chút sữa này !” Rồi quay qua chồng, bà âu yếm nói : “Trông anh hơi mệt ! Để em lấy cho anh vài lát sâm, anh ngậm nhé ? ”. Đó là gia đình của trung úy không quân Khúc Ngọc Bảo. Tôi chẳng ngại viết tên anh ra đây, vì tôi biết ở nơi an bình vĩnh cửu, anh đang là chứng nhân tố cáo tội ác ghê khiếp của việt cộng và Hồ tặc, trước sự phán xét của Chúa, Phật, qủy thần. Còn tại nơi trần thế đầy khổ đau và nước mắt này, bọn cộng sản bỉ ổi dù có khát máu cách nào cũng không thể rớ tới lông chân của những kẻ đã về bên Chúa, Phật. Tôi còn hy vọng những dòng chữ muộn màng này có may mắn lọt vào mắt bạn hữu và thân nhân của anh chị. Dù là một tin đau thương đứt ruột, tôi nghĩ mọi người thân của anh chị sẽ chấm dứt được nỗi khắc khoải đợi chờ quá lâu tin tức của anh. Gia đình anh Bảo và tôi nhanh chóng thân nhau. Bảo kể lại câu chuyện khi anh di tản trong sân bay Nha Trang vào cuối tháng tư đen, anh nhặt được một bé gái, còn đang quấn trong tã, bị mẹ nó đánh rơi trong khi chen lấn lên tàu bay. Khi máy bay về tới Tân Sơn Nhất, đứa nhỏ khát sữa, khóc khan cả tiếng, anh bươn chải đi tìm sữa cho nó bú, thì gặp ngay… bà mẹ của con bé ! Nỗi mừng biết lấy chi cân ! Bà mẹ vồ lấy con, rồi lại cuống quýt ôm chặt lấy ân nhân đã cứu con mình. Nước mắt lưng tròng, họ vội vã trao đổi tin tức về gia cảnh của nhau. Bà mẹ trẻ nghẹn ngào, đoan chắc rằng : “ Nếu sau này con bé thành người, nó phải là con ông ! Nó sẽ là vợ của cháu Bo ”. Cháu bé gái nay chắc đã “thành người”, nhưng nó chẳng bao giờ được trả nghĩa ân nhân, được là vợ của Bo. “À, mà cái tên Bo nghe có vẻ lạ tai. Có phải khi chị sanh cháu thì cả nước cùng được ăn bo bo, nên anh chị muốn… kỷ niệm cái thời của bác Hồ chó đẻ đó chăng ? ” Tôi hỏi Bảo. Anh lắc đầu, phì cười: “Không phải thế đâu anh ! Ai lại dùng những kỷ niệm đen tối để đặt tên cho đứa con thương yêu của mình. Tôi ngưỡng mộ tài năng và tư cách một nhà bác học, hy vọng con mình sau nạy tới bờ bến tự do, sẽ học hành giỏi và trở thành một ông Bo khác ” “À ! có thế chứ. Hy vọng lắm. Ai biết đươc tương lai. Niels Bohr, nhà vật lý nguyên tử lừng lẫy của Đan mạch.” Tôi đáp lời Bảo, rồi cả hai chúng tôi đều im lặng, mơ màng. Tôi nghĩ một người đã làm phúc lớn như anh Bảo, thì thằng Bo con anh có thể sẽ là một Niels Bohr người Mỹ gốc Việt. Rồi tôi hy vọng: được đi chung chuyến tàu với một con người nhân hậu như thế, tôi sẽ thoát.

Ôi, những giấc mơ vỡ vụn, đã sớm chìm vào lòng đại dương ngay sáng hôm sau ! Suốt cả buổi chiều ngày thứ ba, nhiều xuồng, thuyền nhỏ tới tấp cặp vào sà lan. Người ta leo lên sà lan như kiến. Lòng sà lan rộng rinh lúc ban sáng, giờ đây chật cứng. Chúng tôi bi xô dạt vào một khe nhỏ, giữa những cây cột bên vách. Tin tức lan truyền nhanh chóng cho biết: tối nay sẽ “đánh ”. Ai nấy hối hả kiểm lại hành lý, dặn dò nhau, nét mặt căng thẳng. Đêm xuống thật mau. Các trưởng toán đếm đầu người và hướng dẫn người trong toán. Tôi nghe có tiếng cãi cọ, tiếng đe dọa rút súng bắn, tiếng van lơn, khuyên can nhau. Chưa xuống được tàu mà sự tranh sống đã bắt đầu quyết liệt. Tôi linh cảm một sự bất tường. Vưà kiểm lại cái bình năm lít đựng nước ngọt và túi bánh bich quy, tôi vừa dặn Giang phải nhớ địa chỉ của người em tôi ở Texas, phòng khi “bị lạc bố, thì con biết đường báo tin cho chú ”. Giang làm tôi yên lòng bằng cách đọc ngay địa chỉ : “con nhớ kỹ rồi ! …Houston, Tx 77089.! ” Cẩn thận hơn, tôi dùng viết bic mực đen, viết địa chỉ vào áo Giang. Linh tính báo cho tôi biết, chúng tôi sẽ lạc mất nhau. Sự lo âu, đau đớn làm tôi rã rời, miệng đắng chát, mắt hoa lên và tôi lảo đảo như người say rượu. Giang lo lắng ôm lấy tôi, và nói : “Hay mình đi về , bố ạ !” Nhưng làm gì còn có thể về được nữa! Toán của tôi đã bi xô lên boong sà lan. Trong bóng tối lờ mờ, tôi nhìn thấy một chiếc ghe nhỏ đang cặp sát sà lan, và một dòng người như kiến đang leo xuống ghe. Chiếc ghe nhỏ tới nỗi so với sà lan, nó như một chiếc xe hơi đậu cạnh tòa bin đinh ! Giang thất vọng nói: “Mình xuống tàu nhỏ chứ không lên tàu lớn bố ạ ! ” Chúng tôi cùng kinh ngạc về sự nhỏ bé của chiếc ghe sẽ chở chúng tôi ra biển. Anh Bảo an ủi tôi rằng có lẽ đây chỉ là chiếc “taxi” dùng chở khách ra ghe lớn ở ngoài xa. Nhưng kinh hãi thay! Đó chính là chiếc ghe định mệnh đã “giải phóng” hơn trăm con người khỏi cái tai ương Cộng sản mà dân ta còn đang phải sống quằn quại với nó chưa biết tới bao giờ !


o0o
(còn tiếp)

XXG
04-27-2021, 12:36 AM
Khi cha con tôi bị đẩy xuống hầm ghe, thì nơi đó đã chật cứng. Vậy mà người ta vẫn tiếp tục ấn người xuống tiếp. Một người đàn bà đã ngồi ngay trên… đầu tôi ! Khi Giang lên tiếng gọi, tôi không thể trả lời nó, vì thân thể to lớn của người đó áp chặt vào mặt tôi. Giang sờ soạng trong bóng tối, và khi biết rõ tại sao tôi không thể lên tiếng, nó dùng hết sức đẩy nguời đàn bà ra xa mặt tôi. Bà ta tức giận, nói lớn: “ Gớm! Cái thằng bé này sao đành hanh quá! Ghe chật mà nó xô đẩy mới khiếp chứ ! ”. Giang cãi lại : “ Bà không được ngồi lên mặt người ta ! ”. Có tiếng người can ngăn: “ Thôi! ráng chút đi. Lát nữa ra khơi, lên boong tàu, tha hồ ngồi rộng rãi! ” . Đúng ! lát nữa ra khơi…! Nhưng bây giờ còn phải ngồi lên đầu nhau và nín thở để qua ba trạm biên phòng nữa. Mỗi khi chiếc ghe nhỏ phải ghé vào bờ, lại nghe tiếng quát nạt lẫn tiếng van xin và ánh đèn pin loang loáng quét xuống hầm tầu, nơi cả trăm sinh vật khốn khổ xanh mặt, cảm thấy mạng mình nhỏ như con sâu, cái kiến. Kết quả của những sự dọa nạt và van xin đó là ghe phải nhận thêm năm bẩy nhân mạng tình nguyện hy sinh, để vàng thêm đầy túi quân ăn cướp ! Tới trạm thứ ba, và cũng là trạm cuối cùng, tiếng van xin nghe thống thiết hơn và tiếng quát nạt cũng dữ dội hơn. Xin các anh tha cho ! Ghe đã quá tải, không còn nhét người vào đâu được nữa! À! bọn mày định trở mặt, nưốt lời không chở người của chúng ông hả ? Muốn đi tù cả đám phải không? Tưởng chúng ông không dám bắn vỡ sọ bọn vượt biên sao!

Đến tình cảnh ấy thì kết quả vẫn như đã xảy ra nơi các trạm biên phòng trước. Một số người lại được lục tục cho xuống ghe. Nhưng may mắn cho những người đang ngồi chồng chất lên nhau dưới hầm ghe, bọn mới xuống không còn bị ấn xuống hầm. Họ ôm nhau ngồi trên boong. Chiếc ghe nhỏ thoát tay quỷ dữ, ì ạch lết đi trong đêm đen… Nó chỉ có sứ mạng chở 30 hay 40 người, giờ đã phải ôm một trăm hai mươi sáu nhân mạng ! Sự lo âu, hồi hộp kéo dài đã làm tê liệt nhận thức con người…

Không ai biết được thời gian đã trôi qua bao lâu. Chợt có tiếng sóng biến ầm ầm như sấm, đập vào mạn ghe. Ai nấy có cảm giác như chiếc ghe bị nâng lên tới mây xanh rồi lại chúi đầu xuống đất. Đã có người nôn oẹ và một mùi chua, tanh nồng bay vào mũi làm tôi thấy ruột gan như muốn trào lên cuống họng. Chợt Giang kêu lên: “ Nước lên ướt hết quần Giang rồi bố à ! ” Có tiếng một người khác la lớn: “Cho chạy máy bơm nước đi Hòa ơi ! Nước vô nhiều quá rồi ! ” Máy bơm nước trong ghe được khởi động. Sau những tiếng nổ phành phạch, một làn khói khét lẹt tràn đầy trong hầm tầu, gây nên những trận ho sặc sụa và cơn uạ mửa tập thể.

Nhưng sao nước không rút xuống mà lại dâng lên quá nhanh. Chiếc ghe hình như chìm xuống thấp hơn. Một lượn sóng tung bọt nước trắng xóa tràn lên boong tàu, trút một trận mưa xuống tầng dưới. Ai nấy ướt như chuột lột… Tôi nhìn chiếc mặt đồng hồ xanh lè trên cổ tay anh Bảo : 12g15 ! Đã quá nửa đêm. Chúa đã giáng sinh đem an bình cho người dưới thế. Nhưng một đám con cái bất hạnh của Chúa đêm nay đã sa vào tay quỷ dữ và sẽ chẳng còn dịp thấy ánh sáng mặt trời của ngày mai, để hát bài thánh ca tạ ơn Chúa. Phút chốc nước đã tới ngực, mọi người dưới hầm chen nhau ùa lên boong tàu. Khi cha con tôi lập cập leo lên tới nơi, một cành tượng kinh hoàng diễn ra trước mắt. Từng gia đình xúm quanh nhau, kêu khóc, cầu Chúa, khấn Phật. Vài thanh niên còn đang cố gắng một cách tuyệt vọng để cứu chiếc ghe, bằng cách dùng thùng hối hả múc nước trong ghe đổ ra ngoài.

Gia đình anh Bảo bốn người cũng đang bíu lấy nhau. Một tay anh ẵm thằng Bo, tay kia nắm lấy tay vợ. Họ không cầu nguyện, nhưng hai vợ chồng liên tiếp rền rĩ những tiếng kêu thương đứt ruột: “Ôi! Bo ôi ! Bo ôi…Bo ôi…!” . Trong giờ lâm tử, họ đã quên nghĩ đến thân mình, nhưng nỗi đau xé ruột của họ chính là sự tiêu diệt cái mầm sống tươi non mà họ hết lòng yêu thương và chứa chan hy vọng. Tâm trạng tôi nào có khác gì vợ chồng anh Bảo. Tôi nghĩ tới Giang, nghĩ tới mẹ nó, các em nó và tôi muốn kêu lên một tiếng xé trời cho bớt nỗi bi ai thống khổ của một kiếp người chẳng may bị nghiền trong hàm răng máu me của một loài qủy dữ. “Ôi ! Bo ôi , Bo ôi!" Tiếng kêu than vỡ tim, xé óc từ bên ngưỡng cửa tử sinh vẫn còn mãi mãi âm vang bên tai tôi, vì nó chỉ là tiếng dội từ chính trái tim tan nát của riêng tôi. “Ôi ! Giang ơi ! Giang ơi ! ”

Giang theo lời tôi, cúi xuống mở nắp cái bình 5 lít mà nó mang theo. Nó trút nưóc trong bình xuồng sàn tàu nhưng giữ lại một it nước, và đưa bình cho tôi: “ Bố uống đi ! có khi bố sẽ khát !” Tôi vội vã làm theo ý Giang, rồi đóng nắp bình, tôi nói với nó: “ Con ôm lấy cái bình này…” Tôi chưa nói hết câu thì chiếc ghe như bị một bàn tay khổng lồ đẩy cho lật sấp. Từng chùm người rơi nhanh xuống biển. Dưới ánh sao đêm, tôi thoáng nhìn thấy những bóng đen tung theo từng đợt sóng trắng xóa . Vừa rớt xuống nước, tôi bị cả chục bàn tay bíu lấy cổ, lấy đầu. Tôi theo chùm người, chìm sâu mãi xuống. Càng xuống sâu, các vòng tay càng nới lỏng, và sau cùng, không còn ai bám vào tôi nữa. Tôi hụt hơi, uống nhiều nước biển, trước khi trồi lên mặt nước. Nghĩ tới Giang, tôi sải cánh tay bơi qua bơi lại rất vội vã, miệng rền rĩ gọi tên Giang, hy vọng tìm thấy con. Sự gắng sức bừa bãi làm tôi kiệt lực rất mau.

Những ngày dở sống dở chết trong tù cải tạo, sức khỏe tôi đã tiêu mòn, lại thêm ba ngày bó rọ, lo âu dưới sà lan, tôi đâu còn bao sức lực. Sóng rất lớn. Tôi ráng giữ cho cái mũi trồi lên trên mặt nước mà không được. Tôi sặc sụa và …chìm dần.! Chợt một cái bọc ni lông trắng trôi qua trước mặt.. Tôi vội bám lấy nó, và tôi đặt cằm lên cái phao đó, há miệng gấp gáp thở, thỉnh thoảng lại bị nuốt những ngụm nước lớn do sóng biển đẩy vào miệng. Tựa cằm vào cái bọc ni lông đó, tôi nghỉ ngơi, và có lúc đã sỉu đi. Mỗi lần mê đi như thế, tôi đều vuột tay khỏi cái phao. Chẳng bao lâu, tôi nhận ra cái phao đang chìm dần. Thì ra đó chỉ là một bọc quần áo. Bị ngấm nước, nó sẽ chìm. Khi nhận biết điều đó, tôi bỏ bọc quần áo và cố sức bơi lại một vật đen thù lù có vẻ như đứng yên một chỗ trên mặt biển. Bơi đã kiệt sức mới tới gần cái vật lạ đó: đấy là một chùm người đang tuyệt vọng bám vào cái mũi ghe. Ghe chìm, nhưng cái mũi nó còn lưu luyến thêm chốc lát trên lớp sóng bạc đầu. Không còn chỗ cho tôi bám, tôi đành bơi loanh quanh. Chợt một cái bọc ni lông khác tấp vào mặt tôi. Đây là một cái bọc trái cây, trong có những trái cam hay bưởi. Sức nổi của cái bọc này rất yếu, nhưng nó cũng giúp tôi đỡ phải vùng vẫy để giữ cho cái đầu khỏi chìm. Nhưng do tôi quơ cào nhiều lần, cái bọc rách toang, và những trái cam trái chanh gì đó, thoát ra, nổi lều bều kháp nơi, mang theo chút hy vọng sống còn của tôi.

Một lần nữa, tôi sắp bị biển khơi nuốt sống, thì tôi chợt nhìn thấy có hai bóng đen đang vật vã cạnh một vật nổi. Ráng chút sức tàn, tôi bơi lại chỗ hai người. Đó là một phụ nữ trẻ và một đứa bé trai khoảng trên mười tuổi. Một phi dầu, nằm ngang, nổi bập bềnh trước mặt họ. Thằng bé kiệt lực, buông tay và kêu cứu mẹ nó. Người mẹ khuyến khích: “ Con ráng bám vào đây. ”. Nhưng làm sao mà bám được vào cái thùng phuy tròn, nổi bập bềnh, không một chỗ để nắm. Mỗi khi bám vào, nó liền xoay tròn theo sức nặng người bám. Chỉ còn cách duy nhất là … bám lại. Hai tay luôn luôn quơ cào để ráng bấu một cách tuyệt vọng vào cái vật vừa cứng vừa tròn, vừa quay như con vụ.! Sức voi cũng phải cạn kiệt rất mau. Một đứa trẻ làm sao chịu thấu.

Khi tôi bơi tới nơi, nhận thấy đây là một cái phao chắc chắn, tôi cố bám vào, và tôi kéo tay thằng bé đặt trên thùng phuy, nhưng tay nó mềm nhũn. Nó úp mặt xuống nước, nổi bập bềnh theo chúng tôi.. Tôi cố sức bám vào cái thùng phuy tới nỗi mười đầu móng tay bị mài cụt tới thịt, rướm máu, đau nhức, không còn chịu nổi. Tôi nói với người phụ nữ, để chúng tôi nắm lấy tay nhau, choàng qua cái thùng phuy, kèm nó vào giữa ngực hai người. Nhưng sóng đánh mạnh quá, chiếc thùng tung lên, hụp xuống, làm cho tay chúng tôi cơ hồ muốn gãy, Nó cũng đập vào mặt làm tôi bị dập môi và bà ta bi chảy máu mũi. Chúng tôi đành buông tay nhau ra, và lại dùng phương pháp “ chuột bạch đánh vòng ”, nghĩa là cào cấu, để bám vào cái thùng sắt. đang quay tròn.. Nhưng chúng tôi cùng kiệt sức quá rồi. Tôi đã mấy lần buông tay, và người thiếu phụ cũng rã rời. Tôi chợt nghĩ: nếu có một sợi giây thừng, đem quàng qua cái thùng, rồi mỗi người nắm môt đầu giây, thì có thể chịu đựng được khá lâu. Làm sao có cái thừng? làm sao có cái thừng ??

Đầu óc tôi rộn lên một ý muốn mãnh liệt, để cố tìm được một sợi giây thừng. Tôi nhìn trừng trừng vào mái tóc dài của người thiếu phụ trôi lòa xoà trong sóng, và nghĩ tới cách cắt tóc đó bện làm sợi giây thừng. Ý muốn mãnh liệt tới nỗi tôi tưởng như có thể thực hiện nổi trong hoàn cảnh thập tử nhất sinh này. Nhưng đó vẫn chỉ là ý nghĩ. Sao không xé áo quần để làm sợi giây ? Ý đó lóe lên trong óc tôi như tia chớp. Nhưng tôi thất vọng ngay. Trên người tôi chỉ còn chiếc quần cụt.! Nhưng kià, người phụ nữ đang cùng tôi chống chọi với thủy thần vẫn còn đủ áo quần. Tôi suy nghĩ và đề nghi với chị một điều mà tôi chắc chưa một người đàn ông nào có tâm trí bình thường dám nói : tôi xin chị cởi chiếc quần đang mặc, quàng nó qua cái thùng phuy, và mỗi người sẽ nắm lấy một ống quần, như một điểm tựa để sống còn.

Tôi không phải giải thich đến lần thứ hai, người thiếu phụ lập tức làm theo lời tôi nói. Sóng đã dịu bớt. Chúng tôi mỗi người nắm một ống quần, ngủ thiếp đi trên mặt biển mênh mang, cuồn cuộn sóng bạc đầu, rải rác vẫn còn những xác người bập bềnh trôi theo! Chúng tôi vật vờ trong sóng nước không biết đã bao lâu. Khi tôi ngẩng lên trời cao và cầu nguyện, tôi thấy những ngôi sao như ít đi. Một thứ ánh sáng màu xám nhạt như đang lan tỏa trong không gian, đẩy lùi bóng tối. Trên mặt biển vắng lặng, một làn hơi nhẹ như sương như khói bốc lên từ mặt nước.Trời đã sắp sáng ! Đột nhiên tôi cảm thấy lạnh cóng. Trong mấy giờ qua, lo vật lộn với sóng nước, lo tìm kiếm và bám víu vào các vật nổi, tôi quên đi cái lạnh cắt da của buổi sớm mùa đông giữa biển khơi lộng gió. Khi tôi nhớ ra mình đang bị lạnh, cơn lạnh như ào ào kéo tới. Nó làm tôi run bắn, hàm răng va vào nhau lộp cộp.

Tay tôi như cứng đơ và tôi không còn cảm giác đang cầm nắm vật gì. Trông sang người phụ nữ, tôi thấy môi chị tím lại, da mặt trắng bệch như xác chết; một bên tóc rủ xuống che lấp mắt mà chị cũng không còn sức hất nó lên.. Nghĩ tới Giang, một cơn tuyệt vọng não nề làm tôi rã rời. Tôi nói với người thiếu phụ : “Chị ơi! tôi mệt quá rồi! Không có ai cứu, chắc mình sẽ chìm mất thôi. Tôi chỉ còn đợi bình minh lên để nhìn thấy mặt trời một lần cuối cùng thôi, rồi tôi sẽ buông tay! ” Người phụ nữ hốt hoảng kêu lên : “Xin đừng buông tay! anh buông tay là tôi cũng chết theo!” Điều ấy đã hiển nhiển. Không có tôi nắm một ống quần, sẽ chẳng còn đối trọng, cái ống quần chị đang nắm sẽ hụt hẫng, không còn quấn vào cái thùng phuy. Lúc ấy, chị chỉ còn cách tái diễn việc dùng tay bám vào cái thùng quay tròn trong sóng. Chị biết rõ là không còn sức lực để làm việc ấy. Tôi an ủi chị bằng cách hứa trước khi kiệt lực chết, tôi sẽ ráng cột chặt cái ống quần vào cổ tôi, điều ấy tôi biết mình không làm nổi.

Rồi bình minh cũng tới. Mặt trời thổ ra một vũng máu hồng trên biển. Nền trời vẩn đầy những đám mây đen viền vàng, hình thù quái dị đầy đe dọa. Tôi vẫn nắm chặt cái ống quần, nhưng không còn đủ sức cất đầu khỏi mặt nước. Khi đầu tôi chìm trong nước, tôi cảm nhận mơ hồ thấy âm thanh của môt cái máy tàu đang chạy. Đó là cái tiếng ùng ục của chân vịt máy quậy trong nước. Tôi ngửng đầu nói với người thiếu phụ: “ Hình như có cái tàu đang tới! ” Mặt người phụ nữ sáng lên niềm hy vọng. Chị dồn dập hỏi tôi : “ Sao anh biết ? sao anh biết?? ”. Khi tôi đáp : “ Tôi nghe thấy nó ! ”, chị thất vọng, tưởng tôi nói trong cơn mê sảng. Tôi mệt quá, lại gục đầu xuống nước. Lần này âm thanh tôi nghe được lớn hơn và rõ hơn. Tôi lại ngẩng đầu lên nói: “Đúng ! có tàu đang tới ! ”. Chúng tôi cùng quay nhìn khắp bốn phương. Trong khi mắt tôi bị chói ánh mặt trời, chỉ thấy một vầng sáng lòa trước mắt, chị reo lên mừng rỡ: “ Có một cái chấm đen phía sau lưng anh kìa ! Đúng rồi, một chiếc tàu đang tới ! ”.

Chúng tôi như hồi sinh, mạnh mẽ hẳn lên với niềm hy vọng thoát tay tử thần. Giây lát, một chiếc ghe đánh cá nhỏ lướt sóng tới nơi. Nó chạy vòng quanh chúng tôi, với vòng tròn ngày càng thu hẹp lại. Một người đàn ông trên ghe chìa ra môt cây sào. Người phụ nữ buông thùng phuy, nắm lấy cây sào và nhanh chóng được kéo lên tàu. Không còn người giữ ống quần bên kia thùng phuy làm vật đối trọng, tôi hụt hẫng, dùng tay cố bám cái thùng, nhưng đành chịu thua . May mắn, chiếc ghe cứu người đã quay lại, và cây sào lại chìa ra.

Tôi không còn đủ sức nắm lấy nó, ngón tay tôi co quắp, cứng đơ. Người trên tàu lùa cây sào vào nách tôi, quậy mạnh và thét lớn “Kẹp lấy ! kẹp chặt lấy !” Nhưng khi cây sào được kéo lên, không có tôi đi theo. Tôi đã quá yếu, không đủ sức kẹp cây sào vào nách. Người ta phải lượn chiếc ghe vào sát bên tôi, và nhanh chóng túm lấy tóc tôi, kéo lên. Tôi được lôi lên tàu như một con cá chết. Tôi nằm vật ra sàn ghe, thân thể nhăn nheo, trắng bợt. Thấy tôi rét run, một người đánh cá quơ đống lưới trên sàn tàu phủ lên người tôi, rồi thản nhiên bỏ đi. Đối với đám dân chài trong chế độ cộng sản, sự cấp cứu một người gần chết chỉ tới mức đó. Lòng nhân đạo của con người dưới thời cộng sản cũng ít ỏi và sơ sài như cái tem phiếu phân phối nhu yếu phẩm của Đảng. Dù đang mệt xiủ, tôi cũng ngửi thấy chiếc lưới cá vô cùng tanh tưởi. Tôi ụa mửa liên hồi. Nước biển mặn chát tuôn ồng ộc qua miệng. Tôi cũng liên tục tiêu chảy ra nước biển. Mắt hoa lên, tôi ngất đi. Thời gian không biết đã trôi qua bao lâu.

o0o

Tôi tỉnh dậy thấy thân mình ấm, nóng, nhưng mệt rã rời và cổ khô như cháy. Chao ơi! Tôi khát nước ! Nhưng vì quá yếu, tôi không thể lên tiếng, cũng không đủ sức đẩy cái lưới cá phủ trên mình. Đúng lúc đó, tôi nghe tiếng một người đàn ông nói : “Anh kia chắc chết rồi ! Không thấy động đậy chi cả. Phải chồng chị không ? Không phải ! Vậy để tôi coi. Nên quăng xác anh ta xuống biển để khỏi phiền nhiễu khi về tới bến .” Khi lưới cá được dở lên, tôi trông thấy một người đàn ông mình trần, da đen bóng, đứng bên môt phụ nữ xinh đẹp, nhưng lại mặc bộ bà ba của đàn ông , trông hơi quen. Không nói được, tôi lấy tay chỉ vô miệng. Chị ta reo lên : “Ông ấy còn sống ! ông ấy khát nước. Tội nghiệp ! Để tôi cho ông hớp nước .” Rồi chị tất tả chạy vào cabin, bưng ra một bát nước. Chị nhẹ nhàng nâng dầu tôi lên và kê bát nước vô miệng. Nước ngọt như cam lồ của Phật bà Quan Thế Âm.

Sau khi uống bát nước, tôi nằm xuống ngủ li bì như chết. Khi tôi tỉnh dậy, trời đã về chiều, người tôi đang lắc lư theo nhịp di chuyển của chiếc xe vận tải có công an cầm súng. Tay tôi bị xich chung với tay một người thanh niên lạ. Tám người chúng tôi sống sót trong chuyến ghe định mệnh. Sự đau đớn xót xa vì mất người thân khiến ai nấy ngậm ngùi câm nín, không một biểu lộ vui mừng vì mình thoát chết...

Ôi, nếu những kẻ được trời cho sống qua cơn đại nạn này, mà lại biết trước rằng: trại giam chấp pháp Bến Tre và các trại lao động khổ sai Bến Tranh, Châu Bình đang chờ đón họ, tôi chắc họ cũng đã vui vẻ buông tay theo người thân về lòng biển cả, nơi không có loài thú cộng sản và cũng chẳng có hận thù. Tôi tự hỏi: phải chăng lời cầu nguyện của tôi trong lúc sắp tan biến vào lòng Đai dương, đã cho tôi thấy lại một bình minh.

Tôi không biết. Nhưng tôi linh cảm thấy từ nay, bình minh sẽ mãi mãi rực rỡ trên đầu tôi, dù bọn cộng giết người có đầy đọa, chà sát tôi đến cỡ nào. Đạo bùa linh mà loài ác quỷ ăn cắp ở đâu đó, để xử dụng làm toàn điều ác kinh khiếp cho chúng ta, nay đã hết thiêng và không còn hiệu lực nào đối với tôi. Tôi còn niềm tin sắt đá rằng: dù nước Việt ta trải qua trăm cay ngàn đắng trong đêm dài cộng sản, một bình mình tươi sáng sẽ theo ánh dương về soi rõ mặt kẻ thù, và quét sạch đêm đen. Không thể khác được, vì có ai ngăn được mặt trời xuất hiện sau đêm dài tăm tối !

Ngày nay, mỗi đêm ngồi lặng lẽ thiền định trong bóng tối, theo dõi hơi thở, để chú tâm sống những giây phút nhiệm màu của hiện tại, tôi vẫn phải thỉnh thoảng vật lộn với những hình ảnh và cảm giác khủng khiếp của con thuyền định mệnh năm nào. Tôi thấy Giang khom mình đổ nước xuống sàn tàu, tôi thấy gia đình anh Khúc Ngọc Bảo đang xúm vào nhau kêu thương rền rĩ “ Bo ơi! Bo ơí ! ” Tôi thấy xác đứa nhỏ bập bềnh trong sóng nước trôi theo mẹ nó đang quay tròn bên chiếc thùng phuy lập lờ trong sóng…
Tôi ngừng theo dõi hơi thở , để quán chiếu những hình ảnh bi thương đó cho đến khi nó tàn úa trong tâm tưởng, và biến mất,trả lại cho tôi phút giây hiện tai. Nhưng nhiều lần tôi thất bại, không làm cho nó biến đi được. Tôi càng quán chiếu, những hình ảnh ghê rợn và cảm giác hãi hùng càng hiện ra rõ rệt như thực. Tôi đành bỏ phí một buổi thiền tập, ra bàn thờ thắp hương và niệm Phật.

Nhiều đêm trong mơ, tôi thâý người phụ nữ mặc áo bà ba đàn ông, đứng bên đống lưới cá, nâng đầu cho tôi uống nước. Người phụ nữ mà tôi có dịp chia sẻ sự sống còn trong đêm giáng sinh năm 1979 chính là hiền thê của anh Ngô Cảnh H. một bạn đồng môn của chúng ta. Tôi ngậm ngùi tưởng nhớ hàng trăm ngàn đồng bào, như Giang, như gia đình anh Khúc Ngọc Bảo đã bỏ mình vì sự tàn độc của một lũ cuồng tín, hung bạo và dốt nát. Thân xác họ đã yên nghỉ trong lòng đại dương, nhưng anh linh của họ sẽ kết tụ thành mây bão, thổi sập cái chế độ bất nhân đang xiết cổ dân ta.

Biển xanh yên giấc ngàn thu
Thuyền nhân yên nghỉ trong mồ trùng dương
Hồn thiêng nêu chí quật cường
Ngày tan giặc cộng bốn phương tìm về !

BÙI XUÂN CẢNH
Virginia, August 2008,

XXG
04-27-2021, 08:19 PM
__Trong mùa Quốc Hận lần thứ 46, tôi xin đăng lại bài thơ này của tác giả Trần Trung Đạo, thay cho một nén hương lòng để tưởng nhớ đến những thuyền nhân đã bỏ mình trên biển cả...


Em Bé Việt Nam và Viên Sỏi__


Bé thơ ơi cuộc đời em viên sỏi
Khóc một lần nước mắt chảy thiên thu

- Viên kẹo tròn nầy để dành cho Mẹ
Viên kẹo vuông nầy để lại cho Ba
Viên kẹo nhỏ nầy để qua cho chị
Viên kẹo lớn nầy để lại cho em
Còn viên kẹo thật to nầy... là phần Bé đấy

Bên bờ biển Palawan
Có một em bé gái
Tuổi mới chừng lên sáu lên năm
Ðang ngồi đếm từng viên sỏi nhỏ
Và nói chuyện một mình
Như nói với xa xăm.

- Em đến từ Việt Nam
Câu trả lời thường xuyên và duy nhất
Hai tiếng rất đơn sơ mà nhiều người quên mất
Chỉ hai tiếng nầy thôi
Em nhớ kỹ trong lòng
Em chỉ ra ngoài Ðông Hải mênh mông
Cho tất cả những câu hỏi khác.

Mẹ em đâu?
- Ngủ ngoài biển cả.

Em của em đâu?
- Sóng cuốn đi rồi.

Chị của em đâu?
- Nghe chị thét trên mui.

Ba em đâu?
Em lắc đầu không nói.

- Bé thức dậy thì chẳng còn ai nữa

Chiếc ghe nhỏ vớt vào đây mấy bữa
Trên ghe sót lại chỉ dăm người
Lạ lùng thay một em bé mồ côi
Ðã sống sót sau sáu tuần trên biển.

Họ kể lại em từ đâu không biết
Cha mẹ em đã chết đói trên tàu
Chị của em hải tặc bắt đi đâu
Sóng cuốn mất người em trai một tuổi.

Kẻ sống sót trong sáu tuần trôi nổi
Ðã cắt thịt mình lấy máu thắm môi em
Ôi những giọt máu Việt Nam
Linh diệu vô cùng
Nuôi sống em
Một người con gái Việt.

Mai em lớn dù phương nào cách biệt
Nhớ đừng bao giờ đổi máu Việt Nam
Máu thương yêu đã chảy bốn ngàn năm
Và sẽ chảy cho muôn đời còn lại.

- Viên kẹo tròn nầy để dành cho Mẹ
Viên kẹo vuông nầy để lại cho Ba
Viên kẹo nhỏ nầy để qua cho chị
Viên kẹo lớn nầy để lại cho em
Còn viên kẹo thật to nầy... là phần Bé đấy.

Suốt tuần nay em vẫn ngồi
Một mình lẩm bẩm
Ngơ ngác nhìn ra phía biển xa xôi.

Như thuở chờ Mẹ đi chợ về...

- Thật trễ làm sao
Em tiếp tục thì thầm
Những câu nói vẩn vơ
Mẹ ngày xưa vẫn thường hay trách móc.

Em cúi đầu nhưng không ai vuốt tóc
Biển ngậm ngùi mang thương nhớ ra đi
Mai nầy ai hỏi Bé yêu chi
Em sẽ nói là em yêu biển
Nơi cha chết không tiếng kèn đưa tiễn
Nơi tiếng chị rên
Nghe buốt cả thịt da
Nơi Mẹ chẳng về dù đêm tối đi qua
Nơi em trai ở lại
Với muôn trùng sóng vỗ.

Bé thơ ơi cuộc đời em viên sỏi
Khóc một lần nước mắt chảy thiên thu.

______o0o_____
(Trần Trung Ðạo)

XXG
04-30-2021, 05:13 PM
___ Về đâu....

Về đâu nhặt chữ "sum vầy"
Về đâu, giọt rượu để gầy cuộc tương
Về đâu, nước mắt quê hương
Về đâu phố cũ, vấn vương tên đường
Về đâu, khất nợ đời thường
Về đâu tìm lại ngôi trường năm xưa
Về đâu, mái ngói che mưa
Về đâu, nỗi nhớ còn thừa dư âm
Về đâu, nửa kiếp thăng trầm
Về đâu quên được vết bầm trong tim
Về đâu, đời tựa cánh chim...

.............. Ngàn khơi sóng vỗ,
....................... biết tìm
........ về đâu!

__(XXG)__



__o0o__


https://youtu.be/B_9qZ-AqI5Y

XXG
04-30-2021, 05:29 PM
(Xin bấm vào tựa đề)
(https://app.box.com/s/r55ssogwv4e5jkg20r2njhemt92i0rei)

_____DÒNG ĐỜI (https://app.box.com/s/r55ssogwv4e5jkg20r2njhemt92i0rei)



Thoáng qua,
........ đã nửa đời người
Ngậm ngùi
...... một kiếp
........... nổi trôi,
............... lưu đày
Tháng rơi, ngày rớt kẽ tay
Khói sương nhuộm tóc,
........... dầm vai bụi đường

Buồn, thì đời cũng vô thường
Trăm năm gom lại
.......... vài chương nghĩa tình
Miệt mài
một kiếp nhân sinh
Giữa vòng xoay chuyển
.................. vô minh cõi trần

Mới thành cũ,
cựu hóa tân
Giả chân,
hư thực
duyên phần về đâu?
Mắt nhìn những cuộc bể dâu
Biển đời sóng nổi
trắng đầu
bạc tâm

Niềm riêng gói lại âm thầm
Thấp cao chân bước
.............. lặng câm bên đời.
______________
(Lý Lạc Long)

Dòng Đời (nối tiếp)__

Xuôi dòng,
.......... con tạo mãi trôi
Bức tranh vân cẩu vẽ đời ly hương
Ta mang tiếng "Quấc" bên đường
Gửi theo ngọn sóng
..... trùng dương,
......... mịt mù

Hạ về, rồi lại sang Thu
Đông tàn,
Xuân đến
bao chừ nghe tin?
Đất trời sao mãi vô tình
Dăm trang lịch sử
........... mấy nghìn nhân sinh?

Quê Cha giờ vẫn điêu linh
Cho đàn chim Việt
buồn tênh xứ người
Xuân đất khách,
......... vắng nụ cười
Một cành Mai nhỏ,
xa vời niềm đau

Bụi thời gian đã bạc màu
Nửa đời lữ thứ tan vào hư không
Đuốc nào nuôi ngọn lửa hồng
Màu cờ nào phủ linh hồn cô đơn

Đưa tay nhặt chút tủi hờn
Mang về...
....... sưởi ấm
............ vết sờn trong tim
___o0o___
(XXG)

XXG
04-30-2021, 09:23 PM
.
VẪN...

Vẫn tiếc khung trời tuổi mộng mơ*
Vẫn yêu trường cũ dẫu đôi bờ
Vẫn thương phận Mẹ hoài đau khổ
Vẫn xót thân Cha mãi xác xơ
Vẫn giữ màu cờ nơi viễn xứ
Vẫn nuôi ngọn lửa chốn trăng mờ
Vẫn niềm hãnh diện là con lính
Vẫn thế,
...... trọn đời
................. với ý thơ
(XXG__)

* "Tuổi mộng mơ" của những đứa trẻ được sinh ra trong Miền Nam (thế hệ của tôi) đã chấm dứt vào lúc 10:30 sáng ngày Ba Mươi Tháng Tư năm 1975.




____o0o_____






https://youtu.be/35gi51DddH0

XXG
05-01-2021, 12:31 PM
(To my mentor)

2010-2021

Thoáng chốc, mà đã hơn mười Thu rồi Chú nhỉ
Chỉ mới ngày nào một sáng Thứ Năm
Hải Điểu "N_A" ngậm ngùi lià tổ ấm
Bỏ lại sau lưng một kiếp thăng trầm

.................... Giờ,
...... chốn non cao, Chú có về thăm lại
Tổ Quốc - Đại Dương của thuở anh hùng
Của Linh Kiếm,
Của "can trường trong chiến bại"
Của tung hoành nơi Rừng Sát năm xưa

Của những Kinh Kha một chiều mưa biển Bắc
biết ngày đi nhưng không hẹn ngày về

Vâng! ...
Con đã được bao lần nghe Chú kể
Chuyện làm trai trong binh lửa điêu tàn
Chuyện quê nhà, chuyện đất tổ lầm than
và lời dạy: "Sống cho tròn đạo nghĩa."

Mới đó...
mà đã qua một đời, Chú nhỉ
Mấy mươi năm xong một kiếp con người
Vinh nhục, đau thương, hận thù, yêu ghét
Nhắm mắt rồi thì cũng thế mà thôi...

"Thiên-Địa-Nhân" một phận người, ba Mệnh
Đứng dậy với đời hay cúi mặt chịu làm tôi
Sắc áo năm xưa phút nhắm mắt, không rời...
Quân Kỳ đó, đâu đã thành chiến bại!

Hai chữ "được__thua" trên ân tình để lại
Người mất đi, bao kẻ nhớ thương hoài
Chết thân xác nhưng tình người vẫn sống
Thế, còn hơn...
........... những thằng sống (mà) như đã chết từ lâu.

(XXG__)

* Linh Kiếm: Trợ Chiến Hạm LSSL HQ226 (Landing Ship Support Large). Sau đổi tên là Lê Trọng Đàm.

XXG
05-04-2021, 10:04 PM
___Lời Trần Tình Tháng Tư___



(Nguyễn Trần Diệu Hương__4/2019)



Em và Tháng Tư cùng thương tích
xoa mãi cho nhau những vết bầm
(Trần Mộng Tú/Đêm Tháng Tư)

Đã 44 năm trôi qua kể từ ngày mặt mũi của tôi luôn bị tô màu đen, hoặc đỏ tùy theo vị trí của phía Bắc hay phía Nam.

Không phải tự nhiên mà tôi bị như thế. Lẽ ra màu sắc của tôi phải là màu xanh mơn mởn của hoa lá mùa Xuân, phải là màu sắc xanh , hồng, vàng, trắng... của những quả trứng mùa phục sinh, như truyền thống lễ Easter ở Mỹ.

Em có biết tại sao không? Em sinh sau chiến tranh, dù ở bên này hay bên kia vĩ tuyến 17, chắc là chưa ai giải thích cho em một cách tương đối khách quan tại sao tôi chỉ được tô đen, hoặc đỏ, mà không có được màu sắc của tháng thứ tư trong năm, lúc mùa Xuân đang ở độ đương thì, người ta đã có thể diện những cái váy mùa hè thay cho những chiếc áo khoác, khăn quàng cổ chống cái lạnh buốt giá của mùa Đông.

Ngày đó khi em chưa ra đời, tôi mới bước vào ngày thứ 2 trong chu kỳ 30 ngày hiện diện hàng năm thì thành phố Nha Trang cát trắng hiền hòa bị đổi chủ. Chủ cũ phải bỏ đi trong tức tưởi, nghẹn ngào. Người Nha Trang cũng ùn ùn tháo chạy, bỏ hết nhà cửa, cơ ngơi, và bỏ cả biển xanh còn nguyên vẻ đẹp thiên nhiên để chạy vào Saigon. Rồi không biết phải làm gì nữa, chỉ biết là làn sóng đỏ đang tràn về thì chạy. Người ta nhớ chuyện di cư tháng 7 năm 1954 của gần hai triệu người miền Bắc, họ cuống cuồng, gồng gánh chạy vào Nam, bỏ lại mồ mả, nhà cửa, ruộng vườn; vào miền đất mới, họ sống bình an đã 21 năm, đôi lúc cũng có hoài vọng cố hương, nhưng sống bình an, tự do, thành công ở miền Nam, chưa có ai ân hận về quyết định di cư của mình.

Cả 30 ngày của tôi hiện diện năm đó (1975) không có màu sắc của mùa Xuân, chỉ có sự hoảng loạn, và nước mắt. Và cả hai bên vĩ tuyến 17 đều tưởng mình đang trong một cơn mơ dài. Phía Bắc có mộng lành, phía Nam có ác mộng.

Quân đội miền Nam với những người lính luôn mang trên vai những từ "tổ quốc, danh dự, trách nhiệm" như truyền thống kỷ luật của quân đội, vừa rút quân, vừa không hiểu tại sao mình phải làm như vậy? Súng thì còn, nhưng đạn không có! Không lẽ phải đánh nhau bằng cờ lau như thời vua Đinh Tiên Hoàng còn là em bé mục đồng Đinh Bộ Lĩnh?

Quân đội miền Bắc ngơ ngơ ngáo ngáo, cứ tưởng mình nằm mơ, ra khỏi Trường Sơn cứ một mực thẳng tiến trên quốc lộ 1, không còn phải sợ "sinh Bắc tử Nam". Họ ngước mắt nhìn những cao ốc bỏ trống của miền Nam, trong nỗi mừng tưởng chỉ có trong những cơn mơ, chợt nhận ra mình đã "giải phóng" đồng bào miền Nam không cơ cực, không bị bóc lột chút nào!

Dân thì càng không hiểu tại sao, cứ thấy quân đội miền Nam rút, là gồng gánh chạy theo.

Cứ như thế khi "ông Tổng thống hai ngày" đọc lệnh đầu hàng thì tôi đang sắp bàn giao phận sự đếm tháng ngày cho tháng Năm. Phải chi quân đội miền Bắc vào Saigon chậm hơn một ngày, thì không phải tôi mà tháng Năm mới là tháng bị tô đen .

Khác với 11 tháng còn lại, từ dạo đó, tôi phải cùng hơn 20 triệu đồng bào miền Nam gánh chịu oan khiên cùng vận nước.




o0o



Người Lưu Vong Lúc Còn Trong Bụng Mẹ

Những em bé Việt Nam chào đời trong trại tỵ nạn, hay trên xứ người thấy mình được đến trường học bằng ngôn ngữ không giống ngôn ngữ cha mẹ nói ở nhà. Cha mẹ thì lúc nào cũng buồn lo, nhớ những người thân còn ở một xứ sở xa tít bên kia bờ đại dương, được gọi là quê nhà.

Một vài em không may, chào đời trong một bệnh viện tiện nghi của Mỹ, mà không có cha. Lớn lên chỉ nghe mẹ kể là cha vẫn còn bị tù trong "trại cải tạo ở bên nhà" như câu hát "ngày con ra đời, núi rừng cha sống lưu đày".

Phải gần 20 năm sau, khi em lớn lên, mới gặp được cha gầy gò, khắc khổ, đen sạm, qua Mỹ theo chương trình định cư nhân đạo, dành cho những cựu tù nhân chính trị, những người vô tội bị lao động khổ sai trong tù mà không hề có án. Em sinh ra ở Mỹ, nên chỉ hiểu tiếng mẹ đẻ loáng thoáng, nhưng nhờ liên hệ huyết thống nên cha con rồi cũng hiểu nhau.

Em nhận ra là cứ hàng năm đến tháng 4, khi nước Mỹ rộn ràng đón lễ Phục sinh đầy màu sắc, cha chỉ mặc đồ màu đen và trắng. Dù tháng tư với những mầm sống của mùa Xuân vươn lên, những đồi hoa dại màu vàng nở rộ khắp nơi, những thảm hoa poppy màu cam ở California rực rỡ vẫn không át được màu đen trên áo quần của cha, những áng mây buồn trong mắt của mẹ .

Cả nhà không ai nói với ai cả ngày cuối tháng tư, chỉ có âm thanh trầm buồn từ TV của những cuốn phim tài liệu đen trắng nhạt nhòa về ngày 30 tháng tư năm 1975 khi em đang nằm trong bụng Mẹ. Không biết nỗi "hồ hởi, phấn khởi" của "bên thắng cuộc" có còn nguyên vẹn sau hơn 40 năm? Nhưng đau buồn của "bên thua cuộc" từ đời cha qua đời con vẫn còn đó, buốt nhói lên mỗi độ tháng tư.




o0o



Tháng Tư cũng là mùa lễ Phục sinh ở Mỹ. Lúc còn nhỏ, em được cô giáo dẫn đi tìm trứng (eggs hunt) ở công viên gần trường. Người ta làm hình quả trứng bằng nhựa đủ màu:

- Màu vàng là màu nắng ấm áp của mùa Xuân, biểu tượng niềm vui, và hạnh phúc.

- Màu xanh lá cây là màu của cỏ, và lá non, biểu tượng cho hy vọng, sức sống đang lên.

- Màu cam nhạt biểu tượng bình minh, và khởi đầu.

- Màu xanh dương là màu của bầu trời, màu của nước, biểu tượng của hòa bình và sự hòa hợp. Trời trong xanh sau một cơn mưa là nguồn nuôi mầm sống mới.

- Màu tím nhạt biểu tượng cho một điều gì đó rất đặc biệt .

Thời nhỏ dại, không có khái niệm về những biểu tượng của màu sắc, tụi con trai thích vỏ trứng nhựa màu xanh dương, tụi con gái thích vỏ trứng màu hồng, dù bên trong là cùng một loại kẹo hình hạt đậu (jelly bean) đủ màu. Nhưng cứ tìm được quả trứng nào là mừng như tìm được vàng, mặc dù không phải là màu mình thích .

Lớn hơn một chút, vào trường Trung học thì cả con trai, lẫn con gái đều thích tìm những quả trứng nhựa màu tím nhạt để tặng cho "ai đó rất đặc biệt", crush đầu đời của mình.

Màu sắc tươi sáng của những quả trứng mùa phục sinh theo em đến lúc trưởng thành. Rồi em lập gia đình, dẫn con đi tìm trứng (eggs hunt) hàng năm, lòng ngậm ngùi hơn khi thấy cha mẹ mình càng lúc càng cao tuổi, sức khỏe hao mòn, nhưng nỗi buồn tháng tư vẫn còn nguyên vẹn. Em tò mò tìm đọc tài liệu về chiến tranh Việt Nam, tìm hiểu về lịch sử cận đại. Càng đọc, càng hiểu, càng thương cha mẹ, và cũng bần thần, không cười trọn nụ mỗi tháng tư.

Mùa Phục sinh năm nay, em phải luộc một quả trứng gà, tô đen vỏ trứng sau khi luộc, và đem chôn ở một góc khuất của vườn nhà. Sẽ không có ai đi tìm trứng ở đó. Rồi quả trứng vỏ đen sẽ phân hủy cùng đất. Cầu mong mọi nguyên nhân làm đất nước Việt Nam thụt lùi, thiếu đạo đức, suy đồi sẽ phân hủy như quả trứng đen trong lòng đất. Hy vọng màu đen trong ký ức của thế hệ ông bà, cha mẹ sẽ biến mất. Cầu mong quê cha đất tổ của em ở bên kia bờ đại dương rồi sẽ có tự do dân chủ, có đủ màu sắc của vỏ trứng nhựa mùa phục sinh.

Phải có một ngày quê cha đất tổ của em phục sinh. Và tháng tư sẽ không bị tô đen trên lịch, trong lòng của cả triệu người Việt Nam phải sống đời lưu lạc.





________o0o________



(Nguyễn Trần Diệu Hương)


Easter April 2019






https://youtu.be/c3fXaAhH06w

XXG
05-05-2021, 09:53 PM
__Những Trận Đánh Cuối Cùng và Chân Dung Người Lính VNCH__




(Tác giả Sơn Tùng. Tháng Tư 2015)

Quân đội VNCH chính thức buông súng và tan rã vào trưa ngày 30/4/75, sau nhật lệnh đầu hàng của Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, một tên nằm vùng được Tổng thống 3 ngày Dương Văn Minh bổ nhiệm làm quyền Tổng Tham Mưu Trưởng. Đó là một ngày đen tối mà cho đến hôm nay, sau đúng 40 năm, hầu như vẫn còn in rõ trong tâm niệm của hàng triệu người lính cũ của quân đội miền Nam cùng với những cảm nghĩ cay đắng, đau xót. Những cảm nghĩ ấy có lẽ cũng được cả những người chết mang theo

Bốn mươi năm sau khi tan hàng rã ngũ bằng một cuộc bức tử kinh tởm, chân dung thật của người lính VNCH vẫn còn bị che mờ sau những màn khói huyền thoại, phản bội và vô ơn. Có lẽ trong lịch sử thế giới, không có người lính nước nào phải chịu một số phận nghiệt ngã như người lính VNCH. Trong khi cầm súng chiến đấu và sau khi đã buông súng hằng chục năm, người lính ấy vẫn chưa thoát khỏi cái số phận nghiệt ngã bám theo mình.

Tuyên truyền CS vu cáo họ là “những tên lính đánh thuê”, là bọn “ngụy quân” phản quốc, làm tay sai cho ngoại bang giết hại đồng bàọ. Báo chí phương Tây, kiêu ngạo và bất công – qua một số cấp chỉ huy thối nát, bất xứng – vẽ lên hình ảnh những người lính chỉ biết nhũng nhiễu dân, bỏ chạy trước địch quân, và “không chịu chiến đấu”. Cuộc tan hàng thê thảm vào ngày 30/4/75 càng khiến người lính VNCH bị lăng nhục hơn nữạ. Kẻ thù, sau khi “lượm được chiến thắng”, đã tận dụng mọi phương tiện để trả thù, đày ải, hạ nhục những người lính bại trận. “Bạn bè”, khiếp sợ trước “chiến thắng thần thánh”của đối phương, cũng để tự bào chữa cho sự hèn nhát và phản bội của mình, tiếp tục trút mọi tội lỗi lên đầu những người lính đã bị bắt buộc phải buông súng.

Đau đớn hơn nữa là sự phản bội của một số những người chỉ huy cao cấp trong quân đội VNCH. Từ Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn văn Thiệu, nguyễn Cao Kỳ, cho đến gần đây nhất là Trần Văn Đôn. Chưa hết, còn sự vô ơn và phản bội của một số người Việt cầm bút, ở trong và ngoài nước, những người đã nhờ máu của người lính VNCH mà dược hưởng tự do trong hơn 20 năm để viết ra những gì họ nghĩ, cái tự do trong cái giới hạn trong một xã hội chiến tranh nhưng ít nhất họ cũng không bị trở thành những con ngựa trong chuồng như ở miền Bắc. Những nhà văn nầy đã và đang trả cái ơn ấy bằng cách khai thác và phóng đại những khuyết điểm của người lính VNCH, hay vô liêm sĩ hơn nữa, vu cáo những người chiến sĩ chính danh là những tên lính đánh thuê khát máu, không nhân tính, không lý tưởng. Đâu là chân dung thực của người lính VNCH ?

Năm 1984, trước bộ phim được gọi là “tài liệu lịch sử” dài 13 giờ chiếu mang tên Vietnam: A Television History (Việt Nam: Một Bộ sử Truyền Hình) nhưng là một sự lăng mạ lịch sử, ông James Banerian đã viết một cuốn sách vạch trần những sai lầm ác ý của những người làm phim. Cuốn sách của ông nhan đề là Losers Are Pirates (Thua là giặc), rút từ câu tục ngữ Việt Nam “được làm vua, thua làm giặc”. Cái tựa đề ấy đã xác nhận thêm số phận bạc bẽo cay nghiệt của người lính thua trận, và là một trong số hiếm hoi những tiếng nói lương thiện và trung thực trong “thế giới tự do” đã đóng góp vào việc tái tạo lại chân dung thực của người lính VNCH.

Cũng trong năm 1984, học giả Phạm Kim Vinh viết cuốn “Thiên Anh Hùng Ca Viết Cho Quân Lực VNCH, dùng những chất liệu lịch sử và những bài viết của các tác giả Tây phương lương thiện để bẻ gãy những sự vu cáo, bác bỏ những lời buộc tội bất công, xoá tan những huyền thoại, và phục hồi danh dự cho những người lính đã chiến đấu trong những điều kiện khắc nghiệt suốt hơn 20 năm, đi qua một con đường dài lịch sử mà ông cho là “kể về sự khắc khổ và chịu đựng còn vượt xa con đường Vạn Lý Trường Chinh của Mao Trạch Đông, và về tính cách thiêng liêng, vị tha và cao quý còn vượt xa các cuộc Thánh Chiến Thời Trung Cổ.

Chân dung người lính VNCH được phác họa sống thực ngay ở bìa cuốn sách, với hình ảnh một người chiến binh gầy ốm, gương mặt chĩu nặng ưu tư mệt mỏi, nhưng chân vẫn bước đi với hai ống quần xắn lên tới đầu gối và cây súng thô sơ trên vai.

Qua gần 300 trang sách với thật nhiều dẫn chứng cụ thể và những biện luận vững chắc, tác giả Phạm Kim Vinh đã đưa người đọc đi lại con đường dài mà người lính VNCH đã đi, từ những ngày đầu được khai sinh với nhiều bất hạnh, trưởng thành dần trong khói lửa với cuộc chiến đấu dũng cảm trong sự thiệt thòi bất công vô lường, cho đến cái chết tức tửi oan nghiệt vào ngày 30/4/75.

Ngay sau khi người lính VNCH buông súng, trong đống sách báo phim ảnh trên thế giới nói về cuộc chiến VN cũng đã có rải rác những cái nhìn công bằng hơn về những người lính thua trận, qua những cuộc chiến đấu cuối cùng dũng cảm tuyệt vọng của họ.

Hai ngày sau khi Saigon sụp đổ, Peter Kanh, nhà báo Mỹ đoạt giải Pulitzer, đã viết một bài bình luận dài trên tờ Wall Street Journal (2/5/75) tựa đề “Truy điệu Nam Việt Nam”, trong đó có đoạn viết về Quân Lực VNCH như sau:

“…Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậỵ. Quân lực VNCH đã chiến đấu can đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như trận An Lộc Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ…

Hàng trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu người của quân lực ấy đã bị thương…Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người ta . Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn”.

Không phải đợi tới ngày nay, 40 năm sau, người ta mới khẳng định được rằng, “phía mạnh hơn không phải là phía tốt”. Phía tốt hơn đã trở thành phía yếu hơn và đã bị đánh bại trên chiến trường chỉ vì đã trở thành nạn nhân của sự hèn nhát và phản bộị Người lính VN đã chiến đấu cho tự do đã bị trói tay buộc chân, cắt giảm viện trợ vào lúc hiểm nghèo nhất.

Trong cuốn “Not with guns alone”, nhà báo lão thành người Úc Denis Warner đã lên án Quốc Hội Mỹ cắt giảm viện trợ quân sự cho VNCH vào lúc cần phải gia tăng. Ông cho biết cả một tiểu đoàn QLVNCH bị tiêu diệt trong một trận đánh ở miền Tây sau khi bắn hết viên đạn cuối cùng.

Ở miền Trung, mỗi khẩu đại bác chỉ còn được cấp 4 viên đạn mỗi ngày, trong khi Cộng quân có khả năng nã vào các căn cứ quân sự miền Nam hàng ngàn quả đại pháo mỗi đêm.

Tác giả Mỹ Louis Ạ Fanning cũng viết như sau trong cuốn “Sự phản bội tại VN” (Betrayal in Vietnam): “Trong khi quân lính Bắc Việt được tăng cường chiến cụ thì quân đội Nam Việt Nam lại bị cắt giảm thật nhiềụ Trước kia, mỗi khinh binh đi hành quân tuần tiễu được phát mười trái lựu đạn, nay chỉ còn được phát có một trái”.

Những kẻ trói tay buộc chân người lính VNCH cũng chính là những kẻ đã kết tội người lính ấy “không chịu chiến đấu” trong khi cả “thế giới tự do” không hề có một lời lên án việc CSBV xé bỏ Hiệp Định Paris 1973, chiếm đoạt miền Nam bằng võ lực. Sự hèn nhát nầy đã bị nhà văn Nga lưu vong Solzhenitsyn coi là một sự vô đạo, vì ý chí tự vệ của phân nửa Âu Châu và ở 3/4 thế giới còn thua xa ý chí chiến đấu tự vệ của Nam Việt Nam, phần đất đã bị bỏ rơi với lời biện hộ “không thể bảo vệ những người không có ý chí để tự bảo vệ!”

Sự hèn nhát và vô đạo ấy đã làm thức tỉnh lương tâm một số người từng góp phần cổ võ cho CSBV xâm chiếm miền Nam, khi họ chứng kiến những trận đánh cuối cùng của một số đơn vị QLVNCH. Trong số nầy có 3 nhà báo Pháp Jean Larteguy, Jean Lacouture và Pierre Darcourt. Ba nhà báo nầy đã có mặt tại miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối của Saigon, có lẽ chờ đợi đón mừng “bộ đội giải phóng” để chứng kiến cái chết ô nhục của quân đội miền Nam mà họ đã phỉ báng trong suốt bao nhiêu năm. Nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, họ trở về Pháp, và đã làm cho cả thế giới ngạc nhiên với những gì họ viết ra.

Jean Larteguy ghi lại như sau khi tới thăm một đơn vị Dù cố thủ tại Sài Gòn:

“Thứ Hai 28/4/75.
Saigon sáng nay yên tĩnh...

Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong các khu vườn. Họ không buồn rầu, và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một cuộc thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau, và liệng cho nhau những chai Coca-Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu nầy. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon. Và những binh sĩ tuyệt vời nầy vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao.

Ông trả lời:

– Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người chót chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.

Sau khi Dương văn Minh đã tuyên bố đã đầu hàng. Lartéguy lại được chứng kiến tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị QDVNCH tại Saigon, và ghi lại như sau:

“Gần Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ Dinh Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan nầy khuyên họ nên ngưng chiến đấụ. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe. Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết”.

Lartéguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên Trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa. “Và trong những bộ đồng phục mới, giày chùi xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Chỉ còn thiếu có cái mũ diễn hành và đôi bao tay trắng”

Một đồng nghiệp của Lartéguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ quan:

– Các anh có biết là sắp bị giết chết không?

Một thiếu úy trả lời:

– Chúng tôi biết chứ.

– Vì sao?

– Tại vì chúng tôi không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản.

“…Các xe tăng đầu tiên của cộng sản vào Saigon từ phía Đông, qua tỉnh lộ Thủ Đức và Biên Hòạ.. Bộ binh thì tiến từ phía Bến cát và Tây Ninh. Tuy vậy, bọn nầy chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiềụ .Từ ngày hôm trước, các đơn vị cộng quân nầy dã bị chặn tại gần Hốc Môn, gần nơi có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của sư đoàn Dù trấn giữ, dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị cộng quân bị thiệt hại nhiềụ. Sau đó, chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon : một lần trước trụ sở Cảnh Sát Công Lộ; nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng cộng sản đè bẹp; lần thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê văn Duyệt, là nơi chỉ có 4 người lính dù võ trang đại liên và bazooka mà chiến đấu được trong 50 phút. Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi cho nổ một tràng lựu đạn tự sát.

Đến chiều tối, 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đêm để rút về đồng bằng.”

Darcourt cho biết đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.

Hai cái chết hào hùng khí phách của 2 vị tướng ưu tú của QLVNCH cũng được các nhà báo quốc tế chân chính thuật lại.

Nhà báo lão thành người Úc Denis Warner viết về cái chết của tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lịnh sư đoàn 5, như sau:

“…Trong buổi sáng ngày 30/4/75, sư đoàn 5 mất liê lạc với quân khu III tại Long Bình. Tư lệnh sư đoàn 5 là tướng Lê Nguyên Vỹ quyết định dùng mọi thứ xe cơ giới để tiến về Saigon. Toàn thể quân đoàn I của CS chận đánh đoàn xe của tướng Vỹ. Bị yếu thế về mọi mặt, đoàn xe ấy bị tiêu diệt. Tướng Vỹ hiên ngang tự sát”.

Về cái chết của tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh quân đoàn 4, ký giả Mỳ Alan Daeson thuật lại:

“…Tại Cần Thơ, tướng 3 sao Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh vùng 4 và đồng bằng Cửu Long, rốt cuộc đành chịu nhận là cuộc chiến đã hết, khi ông ta nghe thấy tướng Minh nói trên đài phát thanh. Là một trong các tướng lãnh cương quyết ở lại, tướng Nam đã chiến đấu cho đến phút chót…Ông ra lệnh cho các sĩ quan tham mưu của ông không được rời bản doanh.

Ông ta còn đích thân đi quan sát tiền tuyến nữạ. Ông ta đã bắn viên tỉnh trưởng Sa đéc ở ngay phía đông Cần Thơ, vì kẻ ấy nhất định đòi đi theo người Mỹ chạy trốn. Khi viên tỉnh trưởng Kiên Giang trái lệnh của tướng nam, và dùng tàu rời khỏi Rạch Giá để đi về phía Nam thì tướng Nam cho 3 chiếc trực thăng võ trang đuổi theo, rồi bắn chìm chiếc tàu ấy bằng đại liên và hỏa tiễn.

Tướng Nam chẳng có gì để phải hổ thẹn khi chiến đấu những ngày chót của một chiến binh. Ông đã thật sự dâng cuộc đời mình cho cuộc chiến đấu ấỵ Trong vòng 30 phút, sau khi tướng Minh ra lệnh đầu hàng trên đài phát thanh, tướng Nam kề khẩu súng lục cỡ 45 vào mồm rồi bóp cò. Ông ta chết ngay tại chỗ.”

Những trận đánh dũng cảm và những cái chết anh hùng trên đây là đoạn kết của một cuộc chiến bi tráng kéo dài trên 20 năm, trong dó theo viên tướng Pháp Vanuxem thì cứ mỗi 8 phút lại có một người lính VNCH hy sinh. Nhờ sự hy sinh ấy mà hơn 20 triệu người dân miền Nam được sống tự do trong 1/4 thế kỷ. Bao nhiêu cuộc đời êm ấm đã trôi qua trong thời gian ấy, bao nhiêu công danh sự nghiệp đã được “những con người may mắn” thủ đắc.

Và đây là cái “phần thưởng” mà xã hội miền Nam ngày trước đã đền đáp cho sự hy sinh của người lính sau mỗi cuộc hành quân, qua ngòi bút của Phan Nhật Nam:

“Người chồng không chết, và sẽ trở về. Người lính bơ phờ, gầy guộc, ngồi đếm đi đếm lại những tờ giấy bạc bằng những ngón tay cáu ghét, mơ ước bỗng nhiên xấp bạc trở thành nhiều hơn, một giấc mơ nhẹ nhàng, quên được cảnh đời với đôi chân lội ngập trong bùn, những tờ bạc có được sau 30 ngày đo chân bờ ruộng, trong rừng sâu, trên những cồn cát, 30 đêm ngủ võng, nằm hầm, mắt mở lớn sau một lớp cỏ ướt sương, và toàn thân ngâm chặt dưới nước bùn lạnh giá. Những tờ bạc chỉ đủ mua một phần gạo cho một người đàn bà và 4 đứa con trong tháng”.

Đó là người lính không chết. Nếu người lính chết, thì đây là thân phận vợ con người lính:

“Người lính chết, chết là hết, nhưng không bao giờ hết cho người vợ lính. Không hết cho một chuỗi ngày tháng dài đăng đẵng sau lưng, cùng với một lũ con nheo nhóc; những đứa bé sẽ lang thang trên các đống rác chất ngất được đổ từ những chiếc xe nhà binh Mỹ; thằng bé sẽ mặt cái áo dài của bố nó, dài đến tận đầu gối, tóc rối, mắt khô, chân tay là những rễ cây khẳng khiụ.. Những người vợ lính, và đứa con lính sẽ dự phần vào cuộc đua khốn nạn, dấu chân trần sẽ vượt thật nhanh trên những chiếc hộp sắt bóng loáng, hay sét rỉ…”

Cuộc chơi rõ rệt không công bằng, nhưng nguời lính VNCH vẫn miệt mài chiến đấu và hy sinh. Cho đến khi hoàn toàn bị trói tay. Cuộc chơi tàn. Nhưng người lành lặn bị lùa vào các trại cải tạọ. Đui, què, mẻ sứt…không còn được ai nhắc tới, biết tới. Những người chết không yên, mồ mả bị đào xới lăng nhục.

Bốn mươi cái 30/4 đã trôi qua, hào quang của những kẻ đã chiến thắng nhờ sức mạnh súng đạn ngoại bang đã tắt lịm trong cái xã hội cực kỳ thối nát. Bao giờ lương tâm mới thức tỉnh trong những con người vẫn còn muốn ném bùn vào nét chân dung của người lính VNCH?




__o0o___



(Tác giả: Sơn Tùng. 4/2015)



https://youtu.be/aRsibJftlDY

XXG
05-07-2021, 06:42 PM
"Số 11 Nguyễn Bỉnh Khiêm"...



___Tặng anh HV, anh THN, anh SĐ phút 1:01 của clip video dưới đây.



https://youtu.be/xzIIUZiTPl0

XXG
05-07-2021, 06:51 PM
___Những tờ lịch cũ....





Thứ Sáu tuần trước là ngày "30/4."

Hôm nay cũng Thứ Sáu, nhưng lão Thời Gian đã đếm được 7 lần chữ "ngày" của Tháng Năm dương lịch...

Lại thêm một tờ lịch tháng đã được gỡ xuống. Và vâng, ”tháng" cũng là đơn vị đo thời gian dài nhất trên cuốn lịch. Trong đời người, có những tờ lịch cho dù đã được gỡ xuống rồi nhưng vẫn mãi mãi nằm trong tiềm thức của mình như một tờ lịch mới.

Mới, cho đến khi mình đang đưa tay gỡ đi những tờ lịch cuối cùng của cuộc đời...

............ Mới, cho đến khi tờ lịch cuối cùng được gỡ xuống.


"NHỚ"

Nhớ thời thơ ấu - nhớ gì không?
Nhớ tuổi thơ qua - có xót không?
Nhớ bóng Cha già nay đã khuất
Nhớ vòng tay Mẹ
............... có buồn không?
__________o0o_________


"BUỒN"

Buồn, đếm thời gian - có hết không?
Buồn, nhìn hoa tuyết - có vơi không?
Buồn về một chốn tên Quê Mẹ
Buồn giữa màn đêm
........................ có khác không?
___________o0o__________


"ĐỔI"

Đổi áo cho tim, đổi được không?
Đổi vùng kỷ niệm lấy hư không?
Đổi bao nhung nhớ thành vô vọng
Đổi vết thời gian có dễ không?
__________o0o____________


"THAY" & "XOÁ"

Thay áo cho tim có khác không?
Xoá vùng kỷ niệm có quên không?
Thay bao lưu luyến sao còn nhớ?
Xoá vết thời gian.............
............. sống mãi không?
__________o0o_________
(XXG__)


Như một cái chớp mắt mà đã 46 lần Tháng Tư. Một tờ lịch Tháng Tư khác lại được gỡ xuống từ cuốn lịch của năm 2021. Để rồi năm sau (2022) và những năm sau nữa, chúng sẽ trở thành "những tờ lịch cũ"... nhưng lời Bố dạy thì vẫn (và sẽ) mãi mãi "mới" như hôm nào:

- "Đừng bao giờ trở về chốn ấy cho tới khi nào ngọn cờ Máu không còn hiện hữu trên quê hương. Đừng bao giờ hạ mình đứng dưới ngọn cờ khốn nạn đó..."

XXG
05-07-2021, 09:12 PM
.

(Bài thơ không đề tựa)

tháng Tư hộc máu . quay cuồng gió
trời đất tanh ngòm cả tứ phương
lịch sử chết rồi . chưa kịp táng
dòm nhau an ủi . điệu kèn tang

cười cợt . nhe răng bầy dã thú
quây quỷ quần ma chễm chệ ngồi
có một tháng Tư . tờ lịch cũ
gỡ rồi . dán lại . phất phơ bay...

___(Thăng Trầm)__

XXG
05-07-2021, 09:16 PM
.
Cho Tao Chửi Mày Một Tiếng___

“Đ M!" cho tao chửi mày một tiếng
Đất của Ông Cha sao mầy cắt cho Tàu
Ngậm phải củ gì mà mầy cứng miệng
Đảng của Mầy, chết mẹ… đảng tào lao.

Chế độ mầy vài triệu tay cầm súng
Cầm súng làm gì chẳng lẽ hiếp dân
Tao không tin lính lại hèn đến thế
Lại rụng rời trước ách ngoại xâm.

Mầy vỗ ngực "Anh hùng đầy trước ngõ"
Sao cứ luồn, cứ cúi, cứ van xin?
Môi liền răng,
....... à thì ra vậy đó!
Nó cạp mầy, mầy thin thít lặng thinh.

Ông Cha mình bốn ngàn năm dựng nước
Một ngàn năm đánh tan tác giặc Tàu
Thân phận mầy cũng là Lê là Nguyễn
Hà cớ gì… mầy hèn đến thế sao.

Chuyện mầy làm toàn dân đau như thiến
Mầy chết rồi, tao nghĩ chẳng đất chôn
Hãy tỉnh lại ôm linh hồn sông núi
Cứ đà nầy… chết tiệt còn sướng hơn.

Đàn gảy tai trâu… xem chừng vô ích
Giờ mầy nghe tao chửi còn hơn không

__(Trạch Gầm)__

XXG
05-08-2021, 08:00 PM
Vỗ Tay Trong Tù

Ta viết bài thơ không ngày không tháng
Vì ở đây không tháng cũng không ngày
Giả khùng điên ta lần qua cửa ải
Ải hận thù xiềng xích cả đắng cay

Còn hơi thở, ta còn nghe nói láo
Mỗi một câu nghe đến trăm ngàn lần
Thằng nói láo không biết mình nói láo
Đầu không khùng ta chết mất phải không

Tội của ta – với nó – không bao giờ xiết
Bút, tre Trường Sơn. Mực, nước Biển Đông
Nó ngồi viết… từ đời ông tổ nó
Giấy kể tội ta dài hơn Cửu Long

Kệ mẹ nó, nó nói gì nó nói
Ở tù lâu – chai – ta lại thấy vui
Thằng Phạm Tuân nằm trên mây phục kích
Chờ giặc Mỹ vào nhào xuống. Vỗ tay!

Hồi mới vào tù nó vỗ tay trước
Ta vỗ tay sau… góp vốn góp lời
Được vài năm quen…ta vỗ tay trước
Nó vỗ tay sau… mới thật tức cười

Cứ như thế… ta không ngày không tháng
Biết ngày biết đêm…
.......... nhờ có mặt trời

__(Trạch Gầm)_

XXG
05-08-2021, 08:03 PM
Theo mưa đến thăm cà phê lính...

Giọt mưa Cali rớt vào ký ức
Lăn hồn ta về với núi với rừng
Gặp lại anh em tháng ngày thao thức
Hể hả cười, cùng khói lửa rưng rưng

Một ngày Phước Long có thằng gào thét
Đánh đấm cả đời mất mẹ Quê Hương
Một ngày Dakto có thằng bật khóc
Thương đám bạn bè trắng núi phơi xương

Lịch sử sang trang lật bằng nước mắt
Thương giọt mồ hôi nhỏ xuống quân trường
Nơi đã bàn giao tám tuần huấn nhục
Đâu có giao ngày mất nước tan thương

Giọt mưa Cali rơi vào quán lính
Vẹt gót tha phương hôn gót phong trần
Thằng Anh thằng Em một trời lận đận
Khẩu lệnh "Tan Hàng, Cố Gắng!"... nhớ không ?

Làm lính một ngày, thằng nào cũng nhớ
Có đứa cả đời giờ lại muốn quên
Xoay giọt Cà Phê vòng Tăng Nhơn Phú
Có bài học nào…
............ lủi trốn Anh Em

(Trạch Gầm__Ngày mưa 30.11.14)

XXG
05-08-2021, 08:10 PM
Tâm Sự Cùng Con
(Viết thay cho Cao Sơn SĐ5)

Ngày cha dẫn con đi, bỏ Nước
Cha an ủi mình, lý lẽ nhỏ nhoi
Cuộc đời cha – ừ vứt đi cũng được
Mong cho con – tìm thấy được tương lai

Thế hệ cha…
........... tưởng chừng không tồn tại
Tuổi hai mươi đã đứng giữa chiến trường
Dao chủ nghĩa chặt đôi bờ Bến Hải
Lũ vô thần tắm máu cả quê hương

Con thôi nôi, cha mờ trời An Lộc
Đọc nhớ thương giữa xác chết bạn bè
Nước mắt mẹ nhạt nhòa trang thư viết
Túy ngọa sa trường...
Lắm lúc tái tê

Khi con vừa biết đòi nghe kể chuyện
Cha lại vào tù…
............ ôn chuyện đau thương
Nước mất, nhà tan,
........ nghiền đời chinh chiến
Giữa chợ đời…
Mẹ trả nợ máu xương

Giờ con đã có dư thừa mơ ước
Cha chỉ mong con ghi nhớ một điều
Con chẳng bao giờ thay màu da được
Màu da vàng của nước Việt mến yêu

__(Trạch Gầm)__

XXG
05-08-2021, 08:20 PM
__Ngày mai, sẽ là (lần) Chủ Nhật thứ hai của Tháng Năm (the second Sunday of May) và cũng là "Ngày Của Mẹ."*

Như một lời chúc mừng đến những ai vẫn còn mẹ và những cô/chị hiện đang là mẹ, XXG xin đăng lại bài thơ "Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười" của tác giả Trần Trung Đạo. Bài thơ này cũng đã được nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ thành một nhạc khúc với cùng tựa đề.



"Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười"

(Tác giả: Trần Trung Đạo)

Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi
Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi

Buổi ấy con đi chẳng hẹn thề
Ngựa rừng xưa lạc dấu sơn khê
Mười năm tóc mẹ màu tang trắng
Trắng cả lòng con lúc nghĩ về

Mẹ vẫn ngồi đan một nỗi buồn
Bên đời gió tạt với mưa tuôn
Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương

Tiếng mẹ nghe như tiếng nghẹn ngào
Tiếng người hay chỉ tiếng chiêm bao
Mẹ xa xôi quá làm sao vói
Biết đến bao giờ trông thấy nhau

Đừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ dấu trong thơ
Đau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ

Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi
Ví mà tôi đổi thời gian được
Đổi cả thiên thu tiếng mẹ cười
_____o0o____
(Trần Trung Đạo)




https://youtu.be/dUTCo6EGBX8



*XXG thích dùng "Ngày của Mẹ" hay "Mother's Day" thay vì dùng (nửa Việt, nửa Hán Việt) là "Ngày Từ Mẫu."

XXG
05-15-2021, 11:13 AM
__Bài viết dưới đây, của tác giả Phạm Thanh Nghiên đã được giải Nhì trong lần dự thi chương trình "Như Chỉ Mới Hôm Qua – Ký Ức 30 Tháng Tư" do tuần báo Saigon Nhỏ tổ chức.


o0o


Chuyện nhà chồng tôi – một bi kịch không hồi kết sau ngày "kết thúc" tiếng súng chiến tranh.


(Phạm Thanh Nghiên)


Lời Toà Soạn: Với những ai quan tâm đến hoạt động đấu tranh dân chủ và nhân quyền cho Việt Nam, Phạm Thanh Nghiên không là cái tên xa lạ. Cô đã và vẫn là “đối tượng” được nhà cầm quyền Việt Nam xếp vào cái gọi là thành phần “phản động.” Cô đã bị cướp mất tự do với những năm tháng trong tù và cô đã bị cướp mất nơi ăn chốn ở khi căn nhà của cô ở vườn rau Lộc Hưng bị đập phá tan nát. Nước mắt đã chảy trên khuôn mặt hằn khổ đau của Nghiên không biết bao nhiêu lần.

Bi kịch của Nghiên chưa dừng lại. Và nó không chỉ là bi kịch đối với cá nhân cô. Dưới đây là những gì cô Nghiên vừa kể thêm, gửi riêng cho Saigon Nhỏ. Xin trân trọng giới thiệu…


__o0o__


“Mày có biết cái này là cái gì không?”

Sáng ngày 30 Tháng Tư, 1975, gia đình ông Huỳnh Kim Sơn cả thảy 11 người đang ở trong nhà thì nghe tiếng ồn ào ngoài đường Phạm Thế Hiển. Ông Sơn là một thiếu úy cảnh sát, làm việc tại quận 8 thuộc lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia VNCH. Mặc dù ông đã dặn các con, các cháu không đứa nào được ra khỏi nhà, nhưng cậu bé Tú, khi ấy mới bảy tuổi, con trai thứ ba của ông vẫn rình lúc ông không để ý, rón rén mở cổng vọt ra ngoài. Từ nhà ông Sơn ra đường Phạm Thế Hiển đâu khoảng dăm trăm mét.

Cậu bé Tú thấy họ, những người mặc áo xanh, đội nón cối, đông lắm. Lớp thì đi bộ, lớp ngồi trên xe lam. Ai cũng vác theo súng. Có người còn mang cả cành cây cắm trên balo nữa. Cậu bé chưa từng chứng kiến cảnh tượng như thế tại Sài Gòn. Họ reo hò, la hét và ca hát vang cả phố phường, đại loại như: “Tiến về Sài Gòn ta quét sạch giặc thù,” “Sài Gòn đây rồi,” “Đập tan bè lũ ngụy quân ngụy quyền”… Đó cũng là lần đầu tiên Tú nghe đến cái tên Hồ Chí Minh phát ra từ giọng nói rất khác của lũ người xa lạ kia.

Tú không phải đứa trẻ duy nhất hiếu kỳ đứng xem. Lũ bạn cùng xóm chen chúc trong đám đông, mắt ngơ ngác, láo liên nhìn ngó. Có mấy cái bàn ai đó đã kê sẵn trên vỉa hè từ bao giờ, đặt những thùng bìa các-tông. Trong các thùng bìa ấy là những lá cờ xanh đỏ, không giống như lá cờ vàng ba sọc đỏ quen thuộc treo ở trụ sở cảnh sát, nơi ba của Tú làm việc, hay ở trường học mà cậu vẫn nghiêm trang giơ tay chào mỗi Thứ Hai đầu tuần.

Những nhóm người mặc áo xanh, đội nón cối hoặc đeo khăn rằn, vai mang súng bắt đầu đi phát cờ cho mọi người. Họ phát cả cho bọn con nít. Tú cũng được một cái. Cậu bé Tú mang lá cờ xanh đỏ ấy về, vừa đi vừa nhảy chân sáo. Mới bước vào nhà, chưa kịp khoe với ai thì ông Sơn đã giật phắt lá cờ trên tay thằng con, ném nó xuống đất rồi lấy chân giẫm lên. Vợ ông tái mặt, vội chạy ra cổng xem có ai đi ngang qua không. Tú ngơ ngác, tim đập thình thịch tưởng là sẽ bị ăn đòn can tội trốn đi chơi.

-Mày có biết cái này là cái gì không mà tha về đây?

Ông Sơn rít lên, cố nén cơn tức giận. Giẫm giẫm mấy cái cho bõ ghét rồi nhặt lên, vo viên lá cờ giấy trong tay trước khi mang xuống bếp, châm lửa đốt. Mới bảy tuổi, Tú chưa đủ khôn để biết chuyện gì đang xảy ra. Nhưng cậu bé đã lờ mờ cảm nhận về những điều bất thường đang đến với gia đình mình. Thảo nào mấy bữa nay ba không tới nhiệm sở, các anh chị em Tú cũng không đi học.

Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, giống như các quân nhân cán chính chế độ VNCH, ba và ông ngoại của Tú đều phải đi “học tập cải tạo,” nghĩa là đi tù. Cả ba và ông ngoại của cậu đều là sĩ quan cảnh sát với cấp bậc thiếu úy, do đó bị chính quyền mới liệt vào thành phần “ác ôn.” Ông ngoại Phạm Văn Vinh từng là “trưởng ban Tình Hình Ban Chỉ Huy Cảnh Sát Quận 4,” một chức vụ thuộc bên tình báo. Cậu bé Tú còn nhớ, hàng ngày ông ngoại đi làm đều có xe của nhiệm sở đến đưa đón. Ông ngoại Phạm Văn Vinh bị lưu đày ba năm ở nhà tù Hàm Tân. Trong Giấy Ra Trại mà nhà tù Cộng Sản cấp cho ông có ghi rõ: “Họ tên: Phạm Văn Vinh, sinh năm 1922. Trú quán tại: số 3 Cư Xá, Bến Vân Đồn, quận 4. Số quân, cấp bậc, chức vụ trong bộ máy chính quyền, quân sự và các tổ chức chính trị phản động của chế độ cũ: Thiếu úy, trưởng Ban Tình Hình B.C.H.C.S quận 4.”

Cơn thảng thốt của ngày 30 Tháng Tư

Ông Huỳnh Kim Sơn may mắn hơn nên chỉ đi tù vài tháng rồi được tha, do từng cứu mạng một viên cán bộ Cộng Sản Bắc Việt. Đó là một cuộc cứu mạng “bất đắc dĩ” xảy ra vào năm 1972. Một tên Việt Cộng bị cảnh sát truy đuổi, trong lúc cấp bách đã chạy vào nhà ông trốn. Lúc cảnh sát ập vào, họ hỏi bà Kim Anh – vợ ông Sơn – xem có người lạ nào chạy vô không. Bà Kim Anh, khi ấy đang mang bầu người con thứ tư, dù sợ hãi nhưng vẫn cố trấn tĩnh, trả lời gọn lỏn một câu “không!” Vừa lúc ông Sơn ở nhiệm sở về tới nhà, trên người vẫn mặc sắc phục. Vì nể đồng nghiệp nên nhóm cảnh sát chỉ khám xét qua loa rồi bỏ đi. Bà Kim Anh vội ra đóng cổng, rồi trở lại vào trong nhà, lắp bắp nói với chồng “ổng… ổng… trong hồ nước”. Ông Sơn chết lặng người. Ông chạy ra sau nhà, thấy người đàn ông kia đang lóp ngóp từ trong bể nước ngoi lên. Bị vợ đặt vào “sự đã rồi,” ông không còn lựa chọn nào khác là phải thuận theo. Nếu kêu cảnh sát tới, vợ ông sẽ mang tội che giấu Việt Cộng, mà thả đi cũng không cam lòng. Bà Kim Anh van lơn: “Em sắp sinh con, thôi thì mình làm phước cứu một mạng người. Để đức để phúc cho con sau này.”

Trước khi đi, viên cán bộ Việt Cộng quỳ xuống, lạy hai vị ân nhân cứu mạng. Rồi ông ta đưa cho ông Sơn mảnh giấy, có ghi chép ký hiệu gì đó, dặn rằng nếu sau này có bề gì, tìm ông ta sẽ trả ơn. Đúng như lời đã hứa trước đó ba năm, viên cán bộ Cộng Sản trả ơn cho ông thật. Ông Sơn thoát cảnh tù đày, nhưng không thoát được cơn đau mất nước, không thoát được cảnh sống bị bủa vây với vô vàn tủi hờn, căm hận. Và chính đứa con còn trong bụng mẹ ngày nào, cái cớ để vợ ông lấy đó mà tha cho viên cán bộ nọ, 42 năm sau đã chết thảm trong tay nhà cầm quyền Cộng Sản.

Trí chết sau khi vừa mới kết thúc 14 năm dài bị cầm tù. Cái “phúc” mà ông bà Sơn tạo dựng cho con, không lớn bằng cái “họa” của “bên thắng cuộc” giáng xuống gia đình họ.

Những gì tôi vừa kể là một phần câu chuyện diễn ra trong và sau ngày 30 Tháng Tư, 1975 của gia đình chồng tôi, anh Huỳnh Anh Tú, do chính anh kể lại. Tất nhiên, ngày ấy anh Tú còn nhỏ nên có chuyện anh nhớ được, có chuyện phải hỏi lại ba anh. Chuyện nhà chồng tôi, không chỉ có thế. Nếu viết đủ, theo trình tự thời gian, nó sẽ là một cuốn sách dày, đẫm nước mắt. Cuộc “giải phóng” của người Cộng Sản miền Bắc không chỉ khiến gia đình anh Tú lâm vào cảnh khốn cùng, nó còn khởi đầu cho những rạn nứt, ly tán và nhiều biến cố đau thương sau này. Số phận của gia đình chồng tôi, của ba má, của từng anh chị em bên chồng là những câu chuyện buồn trải dài trong suốt cuộc đời mỗi người. Đó là câu chuyện của một gia đình trong hàng vạn gia đình miền Nam khác đã bị một thứ “nhân mệnh” giáng xuống khi cơn thảng thốt của cái ngày 30 Tháng Tư còn chưa kịp cất lời.

Ly tán trong cái gọi là nền “hòa bình” mới.

Bi kịch của gia đình chồng tôi, của cả dân tộc này suốt 46 năm qua vẫn chưa chấm dứt. Gốc gác VNCH (người Cộng Sản gọi là “ngụy quân, ngụy quyền”) như một dấu gạch chéo trên gương mặt, ký hiệu để nhận biết về một hạng người phải bị loại trừ, phải bị vùi dập, phải bị khinh ghét dưới cái gọi là “chế độ XHCN.” Sau năm 1975, ba má chồng tôi phải bán dần bán mòn tài sản, của cải để lấy tiền nuôi các con. Đầu tiên bán nữ trang, rồi bán xe, sau đó bán nhà. Dần dà không còn thứ gì có thể bán ra tiền. Sau gần 20 năm làm lụng cực nhọc, cố gắng đến kiệt lực vẫn không ngóc đầu lên nổi, gia đình chồng tôi lần lượt vượt biên sang Cambodia, rồi Thái Lan.

Duy nhất có một người chị ở lại Sài Gòn. Sau này, trong thời gian sống bên Thái Lan, chồng tôi cùng anh trai là Tuấn và em trai là Trí đều tham gia một tổ chức chống Cộng. Năm 1999, trong lần nhận nhiệm vụ về nước, chồng tôi và Trí bị bắt, mỗi người bị kết án 14 năm tù. Trong thời gian ở tù, Trí bị nhiễm bệnh AIDS – hậu quả của những lần bị cùm chân có dính máu, thịt của người tù bị cùm trước. Ra tù được sáu tháng, Trí chết. Một cái chết đầy đau đớn, oan khuất và tức tưởi. Sau khi chồng tôi và Trí bị bắt, anh Tuấn mất tích. Một số người hoạt động cùng anh nói rằng anh bị Việt Cộng giết. Vài năm sau khi anh Tuấn chết, vợ anh cũng qua đời để lại đứa con mồ côi cho cô Trang, em chồng tôi nuôi dưỡng. Má chồng tôi bị bệnh tiểu đường, do không đủ tiền thuốc thang nên bà qua đời tại Thái Lan năm 2010, khi anh Tú và Trí thụ án được 11 năm. Lúc còn sống, má chồng tôi bị cưa hai chân do bị hoại tử. Sau thời gian sống ở Thái Lan, ba chồng tôi lưu lạc sang Malaysia, thỉnh thoảng qua Thái Lan thăm má. Em chồng tôi lập gia đình, sinh được ba đứa con nhưng khi đứa út còn nhỏ, chồng cô ấy bạo bệnh rồi qua đời.

Sau khi lấy anh Tú, tôi những muốn đón ba chồng tôi về ở hẳn Việt Nam để thuận tiện cho việc phụng dưỡng. Ở trọ cũng được, khi nào có đủ tiền thì xây nhà. Ba tôi chấp thuận. Ông đặt vé về Sài Gòn vào ngày 9 Tháng Hai, 2017, nhưng buổi chiều hôm trước, mồng 8 Tháng Hai, ông đột ngột qua đời tại Malaysia. Vuốt mắt cho ông cũng là một người lưu vong khác. Tháng Tư, 2016, khi chúng tôi chuẩn bị làm đám cưới, người em trai út của anh Tú đã hẹn sẽ về tham dự vì nhiều năm rồi cậu ấy chưa trở lại Việt Nam. Nhưng rồi lại là một giấc mơ không thành khác. Trước đám cưới chừng một tháng, chúng tôi nhận được tin Quốc bị tai biến. Suốt mấy năm nay, Quốc phải ngồi xe lăn, không thể đi làm kiếm tiền nuôi con. Mọi gánh nặng đổ dồn lên cô Trang, em gái chồng tôi.

Anh Tú kể, từ năm 1981 cho đến mãi về sau, gia đình anh chưa bao giờ có một ngày sum họp kể cả vào những sự kiện trọng đại nhất của đời người như cưới hỏi, tang chế. Cả ba và má đều chết trên xứ lạ quê người mà con cháu không thể đến tiễn đưa, vĩnh biệt. Anh Tú lấy tôi, lại cũng là một người tù, một kẻ “phản động” theo cách kết tội của nhà cầm quyền. Thỉnh thoảng tôi nói đùa “vợ chồng mình tiền án nhiều hơn tiền mặt.” Và “nếu xét theo bên ngoại, bé Tôm là Cộng Sản con. Xét theo bên nội, nó mang gốc gác ‘ngụy quân ngụy quyền.’” Tôm có ba mẹ, có chú đều là tù nhân chính trị dưới chế độ Cộng Sản. Tức là nhà tôi vừa có tù anh, tù em, tù vợ, tù chồng, vừa có tù em, tù chị, đủ cả. Nếu nhắc thêm sự kiện nhà tôi ở Vườn Rau Lộc Hưng bị đập, thì bé Tôm cũng là một “dân oan nhí.” Vợ chồng tôi vừa là cựu tù chính trị, kiêm luôn danh hiệu bất đắc dĩ “dân oan.” Số phận cứ buộc chúng tôi vào cảnh ngộ éo le, bi đát.


o0o


Khi viết những dòng này, vào dịp Tháng Tư, năm 2021, chồng tôi vẫn là một người vô tổ quốc, vẫn phải sống lưu vong trên chính quê hương ruột thịt mình. Từ khi ra tù vào Tháng Mười Hai, 2013, anh Tú vẫn không có nổi một mảnh giấy tờ tùy thân. Gia đình tôi vẫn tiếp tục sống, cuộc sống của những phận người Việt với điệp trùng khốn khó, hiểm nguy vây bủa. 46 năm là một khoảng dài trong đời người, vậy mà nỗi đau cứ như vừa mới hôm qua. Làm sao quên được khi thế lực tà ác thay vì sám hối, lại reo rắc tư tưởng thù hận, vùi dập nạn nhân tới tận cùng của mọi nỗi đau. Nạn nhân nào có phải vài chục con người, đấy là triệu triệu con người. Biết bao giờ đất nước này mới thay da đổi thịt, người người mới biết ăn năn?

Cưu mang nỗi đau quá khứ không phải để thù hận, mà để nuôi dưỡng ước vọng tương lai. Tương lai cho gia đình bé nhỏ của tôi. Tương lai cho người Việt.

(Phạm Thanh Nghiên__Sài Gòn, Tháng Tư, 2021)

XXG
05-19-2021, 10:02 PM
https://i1.wp.com/batkhuat.net/images/tuong-tiecThuong2.jpg?zoom=2

Một Ngày...

Một ngày, tượng đá buồn rơi lệ
Gục ngã âm thầm trước nghĩa trang
Bao năm xương máu dâng Tổ Quốc
Bỗng đâu, một phút hoá tro tàn

Một ngày, oan nghiệt trùm tâm khảm
Khắp dải sơn hà khoác áo tang
Giọt lệ anh hùng sôi ngục đỏ
Quê hương tôi đấy,
................. cõi lầm than!

Một ngày, cúi lượm tuổi thơ rơi
Tìm chữ tương lai tựa bóng mờ
Đã biết bao lần nơi biển vắng
Trông về quê Mẹ
...................... ngỡ rằng mơ

Một ngày, đếm nhịp với thời gian
Thoáng chốc mà nay đã nửa đời
Viết nốt vần thơ mùa Quốc Hận
................ Để nghe
....... vị đắng
................. vướng theo lời
__(XXG__ 4.2017)__




___Tác giả bức tượng Thương Tiếc nay ở tuổi gần 90, xế chiều hiu hắt__
(Bài viết của Tuấn Khanh)

Trên các trang mạng, những người yêu mến điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, yêu mến một kỷ niệm đẹp của VNCH đều nhắc nhau nên sớm ghé thăm ông. Người đã tạo bức tượng Thương Tiếc vang bóng một thời của nghĩa trang quân đội Biên Hòa, nay đã 90 tuổi, nhớ nhớ, quên quên và như cũng đã quá mệt mỏi với một cõi tạm đầy những nhọc nhằn với ông.

Sinh năm 1934 tại Gò Vấp, Sài Gòn, điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu tốt nghiệp trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định và sau đó qua động viên, tham gia ngành quân nhu, rồi trở thành Đại Úy, phục vụ Tại Cục Chiến Tranh Chính Trị. Trong cuộc đời mình, điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu đã tạo ra vô số tác phẩm, nhưng đắc ý và được nhiều người biết đến nhất, là tượng Thương tiếc, đặt tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa, và bức thứ hai là tượng An Dương Vương, đặt ở Ngã Sáu Chợ lớn. Cả hai đều khánh thành vào năm 1966.

Lúc này thì ít ai nhận ra điêu khắc gia lừng danh của miền Nam tự do cũ, do ông ít bạn bè, trí nhớ không còn sắc bén và một phần khác, quá trình đi tù sau 1975, bị đánh đập nên ông bị hư hại thính giác. Gặp ông lúc này ở nhà riêng tại Nguyễn Thượng Hiền, Gò Vấp, nói gần như hét vào tai thì ông mới hiểu hết ý của người đối thoại.

Những người thân, quen biết nói ông vẫn còn bị PTSD với những năm tháng tù đày, tức Dư chấn tâm thần, dẫn đến trạng thái bất thường, hoảng sợ từ một biến cố hay giai đoạn có sức ám ảnh, nên nếu chạm vào người ông bất ngờ, hoặc nâng dìu mà không báo trước, đều làm ông giật mình, hay hoảng hốt.

Hiện điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu sống cùng sự chăm sóc của các con. Nơi cư ngụ của ông, số 176 Nguyễn Thượng Hiền, phường 1, Gò Vấp, là quán cà phê Tượng Đá, nơi có đặt nhiều tượng mà ông sáng tác lâu nay. Căn phòng nhỏ của ông nằm nép sau quán cà phê, là nơi trú ẩn hết sức cô đơn của ông cùng kỷ niệm. Người quen cũng thấy ông lặng lẽ làm lại mẫu tượng Thương tiếc thu nhỏ, đặt trong phòng, chỉ chia sẻ với ai quen biết. Đây cũng là một trong những điều gây đau đớn tinh thần của ông: Sau 1975, chính quyền mới cho người lập tức đến Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa kéo đổ bức Thương Tiếc, sau đó đập nát để thỏa lòng căm thù. Nhưng vẫn chưa đủ, ít lâu sau đó, theo chỉ điểm của giới nằm vùng, một nhóm bộ đội và băng đỏ cầm AK-47 đến tận nhà ông, đem mẫu tượng ban đầu (khuôn gốc) đập và chửi bới, đánh đập cả ông.

Vì tượng đài An Dương Vương ở Ngã sáu Chợ Lớn là tượng một danh nhân của lịch sử Việt nên dù có ghét bỏ tác phẩm của Nguyễn Thanh Thu, chính quyền mới cũng khó lòng thẳng tay hủy hoại. Họ chỉ để nguyên vậy, không tu sửa sau nhiều chục năm với ý đồ rất rõ là đợi có hư hại, là lập tức cho phá, mang đi. Đó cũng là trường hợp của tượng đài Trần Nguyên Hãn trước chợ Bến Thành.

Và vì sao phải vậy? Bởi tượng Trần Nguyên Hãn được coi là thánh tổ của truyền tin quân lực VNCH, còn tượng An Dương Vương là biểu tượng của công binh VNCH.

Nhưng điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu không chỉ là người làm tượng. Được tổng thống Nguyễn Văn Thiệu yêu cầu đi Phi Luật Tân để tham khảo một nghĩa trang chiến binh mà người Phi rất tự hào, ông Thu quay về và đưa ra đề án xây Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa, để thay thế cho nghĩa trang ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp, vào đầu những năm 60, thế kỷ 20, đã bắt đầu chật chội.

Điều lạ thường của chuyện bức tượng Thương tiếc, là khi đã có đủ 7 bản ký họa mẫu, phác thảo dự trù cho bức tượng tiêu biểu trước nghĩa trang, hình ảnh của anh hạ sĩ lính nhảy dù Võ Văn Hai ngồi nói chuyện hư không với một người bạn tử trận của mình trong một quán nước, vô tình đập vào mắt của ông Thu, khiến ông ngẫu hứng ghi lại, day dứt với nó...

Khi trình các đề án lên tổng thống Thiệu, ông Thu đã xin lỗi khi bày ra tờ giấy lót trong gói thuốc lá, có vẽ chì vội sơ sài, và nói rằng xin lỗi vì mình vừa mới làm. Ông kể lại là lúc đó, tổng thống Thiệu hỏi ông “Bản nào anh đắc ý nhất?”, ông Thu nói mình bị ám ảnh về hình ảnh ông phác họa từ hạ sĩ Võ Văn Hai. Sau đó ông và tổng thống Thiệu đã cùng chọn cái tên Thương tiếc cho bức tượng này.

Để hoàn thành toàn bộ bản vẽ chính xác cho Thương tiếc, hạ sĩ nhảy dù Võ Văn Hai đã ngồi làm mẫu cho ông Nguyễn Thanh Thu chỉnh đi, sửa lại từng nét một suốt ba tháng. Khởi đầu năm 1966, tượng được thực hiện bằng bê-tông, cốt sắt, đến năm 1969, được thay đổi bằng đồng. Tượng cao 4m, nếu tính cả mô đất dưới chân người lính và bệ tượng thì chiều cao của tượng đài là 8m. Tác phẩm này, điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu nhận giải đặc biệt của Tổng tư lệnh tối cao Quân đội VNCH vào tháng 8, năm 1968.

Sau năm 1975, ông Thu trở thành nơi trút hận thù của các cán bộ trại tù cải tạo. Chỉ là người sáng tạo điêu khắc nhưng ông phải trải qua 8 năm tù ở trại Hàm Tân. Ông Thu kể rằng trong đó, ông có 22 tháng nhốt biệt giam và đánh đập tàn nhẫn ngày này qua tháng nọ. Khi ông lên tiếng hỏi vì sao ông bị tra tấn dã man như vậy, thì cán bộ vừa đánh vừa nói “Tội của anh là lưu lại cái tư tưởng, cái hình ảnh, cái tinh thần đó mới là quan trọng. Anh đừng nghĩ đến chuyện trở về nhé”.

Những ngày tháng bỏ đói với vô số những trận đòn thù đã làm cho tai ông điếc và cơ thể chỉ là da bọc xương. Cũng có lúc ông đã bị mang ra trường bắn lúc 4 giờ sáng, bịt mắt lại, nhưng không hiểu sao lại có thay đổi vào giờ cuối, cho mang về nhốt lại. Đến ngày ông được thả về, người nhà mô tả là ông phải có người vác đi, vì không tự đi nổi.

Trước đó, khi cán bộ yêu cầu ông viết đơn xin khoan hồng và đổ tội hết cho chế độ cũ chứ ông không tự mình tạo ra những tác phẩm điêu khắc của quân đội. Ông Thu kể rằng lúc đó ông đã đuối sức lắm, chỉ còn thều thào nói được là “Tôi tạo ra, tượng chết thì tôi chết theo”. Một viên cán bộ tức giận nhào tới tát vào hai bên tai của ông. Những cú tát chí mạng khiến máu mũi và máu tai ứa ra, điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu điếc gần như toàn phần từ đó.

Ông Nguyễn Thanh Thu có tham gia chương trình đi H.O của sĩ quan bị cải tạo. Ông ở Mỹ gần 10 năm, nhưng loay hoay vì nhớ nghề điêu khắc mà không thể nào nối lại được, sức khỏe thì suy sụp mà quá cô đơn với tâm hồn nghệ thuật của mình, nên sau đó ông về lại Việt Nam, sống với con, lặng lẽ tạo ra những bức tượng riêng của mình, ôm giấc mộng đời đến cuối cùng.

Giấc mơ lớn nhất mà điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu vẫn giữ, là có ngày phục dựng được bức Thương tiếc. Nhưng giờ ở cái tuổi gần 90, mệt nhoài với những chặng đường đã qua, ngày càng đau yếu, có lẽ rồi ông cũng sẽ ra đi lặng lẽ với những nỗi niềm rất thiêng liêng, đã có trong đời mình.

Còn chút nhớ về, xin hãy thử đến gặp ông, ở những giờ phút này, tại Gò Vấp, Sài Gòn.

___o0o___
(Tuấn Khanh)

XXG
05-23-2021, 02:50 PM
___BẠN CŨ NĂM MƯƠI NĂM

(Tràm Cà Mau)


(Chuyện kể của ông Hai)

Dạo đó, tôi vừa mới trổ mã, bể tiếng, tay chân tự nhiên dài ngoằng ra, áo quần thành ngắn củn cởn. Tôi vụng về, ngơ ngác, làm cái gì cũng hư hỏng, má tôi cứ la rầy mãi. La rầy để quở trách mà cũng chan chứa tình yêu thương. Tôi ăn cái gì cũng ngon, đặt lưng xuống đâu cũng ngủ được say sưa.

Thời nầy, đệ nhị thế chiến vừa chấm dứt, nước Pháp đem quân trở lại Việt Nam để tái lập nền đô hộ cũ. Toàn dân đứng lên kháng chiến, cầm tầm vông vạt nhọn đánh nhau với Tây. Khí thế đằng đằng. Cũng như mọi thanh niên khác, tôi tham gia kháng chiến. Nói là đánh nhau với Tây, nhưng chạy thì nhiều hơn, vì lồ ô vạt nhọn không cự nổi với súng ống của Tây.

Tôi bị Tây bắt lãng xẹt khi đang ngủ giữa ban ngày. Bị trói ké, đem về giam tại thành phố. Trong trại giam, mỗi ngày phải đi làm lao động vệ sinh, dọn rác, quét lá, lấp các vũng bùn lầy, khai mương. Tôi làm quen được một ông lính kèn, mỗi ngày mượn cái kèn thổi tò te làm khổ lỗ tai mấy ông lính Tây chơi. Không có chi chói tai bằng nghe mấy anh tập kèn cứ ọ è từ giờ nầy qua giờ kia mãi.

Tập hoài rồi cũng thổi được. Một lần cao hứng tôi thổi khúc kèn báo hiệu tan giờ làm việc, tiếng kèn vang vọng, rõ ràng, làm mấy ông Tây tưởng đã hết giờ, rủ nhau ra về. Tôi bị phạt giam đói, và anh lính kèn cũng bị khiển trách, không cho tôi mượn cây kèn nữa. Nhưng sau đó hai tuần, tôi được cho ra khỏi tù. Họ phát cho tôi áo quần lính, và sung vào đội thổi kèn. Ban quân nhạc của Tây. Nhờ có một chút hiểu biết về âm nhạc Tây Phương, tôi học nhạc cũng khá dễ dàng, không như các ông bạn khác.

Khi tập thổi kèn mà chơi, thì tôi cảm thấy vui, ham thích, thú vị, nhưng khi phải tập kèn vì bắt buộc, thì thật là chán nãn, mệt nhọc, bực mình. Ông trung sĩ chỉ huy đội quân nhạc không vui, vì đã chọn lầm người. Trước đó, ông tưởng tôi có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, nên đề nghị tuyển dụng.

Về sau ông thường nói lời an ủi rằng, thiếu chó thì bắt bất cứ con gì ăn phân cũng được, miễn sao biết ăn phân thì thôi. Nghe ông nói vậy, tôi cũng tự ái, và bực mình. Thường thường, thì đội lính kèn được nhàn hạ. Mỗi ngày, mấy xuất thổi kèn báo hiệu buổi sáng thức dậy, như con gà gáy sáng, bao giờ làm việc, báo giờ nghỉ, giờ tan sở. Báo hiệu thật đúng giờ. Thế thôi. Còn ngoài ra thì chơi cờ, tán dóc, trêu ghẹo nhau, nhưng không được bài bạc. Mỗi sáng tiếng kèn vang vang:

_“Tọ tè ti tọ tè ti.. ti tọ ti tè... “ Mà lũ con nít chuyển âm thành “Một ngàn, ba mươi vạn thằng Tây, xách cái bị, đi ăn mày. Mụ đi đâu tui bắt mụ lại, tui không cho mụ về.” Nghe y hệt tiếng kèn đồng.

Trong đám lính kèn, tôi chơi thân với Tư Thàn, vì anh cùng tuổi, cũng độc thân và cùng hoàn cảnh như tôi, bị Tây bắt và sung vào đội quân nhạc. Chúng tôi thường rủ nhau đi xem hát ban đêm. Chúng tôi biết và thuộc lòng tên đào kép của các gánh cải lương, hò quảng. Nhiều lần, Tư Thàn thổ lộ ước mơ của anh là được vào làm việc cho gánh cải lương, làm kép độc, nhờ đó, mà anh có thể mùi mẫn với các cô đào đẹp như tiên kia. Anh không có tham vọng được nổi tiếng, chẳng cần được khán giả mến mộ, chỉ mong gần gũi cái nhan sắc của các cô đào thôi.

Có lần, tôi nhặt được tấm ảnh của một cô gái nào đó. Hình chụp rất điệu, ngón tay trỏ tựa má, hai cái núng đồng tiền lún sâu rất duyên, mặt sáng và tươi, mắt ướt rượt. Có lẽ bên ngoài đẹp mê hồn. Tôi đưa tấm ảnh cho Tư Thàn xem, và bảo rằng đó là con Mười, em gái tôi ở Long Xuyên mới gởi lên.

Kể từ khi thấy tấm hình nầy, Tư Thàn nể nang tôi lắm. Tôi có thể sai Tư Thàn làm những việc mà trước đây anh không bao giờ làm giúp. Tôi mượn tiền anh dễ dàng hơn, mà anh bớt nhăn nhó khó chịu. Tôi lờ mờ biết Tư Thàn mê cô gái trong tấm hình, và hy vọng được lòng tôi, thì sẽ được lòng em tôi. Vốn tính nhút nhát, nên Tư Thàn không bao giờ dám hỏi thẳng về em tôi. Chỉ một lần, anh đánh bạo hỏi tôi khi nào về thăm nhà, và có thể cho anh đi cùng, về chơi có được không. Tôi đáp rằng dĩ nhiên là được, và sẽ mời anh ở lại nhà vài hôm. Nghe vậy, Tư Thàn sướng đến đỏ cả mặt. Sau nầy, tôi cho Tư Thàn tấm ảnh đó, anh cất kỹ trong ví, lâu lâu mở ra xem mà mơ mộng.

Buổi sáng, tôi và Tư Thàn thường hay ăn cháo trắng với hột vịt muối của cô Năm Cháo Trắng bán, cô nầy có nước da ngăm ngăm, duyên dáng. Hàng cháo gánh, ngồi chồm hổm ăn, hoặc ngồi trên các đòn gỗ thấp sát đất. Có nhiều anh lính trêu ghẹo, tán tỉnh cô, nhưng khi nào cô cũng vui vẻ, tươi cười, không làm mất lòng ai. Tôi cũng khoái cô nầy, thường giả vờ hết tiền, ăn thiếu nợ. Ðến tháng lãnh lương, thì trả, nhưng không trả hết, khi nào cũng xin khất lại một ít. Cứ nợ cô, thì cô phải nhớ đến số tiền nợ. Nhớ đến số tiền nợ, thì phải nhớ đến người mắc nợ, tức là cô phải nghĩ đến mình. Cái mưu kế nầy, tôi nghe được trong một tiệm hớt tóc mà mấy anh thủy thủ kháo nhau. Tôi có bày mưu nầy cho Tư Thàn, mà anh không chịu nghe theo, cứ sòng phẳng trả hết tiền, không bao giờ chịu thiếu một xu.

Một hôm tôi rủ Tư Thàn đi xem cải lương, anh viện cớ bận việc, tôi đi một mình. Khi ngồi trong rạp, nhìn xéo qua bên kia, thì tôi thấy Tư Thàn và cô Năm Cháo Trắng đang ngồi bên nhau. Tay Tư Thàn đưa lên chỉ trỏ, như đang giải thích gì đó. À thì ra Tư Thàn đã bí mật phổng được cô hàng cháo, mà anh em không ai hay biết. Tôi tránh mặt cho Tư Thàn làm ăn được tự nhiên.

Hôm sau, gặp Tư Thàn, tôi làm bộ giận, mà thực ra thì tôi cũng hơi ghen tức. Tôi thì đặt mưu tính kế, mà chẳng được cơm cháo gì, Tư Thàn cứ tự nhiên, thì vớ được cô hàng cháo. Tôi cứng giọng, nói với Tư Thàn:

-“Mày phản bội em tao. Trả tấm hình con Mười lại cho tao. Tưởng mầy đàng hoàng, thì ra...”

-“Tao làm gì mà gọi là phản bội?”

-“Mầy còn giả vờ? Hồi hôm mầy đi đâu? Làm gì? Với ai? Có chối được không?”

-“Ai nói với mầy?”

-“Chính mắt tao thấy. Tao để yên cho chúng mày hú hí. Chối tội làm chi?”

Tư Thàn bẻn lẻn móc ví trả tôi tấm hình cô gái có hai cái núng đồng tiền. Anh có vẽ tiếc lắm. Cuối cùng anh nói:

-“Em gái mày đẹp như thế nầy, thì chán chi người dòm kẻ ngó. Tao làm gì mà vói thấu. Trả hình lại cho mày là phải.”

-“Mày định bắt cá hai ba tay sao? Con Năm Cháo Trắng cũng có duyên lắm đó chứ!”

-“Ừ. Có duyên. Hồi hôm, em thú thật với tao em là ‘đầu gà đít vịt’ Mầy thấy da em ngăm ngăm không?”

Tôi hỏi Tư Thàn làm sao mà câu được em Năm Cháo Trắng? Trong lúc tôi bày mưu tính kế mà không được em đáp ứng. Tư Thàn cho rằng tôi ngu, đàn bà con gái không ưa những người bê bối, mang nợ mắc nần. Sau nầy về làm chồng quen thói nợ nần, ai mà chịu nỗi. Thì ra, tôi nhẹ dạ tin vào mưu kế tào lao của mấy anh thủy thủ gà mờ.

Từ ngày trả lui cho tôi tấm hình cô gái có núng đồng tiền, Tư Thàn không còn nể nang tôi như trước kia nữa. Tôi biết mình ngu, đòi lại tấm hình, chẳng ích gì, nhưng đã lỡ rồi, tiếc cũng không được.

Tôi thường ứng trực thế cho Tư Thàn, để anh có thì giờ đi chơi với cô Năm Cháo Trắng. Bởi vậy, sau nầy cô thường múc cho tôi những tô vun, cháo muốn tràn ra ngoài. Từ đó, tôi không bao giờ thiếu nợ cô nữa.

Thường thường, Tư Thàn và tôi trốn trại đi xem đá gà ở xóm trong. Thiên hạ đánh cá ồn ào. Chúng tôi cũng thường bắt độ, khi ăn khi thua, mà thua thì nhiều hơn ăn. Những khi ăn tiền cá độ, chúng tôi dắt nhau đi ăn nhậu vui vẻ, ăn thâm cả tiền túi. Khi thua, thì hai đứa lủi thủi ra về, phải vay mượn tiền bạn bè để gỡ gạc. Có hai lần bị cảnh sát bố ráp, cả phường đá gà bỏ chạy, chúng tôi cũng sợ bị bắt, chạy trốn, cho nên mất luôn tiền cá độ.

Từ đó, chúng tôi tìm ra một cách đánh cá khác, mà chủ cá độ không móc được của chúng tôi một xu. Hai đứa tôi đánh cá riêng với nhau, đứa nầy được, thì đứa kia thua. Chúng tôi gọi là lọt sàng xuống nia. Và sau cuộc đá gà nào, chúng tôi cũng có buổi ăn nhậu, vì một trong hai đứa thắng cuộc. Thời trước Tư Thàn có nuôi gà đá, nên nhiều kinh nghiệm, cứ nhìn vóc dáng bên ngoài, là biết ngay con gà có phong độ hay không. Thế là nợ Tư Thàn một số tiền bằng nguyên cả tháng lương.

Nợ ít ít, thì còn nghĩ đến chuyện thanh toán, nợ nhiều quá, không còn muốn trả nữa. Tôi cứ khất mãi, và đến tháng lãnh lương cũng không trả bớt nợ cho Tư Thàn. Từ đó, giữa tôi và Tư Thàn có cái gì lấn cấn, tình bạn không còn như trước nữa. Tôi không dám ăn tiêu khi có mặt Tư Thàn, sợ bị hỏi nợ. Không phải tôi muốn giựt nợ, nhưng tôi tự bảo lòng, khi nào tiền bạc dư dả, thong thả mới trả.

Một lần, Tư Thàn thấy tôi nói chuyện thân mật, cười nói với một cô nữ quân nhân. Giữa chỗ đông người, Tư Thàn hướng về tôi mà nói lớn:

-“Sao mày nợ tao một tháng lương, lâu quá mà chưa trả? Phải vay mượn mà trả chứ?”

Tôi bị mất mặt trước đám đông, phát cáu, giận đỏ mặt. Tôi nghiến răng trả lời:

-“Mầy còn đòi tiền nợ, thì tao đục cho trào máu.”

Tư Thàn lảng đi nơi khác, mà tôi thì cũng không hết giận, định đi theo gây sự thêm. Vì một món nợ đá gà, mà chúng tôi mất tình bạn.

Sau năm 1954, Tây rút về nước, chế độ Cộng Hòa được thành lập tại miền Nam. Chúng tôi được giải ngũ, về đời sống dân sự. Tư Thàn đem vợ là cô Năm Cháo Trắng về quê làm ăn. Tôi ở lại thành phố, làm đủ thứ việc, đủ sống qua ngày, nhưng vì con đông, cho nên khi nào cũng thấy thiếu thốn.


o0o

Mười mấy năm sau khi giải ngũ, một hôm tôi lái xe chuyển kinh sách cho hội Thánh Tin Lành về miệt Long Xuyên, trên đường trở về, chiếc xe làm nư, chết máy giữa đường, không biết làm sao mà sửa. Tôi ngồi bên vệ đường, dưới bóng cây nhỏ. Ðầu óc suy nghĩ, tính kế không ra. Tôi định bắt xe đò về tỉnh lỵ, rước thợ ra sửa xe. Chờ hoài mà không có xe qua. Phía dưới ruộng khô, có một nông dân đang cày đất với hai con trâu. Nắng cháy, cổ khát. Tôi thấy anh nông dân ngưng cày, lên bờ lấy bầu uống nước. Túng quá, tôi đánh liều kêu lớn:

-"Nầy anh ơi, khát quá, cho tôi uống nước với!"

Người nông phu mang áo đen, quần xà lỏn, chậm chạp băng ruộng, đem cái bầu nước đến cho tôi. Khi đến gần, thì anh reo lên:

-“Mày đó phải không Quài. Sao biết tao cày ruộng ở đây mà ghé lại thăm?”

Tôi mừng quá, thét lớn:

-“Tư Thàn! Mày! Ð.M. mày. Thằng quỷ. Mày ở đây hả? Chiếc xe nó biết có mầy ở đây, nên chết máy, để cho tao gặp mầy.”

Tư Thàn và tôi xoắn lấy nhau, nhắc chuyện mười mấy năm trước. Ðủ thứ chuyện. Nói cho nhau biết tin tức gia đình mỗi người. Tư Thàn có hai thằng con trai. Ðời sống của gia đình thong thả, nhờ cô Năm Cháo Trắng buôn bán thêm ngoài chợ quận. Gạo cơm đủ ăn. Mười mấy năm, Tư Thàn chưa về lại Sài Gòn lần nào, vì cũng không có chuyện gì, mà chẳng còn ai để thăm viếng.

Tư Thàn bỏ dở luôn buổi cày ruộng. Tôi cũng bỏ kệ cho chiếc xe nằm ụ bên đường, đến đâu thì đến, theo Tư Thàn đi vào làng. Nhà Tư Thàn trống trải, đơn sơ như tất cả mọi nhà nghèo miền quê.

Tư Thàn lấy cái nơm làm bẫy, rải lúa cho gà ăn, và bắt được một con gà trống thiến lớn. Làm thịt, bao đất sét, nướng lửa rơm. Tư Thàn đem ra hai lít đế trong veo. Khi gà chín, tôi đập cái vỏ đất sét, để cả con gà lên chõng tre có lát sẵn mấy tàu lá chuối tươi, mà Tư Thàn đã rửa sạch. Chúng tôi bốc tay mà ăn, cầm đùi gà nhai, rượu vào đều đều, cạn chai nầy, qua chai kia.

Chúng tôi cùng nhắc chuyện xưa, chuyện không đầu, không đuôi, chuyện nầy lẫn qua chuyện khác. Hai đứa nhỏ con Tư Thàn đi học về, cũng nhào vào xâu xé con gà. Tôi ép thằng lớn hớp một ngụm đế, nó nhăn mặt phun ra. Tư Thàn và tôi cùng cười vang. Khi trời xế chiều, thì cô Năm Cháo Trắng cũng gánh hàng về. Cô nhận ra tôi, kêu thét lên vui thú, và phát vào vai tôi nhiều lần đau điếng. Cô mắng:

-“Cái ông khỉ nầy, tưởng chết rấp đâu rồi chớ. Làm sao biết tụi tôi ở đây mà ghé chơi? Vui quá xá”

Ðêm đó, cô Năm Cháo Trắng nấu cháo vịt, mượn hàng xóm thêm mấy lít đế, chúng tôi ngồi ăn nhậu dưới trăng cho đến khuya. Ăn uống no say. Tôi chợt nhớ tới món tiền mà tôi nợ Tư Thàn, trị giá bằng một tháng lương vào thời gian mười mấy năm trước, mà chưa trả, và cũng chưa hề toan tính thanh toán cho sòng phẳng. Cũng vì món nợ đó, mà cái tình bạn thân thiết giữa chúng tôi có một thời lấn cấn, mất đi cái mặn nồng, không còn như trước. Tôi chậm rãi nói lè nhè trong hơi men:

-“Tao bậy quá, còn mắc nợ mầy mà chưa có dịp trả. Công việc làm ăn, cũng không khá, mà con cái đông đúc, có cơm no bụng từng ngày là may lắm. Tiền không có dư...”

Tư Thàn cười hiền hòa, giọng ấm áp nói:

-“Thôi, quên chuyện xưa đi. Nợ nần cái khỉ gì? Chuyện cờ bạc thời trai trẻ dại dột, để tâm làm chi? Bạn bè gặp lại nhau, là quý rồi.”

Có lẽ vì rượu đã ngấm nhiều, mà nghe lời nói chí tình của bạn, mắt tôi cay xè. May mà tối trời không ai thấy. Tôi xịt mũi. Ðêm đó, tôi ngủ lại nhà Tư Thàn, và nói chuyện rầm rì trong bóng tối cho đến khuya.

Sáng hôm sau tôi ra chỗ xe nằm ụ, thì thấy chiếc xe chỉ còn là một đống sắt cháy nham nhở. Thì ra đêm qua, du kích đặt mìn phá, mà ngủ mê quá, chúng tôi từ làng trong, không nghe biết. Tôi lấy xe đò về Sài gòn, và bị đuổi việc. Nhưng may mắn, không bị hội thánh bắt bồi thường. Có lẽ họ biết, tôi đưa mạng cùi ra, có bắt đền cũng không moi được một xu, thì tha làm phước. Vã lại thời buổi chiến tranh, không ai dự liệu trước được chuyện bom mìn.


o0o

Tháng tư năm 1975 tôi đem gia đình chạy, chưa biết sẽ chạy đi đâu, về đâu, và làm sao mà sinh sống sau nầy. Cứ chạy đã. Vì sợ phải đi tù như một số bạn tôi, họ đã trở về miền Bắc vào năm 1954, và nghe đâu một số đã chết trong tù, một số còn bị giam giữ hơn hai mươi năm chưa được thả. Ðó là tin tức chính xác đi quành từ miền Bắc qua Pháp, và từ Pháp về miền Nam. Tôi được nước Mỹ cho vào cư trú, đi làm đủ thứ nghề tay chân. Cuối cùng vào làm y tá cho một trung tâm dưỡng lão của quận hạt. Hai mươi mấy năm đời sống yên lành, no ấm, hạnh phúc.


o0o

Năm 2001, sau hai mươi sáu năm xa quê hương, tôi về lại Việt Nam một mình, lần thứ nhất, để sắp đặt việc cưới vợ cho đứa con trai út. Khi đang ở Sài gòn, tôi nghe tin bọn khủng bố đánh sập tòa nhà đôi chọc trời ở New York. Ban đầu tôi không tin, và nghĩ rằng mấy ông Vẹm hay nói dối, đặt chuyện xạo tuyên truyền, nói xấu đế quốc Mỹ. Nhưng sau đó, xem truyền hình, tôi sửng sốt, bàng hoàng. Lòng tôi đau nhói, và nhận ra rằng, quê hương mới là nước Mỹ, cũng muôn vàn yêu mến, thắm thiết không thua gì quê hương cũ Việt Nam.

Tất cả mọi chuyến bay đều bị hủy bỏ, việc vào ra nước Mỹ cũng tạm ngưng. Tôi chưa thể trở về lại Mỹ được, và trong lòng cũng tràn đầy lo ngại, không biết có thể về lại Mỹ được không. Hay là kẹt lại ở Việt nam mãi, cho hết cuối đời. Bảy mươi mấy tuổi rồi. Một đêm mất ngủ, tôi ra đứng ở hành lang khách sạn. Từ trên cao nhìn xuống phố phường bên dưới, tôi chợt nhớ, hơn năm mươi năm trước, nơi đây còn lau sậy um tùm, đất thấp ngập nước, hoang vu. Từ bên trong phòng vọng ra tiếng ngâm thơ khuya qua cái radio nhỏ, giọng khàn đục buồn não nề:

Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Ðêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò” (*)

Lòng tôi chùng xuống, và chợt nghĩ hơn nửa thế kỷ trôi qua, vèo mau như mộng. Mới ngày nào đó, tôi bị Tây bắt đi tù, sung vào đội lính kèn. Bao nhiêu là đổi thay, bao nhiêu bãi biển đã biến thành nương dâu, bao nhiêu trũng hoang đã trở thành phố thị. Những thế hệ trước tôi và đồng thời với tôi, có lẽ đa số đã về với lòng đất. Yên bề. Những người còn sống sót như tôi, bây giờ ở đâu, làm gì. Bỗng tôi chợt nhớ đến Tư Thàn. Nhớ tha thiết. Nhớ đến món nợ ngày xưa mà chưa trả được, lòng buồn rưng rưng. Tôi quyết định ngay, mong cho trời mau sáng, để thuê xe đi tìm thăm Tư Thàn.

Chiếc xe thuê riêng, chở tôi chạy về miền Tây, đi tìm Tư Thàn. Anh tài xế nghe tôi nói đi tìm một người bạn cũ, gặp nhau lần cuối đã hơn ba mươi năm trước, anh lắc đầu, có lẽ anh cho tôi là một ông già khùng lẩm cẩm.

Tôi chỉ nhớ mang máng cái nơi mà chiếc xe tôi lái bị đặt mìn hơn ba chục năm trước. Tôi vào làng hỏi xem ai có biết ai Tư Thàn, nay chừng trên bảy mươi tuổi, hồi xưa làm lính kèn ở Bộ Tổng Tham Mưu. Mọi người đều lắc đầu, ngơ ngác. Tôi đi lang thang quanh làng, và hy vọng, còn có người biết Tư Thàn ở đâu. Khi tôi chán nản trở lại đường cái, ngồi trong cái chòi bán nước bên vệ đường, thì gặp một bà già. Tôi chận lại hỏi. Bà nhíu mày một hồi, suy nghĩ lung lắm. Bỗng bà la lên:

-“Tôi nhớ ra rồi, từ lâu không ai gọi ổng là Tư Thàn nữa. Mà ông là ai, tìm Tư Thàn có chuyện chi không?”

-“Tôi là bạn lính kèn với Tư Thàn khoảng hơn năm mươi năm trước. Bây giờ, nhớ bạn, ghé tìm thăm.”

-“Trời đất! Năm mươi năm làm chi mà không thăm nhau, giờ mới trở chứng đi tìm!”

Mấy đứa trẻ con chạy ra ruộng kêu Tư Thàn về, người ta nói anh đang cuốc đất thuê. Tôi nghĩ không phải là Tư Thàn bạn tôi, bảy mươi lăm tuổi, còn sức đâu mà đi cuốc thuê. Lũ trẻ đưa về một ông già ở trần, xương sườn đếm được, tay chân khẳng khiu, chỉ mặc cái xà lỏn ngắn, đi chân đất. Da nhăn nheo, khô khốc, đen đúa, gầy gò, hai má hóp, miệng móm xọm, chỉ còn hai cái răng, một cái của hàm trên, một cái của hàm dưới, rất là thiếu mỹ thuật. Không có một nét nào của Tư Thàn cả, có lẽ tuổi ông nầy già hơn nhiều. Tôi nheo mắt nói:

-“Tôi tìm Tư Thàn, hồi xưa làm lính kèn ở bộ Tổng Tham Mưu, có vợ là chị Năm Cháo Trắng.”

Ông lão phều phào:

-“Ông là ai? Tìm tôi có việc gì không?”

-“Tôi tìm Tư Thàn. Tôi là bạn cũ.”

-“Ông là bạn cũ của tôi? Chắc ông tìm lầm người rồi.”

-“Ông biết Cô Năm Cháo Trắng?”

-“Vợ tôi, má thằng Ðộ, thằng Rề.”

Bây giờ thì tôi chắc chắn ông lão ngồi trước mặt tôi chính là Tư Thàn, không ai khác. Tôi còn mơ hồ thấy vài nét hao hao của thuở nào. Bố thằng Ðộ, Thằng Rề, hai thằng nầy tôi đã gặp hồi xưa.

Ngày trước, Tư Thàn mong sinh được bảy đứa con đặt tên là Ðồ, Rề, Mi, Pha, Xôn, La, Xi, nhưng mới có mới có Ðộ, Rề, thì bà vợ tịt ngòi. Tư Thàn ngồi co một chân lên ghế dài, rất tự nhiên, cái quần xà lỏn kéo nhăn nhúm lên cao, để lòi nguyên bộ phận kín ra ngoài, một khúc đen điu, nhăn nhúm, nằm tựa trên một đùm bao da lưa thưa lông bạc trắng. Tôi mừng quá, nắm lấy hai vai Tư Thàn mà lắc:

-“Mầy không nhớ ra tao là ai hả Tư Thàn!”

-“Không. Ông có lầm tôi với ai khác không? Ông là ai?”

-“Thế thì mày không phải là Tư Thàn, lính kèn ở bộ Tổng Tham Mưu hả?”

-“Tôi, Tư Thàn lính kèn đây.”

Tôi làm bộ buồn bã đổi giọng:

-“Có lẽ ông không phải là Tư Thàn tôi quen, mà là người khác trùng tên chăng?”

-“Lính kèn, ở bộ Tổng Tham Mưu, trước năm năm mươi tư. Chỉ có Tư Thàn nầy thôi”

Tôi nắm chắc hai vai Tư Thàn mà lắc, và hét lên:

-“Ð.M. mầy không nhớ ra tao là ai, thật không? Hay mày giả bộ.”

Tôi đưa tay lên miệng, với dáng điệu như đang thổi kèn và ca:

-“Một ngàn, ba mươi vạn thằng Tây, xách cái bị, đi ăn mày. Mụ đi đâu, tui bắt mụ lại, tui không cho mụ về.”

Nghe tiêng chửi thề và điệu kèn Tây của tôi, Tư Thàn nhào đến ôm lấy tôi mà thét lên:

-“Ð. M. mầy, chỉ có mầy mới nói cái giọng nầy. Thằng chó chết, thằng dịch vật. Thằng Quài, mầy, Quài. Mà mầy sang trọng, và trẻ quá, ai ngờ, ai mà nhìn ra.”

Ðám trẻ con đứng xem cười ầm lên khi thấy hai ông già văng tục và gọi nhau bằng mầy tao. Tư Thàn cảm động quá, cái miệng móm méo xẹo, và khóc thành tiếng hu hu, làm tôi cũng khóc theo. Tư Thàn nghẹn ngào:

-“Mầy còn nhớ đến tao, tìm thăm. Ðồ dịch vật. Lâu nay mày chết rấp nơi nào?”

Tư Thàn nhìn tôi từ đầu xuống chân, nói nho nhỏ:

-“Tóc tai cũng còn, răng cỏ hai hàm còn nguyên, mặt mày có da có thịt, áo bỏ vào quần, đi giày đàng hoàng. Có phải mầy là Việt kiều về thăm quê hương không? Bây giờ mầy ở đâu? Làm gì?”

Tôi sợ Tư Thàn buồn, nói dối:

-“Việt kiều cái con khỉ. Tao ở Sài gòn, nhờ có mấy đứa con vượt biên ra nước ngoài, và mấy đứa ở nhà, buôn bán, ăn nên làm ra. Giờ già rồi, về hưu, không làm gì nữa cả.”

Tôi hỏi thăm gia cảnh, Tư Thàn cho biết hai đứa con trai đều đã chết. Thằng Ðộ đi lính quốc gia, đã đền nợ nước, thằng Rề “hy sinh” cho “cách mạng”. Cô Năm Cháo Trắng chết bệnh. Tư Thàn không có ai để nương tựa, phải đi cuốc đất thuê kiếm ăn qua ngày. Tôi nhìn cái thân thể xương xẩu của Tư Thàn, không biết anh lấy đâu ra sức mà đi làm lao động chân tay. Tôi nói:

-“Thôi, mầy đưa tao về nhà, thay áo quần, rồi cùng qua Long Xuyên, lu bù một bữa, anh em hàn huyên chơi, bỏ mấy mươi năm xa cách.”

Tư Thàn ngự trong căn chòi nhỏ, bốn bề che lá đơn sơ. Không bàn, không giường, chỉ có cái võng treo xéo. Trên bếp có cái nồi đen điu, méo mó. Tôi dỡ nồi ra xem, thấy còn có miếng cơm cháy. Tôi bốc ăn, mà cứng quá, răng già không nhai nổi. Thế mà Tư Thàn không còn răng, ăn cách nào đây?

Khi xe vào tỉnh lỵ Long Xuyên, tôi nhờ anh tài xế tìm cho một quán ăn ngon. Anh đưa chúng tôi vào quán nướng Nam Bộ. Tư Thàn gạt đi, không chịu vào, và nói:

-“Kiếm chai đế và vài ba con khô cá sặc là đủ vui rồi. Ðừng hoang phí tiền bạc. Vào làm chi những nơi sang trọng nầy cho chúng chém. Gặp nhau là vui rồi. Ăn uống là phụ.”

Tôi ép mãi mà Tư Thàn không chịu. Cuối cùng, chúng tôi ra chợ, ngồi trên ghế thấp ở quán lộ thiên, ăn nhậu và nói cười vui vẻ, tự nhiên. Tôi uống rượu thay nước, vì sợ đau bụng. Anh tài xế cùng ăn, mà tôi không cho anh nhậu rượu, anh tỏ vẻ khó chịu, vùng vằng.

Ðưa Tư Thàn về lại tận nhà, tôi móc trong cặp một gói bao, bằng giấy báo đưa tặng. Tư Thàn mở ra xem, và giật mình, xô gói quà ra về phía tôi:

-“Cái gì đây? Tiền đâu mà nhiều thế nầy? Tôi không lấy đâu. Ðừng bày đặt.”

-“Có bao nhiêu đâu. Ngày xưa, tao nợ mầy chưa trả được, bây giờ trả lại cả vốn lẫn lời. Tao tính rồi, mầy nhận đi cho tao vui, bỏ công tao lặn lội đi tìm.”

-“Không. Nợ nần cái khỉ gì. Ăn thua đá gà, chuyện tào lao thời trẻ dại. Tao đã bảo mày quên đi từ lâu. Bày đặt. Lấy tiền làm chi? Không có chỗ cất, bọn trộm cắp nó lấy đi, uổng lắm. Tao không lấy đâu.”

Thấy bộ Tư Thàn cương quyết quá, tôi xuống giọng, giả vờ nói:

-“Mầy mà không nhận, tao có chết nhắm mắt cũng không yên tâm. Chưa trả hết nợ, thì sau nầy phải đầu thai làm trâu cày cho mầy. Khổ lắm. Thương tao, mầy cứ cầm đi. Ðể mua gạo. Ðể khi đau yếu có chút thuốc thang. Nếu không có nơi cất, thì đem gởi bà con”.

Ðôi mắt già của Tư Thàn chớp chớp, và nói giọng run run như sắp khóc:

-“Ð.M, tao già đến thế nầy, mà mày cũng còn định gạt tao như hồi xưa nữa sao? Thằng chó chết! Cái tình bạn của mầy, còn quý gấp trăm ngàn lần gói tiền nầy. Tao sẽ làm mâm cơm cúng bà Tư Cháo Trắng, nói cho bà biết cái tình bạn của mày. Dưới suối vàng, chắc bà cảm động lắm.”


_____o0o_____

(Tràm Cà-Mau)


(*) Thơ Trần Tế Xương.

XXG
05-24-2021, 08:33 PM
___Hôm nay, XXG xin phép được đăng lại một truyện ngắn của tác giả Tuấn Kiệt. Một tác phẩm mà tôi đã đăng qua trong phòng Truyện của diễn đàn vài năm trước đây.

Truyện ngắn có cái tên "Củ Khoai Mì" (là lạ) này, tôi đã đọc cách đây khá lâu, nhưng vẫn còn lưu giữ cho đến hôm nay. Và, người tác giả tuy không phải là một văn sĩ nhưng cách diễn đạt bằng nội tâm và (bằng) những từ ngữ chân thật của anh có một sức lôi cuốn kỳ lạ khiến tôi đã phải "đi" theo bước chân anh từ đầu đến cuối câu chuyện.

Trong "Củ Khoai Mì," tôi tìm được những nụ cười và giọt lệ...

Tôi đã cùng anh đi qua những chặn đường đau khổ của đời anh. Tôi đã cảm nhận và thấy được nỗi xót xa, hụt hẫng trong một tương lai vô vọng của những cựu quân nhân QLVNCH sau khi mãn hạn tù. Đã nếm được những đắng cay, nghiệt ngã mà người dân Miền Nam phải gánh chịu trong bao tháng năm dài đăng đẳng từ sau ngày "thống nhất đất nước" - một mỹ từ gian xảo mà bọn CSBV đã sử dụng để xâm chiếm Miền Nam.

Xin mời ACE cùng thưởng thức.



___CỦ KHOAI MÌ___


(Tác giả: Tuấn Kiệt)



Thạch và tôi gặp lại nhau ở một quán cà phê vệ đường năm 1979.

Sài Gòn năm đó te tua tan nát. Hoa lá tả tơi như chuyện gia đình của thằng Thạch cũng theo hoa lá mà ... tơi tả. Người vợ hiền lành thuở nào đã dẫn đứa con gái nhỏ đi đâu mất tiêu trong thời gian thằng Thạch còn trong tù cải tạo.

- Ê, Kiến! Tuần tới tao phải về lại vùng kinh tế mới. Hết phép rồi.

Nhìn nhau.

Hai đứa quen nhau trong tù cải tạo. Nó, Không Quân. Tôi, Bộ Binh. Nó lớn hơn 3 tuổi nhưng cứ mầy tao thét rồi quen luôn.

- Hết phép? Mà phép gì? Mầy không có cách nào ở lại Sài Gòn được à?

- Tao khai với bà chủ tịch xã là tao bị... điên.

Tôi bật cười:

- Mầy bị điên?

- Ừ!

- Mà bả tin hông?

- Tin chứ mậy! Bả cho tao giấy giới thiệu về bệnh viện thần kinh ở Biên Hoà. Tao gặp ông bác sĩ phe mình làm ở trỏng, ông Lân. Ổng ký giấy cho tao về tịnh dưỡng tại gia 3 tháng. Tao đưa giấy đó cho bà Năm chủ tịch xã thì bả ký cái nầy cho tao.

Tờ giấy vàng khè vẽ bùa lẳng tẳng có hàng chữ Xã Hội Chủ Nghĩa gì gì đó với khều khào một chữ ký mà thằng Thạch bạn tôi, một sĩ quan Không Quân từng vần vũ trên trời rộng đang mơ ước được gia hạn thêm 3 tháng nữa. Cái mơ ước được tự do cư trú và làm việc bỗng dưng quá xa vời.

- "Thì mầy cũng cứ vậy mà làm tiếp". Tôi nói.

- "Coi bộ lần nầy hổng được mầy ơi! Kỳ rồi bả nghi tao nói láo". Thạch lo lắng do dự.

Bỗng nhiên tôi nổi hứng:

- Hay mầy muốn tao dẫn đi?

- Ừ! Có lý! Mầy đóng vai người nhà dẫn tao lên xin gia hạn thêm.

Tôi kỳ kèo:

- Mà tao phải làm anh bà con mầy tao mới chịu.

- Mầy muốn làm ba tao cũng được!

Tình trạng tôi lúc đó khá ổn. Từ tù cải tạo ra, tôi đến trình diện thằng công an xã ở vùng kinh tế mới Đồng Xoài, nó mới 18 tuổi, tôi thì 27. Tôi gọi nó bằng anh ngọt lịm, cộng thêm mấy gói thuốc lá Vàm Cỏ hút cho lủng phổi và bịch cà phê. Nó ký cho tôi một cái giấy tay, ịn con dấu cái cạch cho về Sài Gòn một tháng trị bệnh.

Mà hên nữa là tôi gặp lại anh Đức, Đại Uý Quân Y ngày xưa, chẳng biết vì may mắn hay có móc ngoéo ngón tay gì hay không mà anh được lưu dụng làm việc ở bệnh viện Bình Dân Sài Gòn không phải đi tù cải tạo.

Ảnh đưa cho tôi mấy cuộn băng bột:

- Em cứ kiếm phần nào trong cơ thể rồi bó cục bột vào thì đỡ phải ngại đứa nào hỏi giấy tờ.

Tôi suy nghĩ lung lắm. Phải kiếm phần nào cho người ta dễ thấy mà không làm trở ngại công việc làm ăn đi đứng vì cuộn băng sẽ đóng cứng lại sau khi mình thấm nước.

Ở cổ ư? Thất bại! Làm sao mình cua đào được? Lúc đó tôi vẫn còn độc thân và cho dù xã hội tối thui như nhiều đêm bị cúp điện, nhưng tuổi trẻ vẫn luôn còn lạc quan và tình yêu trai gái vẫn còn nẩy nở, tuy chậm hơn một chút, tuy do dự hơn một khoảnh thời gian nhưng tình yêu vẫn nồng nàn thân ái.

Vả lại, nếu cuộn cục bột ở ngay cần cổ thì tối làm sao ngủ?

Tôi bèn chơi ngay khúc dưới đầu gối tới bàn chân, xé đường chỉ ống quần để thiên hạ dễ thấy cuộn băng bột và tôi chống thêm cây gậy.

Thiệt là hay! Suốt cả một thời gian dài, không công an nào thèm hỏi đến giấy tờ.

Sáng hôm sau, thằng Thạch bán chiếc nhẫn cưới bằng vàng 24 để làm lộ phí lên đường. Tôi có nói với má tôi, rằng sẵn dịp đi Long Khánh chuyến nầy nếu gặp được kháng chiến Phục Quốc thì con sẽ theo luôn. Má tôi, hai con mắt long lanh: "Ừ! Nếu con coi được thì về dẫn cả nhà đi luôn. Tao nấu cơm cho kháng chiến cũng được mà!"

Trên đường cuốc bộ tới bến xe đò An Đông, tôi nói với thằng Thạch:

- Bây giờ mầy phải giả bộ khùng từ lúc nầy.

Nó dẫy nẫy:

- Quê mậy! Con gái tùm lum! Làm quê mậy...

- Mầy phải đóng kịch từ lúc nầy để quen đi, đến lúc gặp bà Năm thì mới không "bể địa" chứ.

Nó làm thinh. Được trớn, tôi kéo một phần áo của nó đang bỏ vô quần thành nửa trong nửa ngoài. Thằng cũng còn diện gớm, tóc chảy tém bốn sáu, quần áo sạch sẽ mắc tiền. Hình như hắn đã chấp nhận chuyện vợ phải dẫn đứa con đi kiếm con đường sống khác, cũng như đa số những tù cải tạo khi viết thư hay nhắn về nhà, đều cùng một lời: "Nếu em tìm được con đường nào cho em và các con thì xin cứ mạnh dạn bước đi, đừng chờ đợi anh về. Anh sẽ hiểu, và anh không oán trách gì đâu. Ngày về của anh là ngày lèo, chúng cứ bảo là học tập tốt thì về nhưng chúng chẳng hề định nghĩa chữ Tốt là gì, chữ tốt trở thành chữ Hề diễu cợt."

Tôi lấy tay xoa xoa lên tóc thằng Thạch. Nó né:

- Ê! Làm cái gì vậy mậy?

- Chắc một lát tao lấy sình trét lên áo mầy quá! Ăn mặc diện như vầy đâu giống khùng? Giống như mầy đi hỏi vợ thì đúng hơn.

Nó cười cười khoái chí:

- Bộ đồ kẻng của tao đó!

- Ừ! Chút xíu nữa cho mầy hết kẻng luôn em trai à!

Bến xe An Đông ồn ào hỗn độn, người ta mua bán tứ tung. Ai cũng buôn hàng lậu vì nghề nào cũng bị cấm. Ngay cả bà già tay xách chiếc giỏ nhỏ, trong có chục ổ bánh mì dồn thịt sẵn, thầm thì: "Ai ăn bánh mì thịt hông?" hay cô gái lấm lét: "Ai uống nước đá hột é hông?"

Người ta mua bán mà con mắt bên phải thì nhìn khách hàng còn mắt bên trái thì canh chừng tụi công an, mà dân chúng đã thân ái đặt tên là bò vàng. Tất cả những nghề làm ăn lương thiện bỗng chốc biến thành bất lương lén lút.

Hàng loạt loa phóng thanh đặt ở mỗi thôn xóm ca ngợi người tốt việc tốt khiến cho những con người "xấu" giương đôi mắt thâm quầng nhìn những con người "tốt" vàng võ èo uột. Xấu và tốt không còn có thể phân biệt được dưới chế độ lạ kỳ nầy nữa rồi! Nhớ hồi khi xưa, người ta dặn nhau "Lành cho sạch, rách cho thơm." Bây giờ thì thúi hoắc cả đám. Ai cũng bon chen ngất ngưởng chạy đi tìm miếng ăn từng giờ từng phút.

Hải ngoại lúc đó hãy còn èo uột chưa vững, chưa biết cách gởi tiền về tiếp tế người thương. Hải ngoại ngày đêm quặn tim đau đớn, thân nhân còn lại oằn người gánh chịu nỗi trần ai.

- Á! Bò vàng bà con ơi! Chạy chạy...

Thôi thì ai cũng rần rần bỏ chạy. Tôi với thằng Thạch cũng cấm đầu chạy. Chạy cho chắc ăn.

Lỡ...!

Có quá nhiều cái "lỡ" đem đến những buồn phiền không kể xiết. Chạy đôi khi cũng là thượng sách.

Chạy xong rồi thì người ta tụm lại mua bán đổi chác tiếp. Thiệt! Giống như là trò chơi cút bắt của con nít.

Tôi bàn với thằng Thạch:

- Hay mầy bán bộ đồ nầy mua bộ cũ hơn vừa hợp lý mà tụi mình lại có thêm chút tiền dằn túi?

- Sao mầy không bán bộ đồ mầy đi?

Uý chời! Nó chạm vào cái lịch sự tối thiểu còn sót lại của tôi. Tôi chỉ có một bộ đồ ăn nói. Mỗi lần giặt là tôi phải mặc xà lỏn ngồi chồm hổm đợi đồ khô rồi đem ủi và mặc tiếp:

- Ủa! Tao đâu có giả vai điên đâu? Tao là anh mầy dẫn mầy đi xin phép mà. Nhớ hông em trai?

- Mầy nhỏ hơn tao đến mấy tuổi mà lúc nào cũng muốn làm anh.

- Hì hì!

Mặt nó nhăn nhăn kể lể:

- Mầy mặc đồ mới, tao đồ cũ. Tao thấy tủi thân quá! Hay là hai thằng bán hết?

Hai thằng cũng biết là nếu chuyến nầy mà gặp được nhóm Phục Quốc thì hai đứa sẽ xoá bàn cờ chơi lại ngoạn mục hơn, quần áo cũ mới gì không còn là điều quan trọng nữa.

-"Anh cởi quần thì tui đưa tiền." Tiếng cô gái lanh lảnh.

-Tui cởi quần, cô xách cô chạy mất thì tui biết ai mà đòi?

-Anh không cởi quần, tui đưa tiền, anh bỏ chạy thì làm sao tui rượt kịp anh?

Không còn ai tin ai nữa! Chế độ đưa người vào cảnh bần cùng để chia rẽ nhau.

Lại có chộn rộn ở đằng kia. Có tiếng la thất thanh: "Bớ bà con ơi! Giựt đồ! Giựt đồ! Bắt nó lại giùm tui!" Thằng nhỏ mặt mày tái méc ôm cái giỏ xách của bà kia chạy bán mạng. Đúng là chế độ giựt dọc!

Tôi với thằng Thạch ngồi trên xe đò. Tướng nó bự con mà mua lầm bộ đồ nhỏ xíu coi ngố dễ sợ. Tóc, thì bị tôi vò cho bù xù, đôi dép da đã đổi qua đôi dép ...râu. Tôi bắt nó cầm trên tay chứ hổng được mang. Bây giờ thì nó giống y hệt như người mất trí. Ngơ ngác trên xe đò.

Mất vợ, mất con, mất giang sơn tổ quốc, mất cả tương lai và mất luôn ...bộ đồ kẻng.
Không điên cũng thành điên!

- Ê! Thạch! Mầy giữ chỗ ngồi cho tao. Tao xuống mua cái gì ăn.

- À! À!

Nó không muốn nói chuyện với tôi nữa rồi! Giận hờn gì nhau em trai?

Trở lên thì thấy cái ghế của tôi đã bị một ông sồn sồn có râu mép chỗ đậm chỗ dợt chiếm mất.

- A! Chú à! Chỗ ngồi đó của tui đó!

- A! Tui thấy chỗ trống thì tui ngồi hà!

- Chú ơi! Tui đưa thằng em bà con bị khùng lên nhà thương Biên Hoà đó. Chú ngồi kế bên nó, lỡ nó lên cơn, nó cắn chú ráng chịu à nha!

Thằng Thạch nó muốn cười mà hổng dám cười, ráng nén hơi nhịn xuống, mặt nó đỏ ửng lên, mắt trợn trợn bỗng nó đưa cùi chỏ ra ý như muốn giựt cùi chỏ vào mặt ông có râu. Ông kia đưa tay lên đỡ đỡ có vẻ nhờn nhợn lắm rồi. Bỗng thằng Thạch quát lên:

- Đ. Mmm!!!

Ông kia vọt liền.

Chiếc xe đò hậm hực hì hục phun khói ngất trời tiến ra quốc lộ 1, đường đi Biên Hoà.


_________


Đường đi Biên Hoà.

Con đường đi ngang qua hồ tắm Ngọc Thuỷ thuở xưa, những ngày cúp cua trốn học một đám chở nhau trên xe Honda đi tắm "piscine", ngang qua quân trường Thủ Đức có những tháng ngày dài đổ mồ hôi. Và ngang qua nghĩa trang Quân Đội có pho tượng người lính Nhảy Dù ngồi thẫn thờ tiếc thương cho bao đồng đội đang yên nghỉ bên trong. Có lá cờ ấp ủ bên trên như tấm chăn phủ ấm áp. Những người đã nhắm mắt, nằm xuống xuôi tay. Xong rồi một bổn phận với non sông. Có người hùng, có kẻ hèn. Có người đời liêm khiết, có kẻ xuôi ngược bon chen. Nay, thân xác nằm kề bên nhau. Nhưng không hiểu linh hồn có đi về chung một con đường?

Chỉ một điều chắc chắn là ngôi tượng mỹ thuật đẹp đẽ truyền thần kia đã bị những oán ghét nhỏ nhoi ti tiện giựt sụp đổ như một sự trả thù hăm doạ đê hèn. Họ không có được cái bao dung của người ái mộ nghệ thuật để khiêng pho tượng vào Viện Bảo Tàng. Thật là đáng trách thay cho một sự lập lại của lịch sử: Huỷ hoại và Đốt sách.

Nắng lên cao, gió thổi mạnh...

Hình như con đường và khung cảnh hai bên chạy giật lùi lại chứ không phải chiếc xe đò cà khịa đang chạy thẳng tới.

Đi từ sáng sớm lúc nắng mới mỉm cười, nay đến trưa trờ trưa trật nắng quạu quọ nhăn mày nhăn mặt mà vẫn chưa tới. Sài Gòn - Biên Hoà, cho tôi chiếc xe đạp, nhổm mông đạp rút một hồi là tới ngay. Đã vậy mà còn: Pịp! Pịp! Nghe như tiếng động cơ bị tắt máy. Được một lúc thì tắt máy thiệt chứ đâu còn "nghe như" nữa!

Tiếng ông lơ xe ồm ồm:

- Bà con cô bác ơi! Ông ngoại bà ngoại ơi! Làm ơn xuống xe, phụ đẩy vô lề đường.

Tiếng bà già cằn nhằn:

- Xe cộ gì thấy ớn lạnh! Mầy đẩy một mình mầy đi á!

Tiếng ông già cự nự:

- Cậu à! Đi xe, tiền tui trả đủ. Đẩy xe có trả lại tiền tui hông?

Tiếng người lao nhao:

- Ừ! Trả bớt lại tiền, tụi tui phụ đẩy cho!

Ông lơ xe xuống giọng:

- Thôi mà ngoại ơi! Ba má ơi! Cho con nuôi vợ con với! Mấy người hổng đẩy thì tối nay ngủ lại đây! Chị Ba à chị Ba! Nhổm nhổm cái đít lên cho tui lấy thùng đồ nghề cái coi? Chèn ơi! Má ơi! Sao má nhổ cổ trầu lên thùng đồ nghề của tui?

- Xí! Mầy biết cái gì mà sửa? Xe nằm chình ình rồi mới làm bộ làm tịch!

- Chị Ba à! Lấy cái đít ra chút nữa coi?

Gió vẫn hiu hiu thổi. Chim chóc không lả lơi bay lượn như ngày xưa. Hình như chim đã tìm được hướng bay tị nạn. Chỉ có mấy cây cột đèn ngả nghiêng chịu đựng cho số phận đổi thay. Cột đèn quên bẵng đi nhiệm vụ của mình vì cột đèn ngày nay đã quen âm u với bóng tối nhiều hơn là tiếp điện để toả hào quang rực sáng. Không đủ điện, đời tối thui.

Dưỡng Trí Viện Biên Hoà có nhiều tàng cây to bao phủ, toả bóng mát cả một vùng. Nhưng bên trong thì xơ xác tan nát tất cả từ vật dụng y khoa cho đến con người.

Những người mất trí cũng chịu đựng cuộc đổi đời.

Có người tự dưng tỉnh hẳn lại vì chợt nhận ra rằng, chế độ mới nầy "phê" quá! Phải làm người tỉnh trí mới chống chọi lại được. Có người đang tỉnh cũng bỗng cảm thấy "phê" luôn! Phải làm người mất trí mới quên đi những cọ mài của chế độ mới.

Tôi gặp bác sĩ Lân một mình. Thằng Thạch bự con mà nhát như con gái tuổi dậy thì. Nó đứng lại ở bên kia đường chếch chếch cổng bệnh viện. Nó đủn tôi vô.

Bác sĩ Lân độ ba mươi mấy tuổi, người tầm thước mang mắt kiếng cận khoác áo choàng trắng, dáng thông minh. Nhìn phớt qua là biết liền phe ta.

Hồi đó người ta hay nhìn tướng để đoán phe, hễ phe ta thì dễ cởi mở hơn một chút. Còn phe mấy ông mặt xám thì phải lựa lời cho trôi.

Tôi làm động tác lỡ dở chào tay trong quân đội rồi như sực nhận ra là không nên, tôi bỏ tay xuống. Chỉ một thoáng ngắn đó thôi cũng thấy mắt anh Lân chớp chớp cảm động. Có lẽ những kỷ niệm dĩ vãng của anh xẹt về như ngọn sóng chợt lớn cuốn lên rồi tan đi. Sống nghẹt thở thì người ta nhớ nhiều về thời lúc còn thở nhẹ.

- Chào Thiếu Tá... í... xin lỗi!

Tôi cố ý gọi ảnh cấp bậc cao hơn dù tôi đoán được rằng chắc có lẽ ảnh là Trung Uý hay Đại Uý. Bên Quân Y chậm lên lon hơn.

- Thưa bác sĩ, em tên Kiến, anh bà con của thằng Thạch (đưa tờ giấy ra). Hôm nay em đưa nó lên để bác sĩ tái khám.

Anh Lân nói tiếng Nam, giọng còn nhà quê hơn tui:

- Dậy chứ chú Thạch đâu?

- Dạ! Hồi nãy xuống xe đi gần tới bệnh viện thì nó sợ bác sĩ quá, nó chạy mất rồi! Em, cái chân cà nhắc rượt theo hổng kịp!

- "Vậy! Tui tái khám cho ai? Cho chú hả? Chú có điên hông?". Ảnh nheo nheo con mắt cười cười.

- Dạ! Em đâu có điên đâu bác sĩ.

- Hồi đó ở đơn vị nào?

- Dạ! Sư đoàn 2 Bộ Binh.

- Có cải tạo hông?

- Dạ có!

- Trại nào?

- Kà Tum rồi về Hóc Môn thành Ông Năm.

- Bao lâu?

- Dạ! 4 năm mấy

- Vậy thì điên được rồi!

- Hì hì! Phải công nhận bác sĩ diễu có duyên thiệt!

Bác sĩ Lân nhìn nhìn ra sân trước. Có mấy người quên cuộc đời đang lững thững bước ngập ngừng. Có ba cô y tá ngoài sân. Tôi nhận biết có một người từ Bắc vô, vì cái dáng của cổ. Hai người kia thì tướng thon thả, còn cô thì không. Và mái tóc tết hình con rít coi thiệt sợ hãi. Kiểu tóc bím mà hồi nhỏ tôi thấy con gái Sài Gòn có thắt, nhưng sao coi nó có vẻ nhí nhảnh và trẻ trung hơn, thấy nó gọn gàng và ...nhỏng nhẻo. Còn cô thì ...!! Có nhiều cái không thể hiểu nỗi hay giải thích được.

Bác sĩ Lân bỗng tằng hắng:

- Chú muốn tui làm cái gì?

Trời! Thiệt là sướng cho tôi! Tôi tưởng, tôi phải đi cầu cạnh, phải uốn lưỡi nài nỉ, phải cười cười cầu tài. Không ngờ hồng phúc của thằng Thạch sáng ngời. Tôi được quyền ra giá:

- Thưa bác sĩ, xin bác sĩ cho một giấy chứng nhận thằng Thạch vẫn còn bị bệnh và xin cho một ít thuốc an thần.

- "Thuốc an thần lúc này bán chạy lắm à nha!". Ổng cười con mắt nhấp nháy sau làn kính.

Chèn! Ông cận thị nầy nói trúng phóc ngay tim đen của tôi. Tôi bỗng đỏ mặt. Ít ra tôi cũng còn biết mắc cỡ. Tự nhiên tôi đưa tay gãi đầu:

- Nếu bác sĩ không có thuốc thì cho em xin giấy chứng nhận không thôi!

- Tui cho chú cả hai! Thôi ráng lên!

- Cám ơn Niên Trưởng!

Thấy tôi hí hửng bước ra. Thằng Thạch quýnh lên:

- Sao được hông mậy? Được hông?

- Được chứ mậy! Anh mầy mà!

Tôi đưa tờ giấy chứng nhận và bọc thuốc bác sĩ Lân cho. Cu Thạch mừng húm:

- Bán mầy! Bán hết mớ thuốc nầy. Được giá lắm đó!

Ông bác sĩ cận thị chứ mắt ổng nhìn xa thật! Xuyên qua vách tường thẳng tận vào lòng người. Ổng biết thế nào thằng Thạch cũng bán thuốc dù cho nó có điên thật đi nữa.

- "Mấy cậu có thuốc men gì muốn bán hông?". Một bà sồn sồn đứng đợi sẵn ở vòng sân trước bệnh viện trờ đến.

- Có một mớ thuốc an thần nè chị!

Chị sồn sồn nắm tay hai đứa kéo ra xa xa vì một nhóm chạy thuốc Tây đánh hơi được đang kéo tới.

- Mà sao chị biết được thuốc giả hay thiệt đây mấy cậu?

- Chị ơi! Mới ở trong bệnh viện ra nè!

- Mấy cậu hổng biết chứ bệnh viện cũng có thuốc giả nữa!

Đời nầy thiệt ra mà nói chứ giả thật thật giả hổng biết đâu mà mò. Hồi trước, người ta chỉ dám nghi mấy minh tinh màn bạc mới có thể xài đồ giả. Chứ bây giờ ...hư, thực mơ màng quá!

- Hay là tui cho chị uống thử hai viên coi có phê hông nha?

- Ý! Tui uống lỡ nó phê thiệt rồi người ta giựt xe tui thì tui bứt vốn liền!

Đám kia bắt kịp đám nầy. Thôi ai nấy say sưa trả giá, nài kéo khen chê, tiền bạc nhứ ra rút vô, môi trề trề mắt trợn trợn nhìn thuốc nhìn người đo đạc tính toán. Rồi thì cũng được giá, bán hết 40 viên cho chị sồn sồn, giữ lại 10 viên làm bằng chứng cho bà chủ tịch xã vùng kinh tế mới Long Khánh sắp đi.

- Cám ơn hai cậu nha!- Chị sồn sồn nói - Còn cái gì bán nữa hông?

Thằng Thạch chỉ tôi:

- Còn thằng nầy, bán luôn!

- Ý! Cẩu còn trẻ quá! Mua về tui nuôi biết đến chừng nào? Hi hi!!

Tụi tôi đi ngược ra lại, đón xe đò về Long Khánh.
........

(Còn tiếp)

XXG
05-26-2021, 01:31 AM
Long Khánh

Đường đi Long Khánh có ngã rẽ đi thẳng ra Vũng Tàu, có biển Thái Bình mộng mơ.
Nhiều người mơ mộng được nhào xuống biển, bơi sải hay thả ngửa rời khỏi cuộc sống với chế độ chỉ biết bòn mót của cải dân. Chế độ có tiếng khóc than to hơn tiếng cười hoan lạc.

Nhưng nhiều quá những nút chặn. Chưa ngửi được mùi thơm mặn nồng của nước biển thì đã bị đuổi lại về miền núi đồi khô khan, máng cái cày trên vai, kéo qua cánh đồng không lúa không nước.

Kéo cái cày khơi khơi trên cánh đồng khô...

Ngửng mặt nhìn trời, nước mắt chảy. Cúi xuống nhìn đất, lệ còn rơi.

Xe đò ngừng lại ở vùng bụi cát đã chuyển qua màu hung. Khu kinh tế mới của thằng Thạch chẳng mới tí nào, cũng èo uột nhà tranh trống hóc, chẳng kinh tế lợi lộc gì cả.

Chỉ sản xuất được những tiếng thở dài. Như khu kinh tế mới Đồng Xoài tôi ở cũng cùng một thảm cảnh, cùng một tiếng thở dài như nhau.

Tiếng ông già người Hoa lơ lớ:

- "Lồ" chó chết! "Pắt" tui lên đây để làm cái "léo" gì chớ?

Hai đứa cuốc bộ từ con lộ lớn dẫn vào. Thằng Thạch có vẻ ngần ngại, ngập ngừng. Tôi tìm lời an ủi:

- Đừng lo mầy ơi! Nếu hổng được thì mầy cứ ở lại.

- Ở lại chết mầy ơi!

- Cái gì mà chết?

- Đói thê thảm, không có làm ăn được cái gì. Không có trồng trọt được cái gì! Đ.Mmm!!

Hồi đó thằng Thạch lái phi cơ trực thăng có cây súng đại liên rượt mấy anh mặt xám bắn xì khói. Bây giờ mấy ảnh đì thằng Thạch vào chốn đìu hiu nhà tranh vách lá, một mảnh đất cằn, hóa phép sỏi đá biến thành cơm vậy cũng công bình rồi. Tôi nói cho nó nghe điều đó và tôi ngu quá thêm vô câu: "Vậy là còn khoan hồng lắm lắm!" Nó chửi tôi thôi né không kịp.

Đến trước sân căn nhà tranh dùng làm văn phòng chủ tịch xã. Tôi nói nhỏ bên tai thằng Thạch: "Mầy nghe theo tao nha mậy. Đừng vô. Đợi tao kéo hãy vô nha!"

Cu Thạch bây giờ chẳng những đầu tóc bù xù, hai tay cầm hai chiếc dép râu, mặc cái áo cũ cụt ngủn, cứ nắm vạt kéo kéo xuống như muốn cho nó dài ra thêm một chút nữa. Nó mới bị thói quen nầy kể từ lúc mua bộ đồ ở bến xe An Đông. Mặt mày quằn quện bụi đỏ và mồ hôi vì tôi không cho nó rửa mặt. Nó phải điên thật mới được.

Sĩ Quan Không Quân Cu Thạch ngày hôm nay thành người mất trí giả mà thiệt, thiệt mà giả.

Sĩ Quan Không Quân Cu Thạch ngày hôm nay không còn Tổ Quốc Không Gian để bảo vệ nữa.
Sĩ Quan ráng lo bảo vệ những tháng năm buồn của Sĩ Quan.

Tôi một tay chống gậy, một tay đẩy một tay kéo, miệng gầm gừ: "Đừng đi! Đừng đi!" Thằng Thạch cái mặt chù ụ, đứng cho một đống. Thiệt ra nó muốn đi lắm, đi tìm một chiếc phi cơ có quả bom nguyên tử trên đó, bay lên thả xuống cho tan tành cái phiền muộn của cuộc đời nầy.

Trong nhà thấy ngoài sân chộn rộn bèn bước ra ba người. Một người đàn bà đứng tuổi thấp người hơi mập, tôi đoán là bà Năm chủ tịch xã. Một ông mặt xám ngắt, bộ đồ vàng công an, cầu vai đỏ chót, phe phẩy nón cối muốn quạt đi cái nắng chiều nhơm nhớp của vùng cao su và một cô, tóc con...rít. Vậy là hai con rít. Một cái một đực.

- "A! Cái dì dậy mấy cậu?". Giọng Nam Kỳ vang lên từ người đàn bà đứng tuổi.

- Dạ! Xin lỗi! Có phải dì là chủ tịch xã?

- Ừ! Tui đây.

- Dạ! Cháu là anh bà con của thằng Thạch ...- tôi ngó qua ông mặt xám và cô tóc con rít khẽ gật đầu chào. Hai người chào trả - ...dẫn nó lên đây trình diện dì và ...dượng - ngó ông xám ngắt - ...và cô - ngó cô con rít - ...a...hồi nãy, cháu có đưa nó ghé qua Dưỡng Trí Viện Biên Hòa ...- tôi ráng kiếm chữ " trịnh trọng high class " tôi xài, để cho mấy người đó có cảm tưởng rằng họ cũng quý phái luôn - ...mà cái nó vụt bỏ chạy, báo hại bác sĩ Lân và quý vị Gạt Đờ Co bảo vệ Thần Kinh phải rượt theo bắt lại, nhốt vô phòng Cách Âm rồi chích cho một mũi Rờ Mi MạcTen mới êm.

Tự nhiên tên rượu Cỏ Nhắc (Cognac) Rémy Martin- ở đâu nhảy vô trong óc của tôi làm tôi phun ra như thiệt. Tôi liếc liếc thằng Thạch, nó đang ngồi bẹp dưới sân cát, hai chân duỗi ra. Chắc có lẽ mệt và đói nữa, nay nghe nhắc tên rượu, nó lại càng mơ màng đến bữa ăn thịnh soạn có chất nồng màu hổ phách óng ả.

Dì Năm bỗng lăng xăng:

- Cậu Thạch đây hả cậu Thạch? Chèn ơi! Hồi đó đẹp trai lắm mà!
(Mất nước thì còn đẹp trai cái ...khỉ gì nữa?)

- Dạ thưa dì và dạ thưa...dượng -hình như ông mặt xám khoái nghe tiếng dượng giọng Nam Kỳ của tôi, như câu xề vọng cổ lúa Đồng Tháp với miệt vườn trái cây nhãn lồng, nó ngọt và nó mơ mơ vì tôi thấy mặt ổng cứ ngây ngây. Còn dì Năm thì tôi cứ một dạ thưa, hai dạ thưa làm bả khoái tỉ, cứ như bả đang làm Tổng Thống. Riêng em "con rít" thì tôi hổng dám đụng chạm đến, lỡ tôi ngọt ngào quá em đâm ra mê tôi thì chết tía luôn! - suốt cả tháng nay nó không ăn cơm. Nó cứ lang thang ngoài đường.

- Tội nghiệp hông! Thôi! Cậu Thạch đứng dậy đi vô nhà rồi dì Năm kiếm cái gì cho ăn.

Tôi nhìn nó. Ánh mắt tôi nói: "Khoan!"

Nó vờ lờ đờ nhìn tôi: "Tao biết chớ!"

Kẻ thua trận làm nũng được lúc nào thì phải chộp cơ hội cho đỡ sầu.

Dì Năm năn nỉ thêm một chập.

Ánh mắt tôi: "Đi!"

Ánh mắt nó: "Tao biết chớ! Đói bụng muốn chết!"

Trên bàn một ấm nước trà, nải chuối sứ còn năm sáu trái, vài cái bánh ít bao lá chuối, năm bảy thỏi kẹo mè. Tất cả đặt trên cái mâm nhỏ. Ông mặt xám rót trà ra cái chén nhỏ:

- Mời cậu xơi nước

- Cám ơn dượng

A! Ông Tưng nầy. Mời tôi uống nước.

Hồi đó nếu gặp ngoài mặt trận thì cả hai đã nhào tới bóp cổ nhau rồi. Nay ông mời tôi uống nước như một sự hối lỗi của chữ "giải phóng" mà ông ngộ nhận bao năm nay.
Kể từ tháng tư, bảy lăm. Mọi sự cởi bày. Những con mắt có võng mô đều thấy được sự thật rõ ràng: Từ ngữ "Giải Phóng" rõ ràng là một sự Xâm Lược.

Nay uống chén trà thông cảm. Thông cảm khỉ gì nổi?

Tôi uống cho đỡ cơn khát mà thôi, cơn khát của con đường còn đi đang bị gián đoạn.

Tôi uống cho đỡ tức một số đàn anh không chịu chơi bàn cờ tề chỉnh.

Tôi biết thằng Thạch cũng cùng nổi tức và cơn khát như vậy. Tôi cầm chén nước đến bên nó, gừ gừ trong họng: "Mầy phun ra"

Nó phun ra...

Hai đứa đang diễn một vở kịch: "Những người ở lại chịu nhiều đắng cay".

Mà thật ra đâu phải là một vở kịch?

Đây là thực tế rõ ràng mà! Không cần cố gắng cũng nhập vai.

Toàn xã hội, toàn quốc đang trân người gánh cơn nạn khổ.

Thằng Thạch phun nước vào mặt tôi. Tôi đáng bị phun nước vào mặt lắm, cho dù là nước miếng nói chi nước trà?

Thất phu hữu trách mà! Giang sơn bị giựt. Thằng Thạch và tôi lại là những người lúc ra trường có thề bảo vệ giang sơn.

Nhưng cũng nên kêu oan một tiếng với Ông Địa. Cu Thạch và tôi còn quá trẻ để gây ra cột mối chiến tranh. Cu Thạch và tôi còn trẻ quá để gánh chịu sự trả thù bỉ ổi.

Nhưng thật tình mà nói, Cu Thạch và tôi còn đủ trẻ để gánh mọi tai ương hơn là để tai ương trùm khắp lên bờ vai yếu ớt của các quả phụ và trẻ thơ, của những cụ già bô lão và những người không còn nguyên vẹn hình hài. Nhưng cơn trốt dữ dằn ác đức đã trùm lên khắp cả. Nam Phụ Lão Ấu. Không tha một ai!

- Cậu Thạch à, ăn chuối nha?

Cũng con mắt ngó: "Khoan!"

Cũng con liếc lại: "Đói quá!"

Rồi thêm câu mời, tiếp câu dỗ dành. Cu Thạch chơi khiêng luôn nguyên mâm, xề cạnh góc nhà, ngồi bẹp xuống đất, bóc vỏ chuối ăn liền.

Tôi vờ hét lên:

-Mầy có cám ơn dì Năm với dượng Tưng chưa hả?

Nó lúng búng cám ơn. Nó quẹt nước mũi. Nó ngồm ngoàm quả nữa. Nó bỏ cái mâm không xuống đất. Nó ôm phần còn lại trong lòng bỏ ra ngoài sân ngồi bẹp xuống cát, ngửng mặt nhìn trời.

- Thế cậu trước cũng là ngụy quân nhể?

Tôi chối phăng:

- Thưa, tôi là giáo viên.

- Thế cậu là Phó Tiến Sĩ?

Tôi không biết học đến đâu để thành phó tiến sĩ? Thời tôi học cứ tiến sĩ là tiến sĩ. Kinh tế cứ là kinh tế chứ chẳng Kinh Tế Hạch Nhân hay Kinh Tế Dịch Hạch gì cả. Bảo Sanh Viện Từ Dũ là cứ Bảo Sanh Viện, không Xưởng Đẻ, Xưởng Đái gì?

- "Dạ! Dạ! Đúng rồi! Sao dượng biết hay quá vậy? Bộ dượng cũng là phó tiến sĩ?" Tôi cười lớn lên, mắt mở to như vừa khám phá được một vĩ nhân.

- Không! Tôi thì chẳng học hành gì nên hồn. Cứ nghĩa vụ mà đi, đâm lỡ dở cả!

Trời! Nếu ai cũng dám nói thật như ông già đang ngồi trước mặt tôi, thì ruộng bác, bác làm. Ruộng tui, tui mần. Không có chiến tranh lôi thôi giành giựt.

Ông già trước mặt tôi bị người ta xài hết một đời. Chiều về lỡ dở. Vào đến miền Nam mới ngẩng lên thấy được sự thật phũ phàng.

Giấy tờ gia hạn cho thằng Thạch được ký mau lẹ, con dấu được dùng hai tay ấn ấn cho trịnh trọng lại còn được mời ở lại ăn cơm và ngủ qua đêm.

Thôi! Có cho tiền tôi cũng không dám ở gần. Ai biết đằng sau khuôn mặt của màu xám có thêm một màu gì nữa? Tôi hỏi xin mua lại vài lon gạo để về nhà thằng Thạch nấu ăn. Dì Năm không lấy tiền. Tôi cám ơn rối rít. Dì Năm cho thêm mấy con khô cá sặc. Thiệt là số của thằng Thạch lúc nào cũng đỏ.

Lần đầu tiên trong ngày, tôi thấy nụ cười nhẹ nhõm của thằng bạn:

-Ê! Kiến. Tao với mầy qua thăm Chín.

-Chín nào? Chín là ai?

-Chín dễ thương mà tội nghiệp lắm, chồng Chín còn đang ở tù cải tạo.


___o0o___

Chín đứng đó. Trong buổi hoàng hôn, giữa đám cỏ tranh, nhìn mút lên trời, thăm hỏi ánh nắng chiều vàng rọi xuống. Đứa con gái 6 tuổi đứng kế bên, nắm tay mẹ nhìn bâng quơ.

Thạch gọi:

-Chín ?

Nàng quay lại.

Khuôn mặt son trẻ, mắt buồn hiu ánh màu trông ngóng đợi chờ. Nắng nám trên tóc và da nhưng nắng chưa đủ năng lực phá đi khuôn sắc mỹ miều.

Tôi thấy một quầng thâm dưới mi mắt của nàng. Nhưng quầng thâm ấy cũng chưa đủ cường độ làm nàng già hơn, mà quầng thâm ấy chỉ làm người ta xót xa khi nhận thấy người con gái nầy không có được một ngày vui từ lâu lắm rồi.

Chín nở nụ cười mỉm gặp người quen:

-A! Anh Thạch! Lâu quá rồi không gặp lại anh. Bệnh tình của anh bớt chưa? Như Tiên chào hai bác đi con.

Con nhỏ mắc cỡ, khoanh tay lí nhí trong miệng. Thằng Thạch cười hì hì đưa hết chuối, bánh và kẹo cho nó. À! Thì ra hồi nãy nó làm liều chơi hết một mâm là cố ý để giành cho con nhỏ dễ thương nầy. Tôi cứ tưởng nó giành phần cho tôi.

Chín xoay qua:

-Dạ! Chào anh

Tôi nhìn Chín:

- Dạ, chào chị. Tui là Kiến, bạn của Thạch trong tù cải tạo.

- Em nhỏ tuổi hơn. Anh cứ gọi em là Chín hay gọi tên thật của em là Lành. Chồng em là Hoàng Giang, Biệt Động Quân cũng đang ở tù cải tạo. Sao lâu quá vẫn chưa về?

- Hoàng Giang? Biệt Động? Có phải ảnh cao bằng tui nhưng có bề ngang hơn và có râu quai nón?
Mắt Chín mở to mừng rỡ:

- Dạ! Đúng rồi! Anh có quen ảnh hả? Ảnh lúc nầy ra sao? Có khoẻ không? Lâu lắm không có thư ảnh về. Lần cuối em gồng gánh lội bộ vô tuốt trong rừng Kà Tum thăm nuôi. Trời ơi! Lúc đó ảnh ốm nhách.

Cải tạo nào cũng ốm nhách. Mà không chỉ những tù cải tạo. Dân ngoài cũng ốm nhách! Ốm nhách như ...Chín. Tụi tui ở tù vòng trong ốm hơn. Chín và dân chúng ở tù vòng ngoài, ốm bằng. Cả nước từ Nam Trung Bắc cùng ở tù. Tơi tả như nhau.

-Vậy Chín tên là Bình Yên Yên Lành. Bé Như đẹp như mẹ, nên Hoàng Giang gọi luôn là Như Tiên. Hoàng Giang kể tui nghe vậy.

Chín cười lỏn lẽn thẹn thùa:

-Ảnh lúc nào cũng ghẹo mẹ con em.

-Vậy thì đúng Hoàng Giang tui quen rồi.

Trung Uý Biệt Động Quân Hoàng Giang hồi xưa mặc quân phục có phù hiệu con cọp nhe nanh, hay kể tôi nghe lúc còn ở trong rừng thẳm Kà Tum về người vợ hiền Bình Yên và đứa con gái nhỏ Như Tiên. "Như bài ca Mộng Thường của Nhật Trường" Tôi cười hỏi. Hoàng Giang lắc đầu, mắt đăm chiêu.

Không! Không phải tên em là Mộng Thường yêu anh chàng Biệt Động trong một ngày cuối đông của nhạc sĩ Nhật Trường. Em tên là Trương Thị Lành, mà Biệt Động Quân Hoàng Giang vẫn hay cười cười nịnh vợ: "Cưới em người đẹp, đời anh hạnh phúc, đời anh Yên Lành"

Nhưng người đẹp Yên Lành của Biệt Động không có bình yên chút nào. Nàng thay áo dài mặc vào bà ba theo chồng ra mãi tận Pleiku. Vùng đóng quân, vùng nóng hổi chiến tranh. Vùng ăn đạn pháo kích nhiều hơn ăn cơm. Vùng có bụi đỏ nhưng không làm má em thêm hồng mà lại làm cho đôi con mắt em trũng sâu của những đêm dài thức khuya cầu nguyện cho chồng bình yên.

Và bây giờ thì tại đây, Long Khánh, cũng có những cuộc đất đỏ sau trận mưa quánh lại thành sình quện vào gót em đi, nặng nề như em gồng cả một gánh sầu bi đau khổ. Em một mình với cỏ tranh. Em một mình với con thơ. Em một mình với chuỗi đời không còn mơ ước. Em được người chồng anh hùng gọi tên là Bình Yên nhưng đời em bị xé nát làm trăm mảnh.

Chồng em, Hoàng Giang vượt ngục. Con Cọp không chịu bị nhốt trong chuồng, Con Cọp tìm đường về với Lành, người vợ yêu dấu nhỏ nhoi ẻo lả trước cơn giông đời. Con Cọp tìm đường về ước muốn gặp lại đôi mắt ngây thơ ngút ngàn của đứa con 6 tuổi đẹp như tiên mà ngày đi Cọp cứ tưởng là chỉ có 10 ngày xa cách. Nay đã hơn 4 năm. Mười ngày phải nhân cho ngàn mấy lần mới đủ?

Cọp bị gạt một cú quá cỡ thợ mộc. Không còn thước tất để đo. Nên Hoàng Giang tìm đường về, nửa đường bị bắt lại. Giam vào cái cửi, nửa trên không khí, nửa dưới ngập nước sình lầy.

Tôi không dám kể Bình Yên nghe.

Tôi chỉ gật gù: "Vẫn vậy! Vẫn mạnh! Sắp về." Ít nhất mua dùm nàng một hy vọng qua một ngày, đoạn một tháng, kế một năm.

- "Chín à! Chín có thể nấu cơm ăn không?" Thạch hỏi.

Chín thoáng vẻ bối rối! Gạo đâu nấu cơm? Gần lò bếp là nồi khoai mì còn mấy củ. Mẹ con ăn khoai mì lâu nay trừ cơm. Chín cắm một hàng khoai mì ngoài hè. Đất nầy, đất kinh tế mới ưu việt chỉ có cỏ tranh và khoai mì sống nổi.

Phải làm con gì để ăn cỏ tranh? Nhưng hễ làm con người dưới chế độ cộng sản thì cứ khoai mì mà đá tới. Thêm một vá nước cốt dừa chan lên? Rãy ít muối mè, phủ lên một muổng nhỏ đường cát trắng? Vậy là tư sản mại bản mất! Vậy là phạm vào luật của nhà nước ngay. Nhà nước ta đã rần rần quản lý tất cả những gì ăn được. Ngay cả những thứ không ăn được, nhà nước ta, Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa cũng quản lý luôn.

Nhà nước quản lý: Của cải và nụ cười.
Dân chỉ được làm chủ: Đói đau cùng nước mắt.
Đời sao thê thảm!

- Thạch có mấy lon gạo với hai con khô. Chín nấu cơm nha? Mình cùng ăn luôn.

Lại do dự, lại tự ái của người tự trọng.

- Hay là Thạch đổi một khúc khoai mì của Chín? Chịu ha?

Chín chớp đôi mắt. Mắt đỏ hoe. Nhìn con. Con lâu lắm chưa ăn cơm. Con lâu lắm chưa ăn chuối. Con lâu lắm chưa ăn bánh ít. Con lâu lắm chưa biết kẹo là gì? Như cả một thế kỷ. Phần nầy, lỗi của mẹ!

Tất cả bước vào nhà. Trời tối. Nhúm bếp nấu cơm. Nướng khô. Hâm nóng tình bạn bè mới gặp đã thân vì cùng cảnh ngộ.

Trên cái bàn được kết bằng tre. Tôi thấy một cuốn vở học trò chi chít những chữ như một quyển bút ký ghi lại tâm tình. Có bài thơ dài thậm thượt, bài thơ không dứt. Bài thơ não nuột chưa tìm được đoạn kết. Tôi chỉ thấy thoáng qua được một đoạn:

Vẫn như vùng núi đồi xưa
Vẫn cỏ lơi trong gió
Vẫn tiếng cười của trăng
Vẫn là căn nhà nhỏ
Vẫn chỉ em một mình

Bỗng dưng tôi mơ ước, ngay ngày mai tôi sẽ gặp được Quân Phục Quốc để thằng Thạch sẽ bay trên trời thả bom, cần thêm thằng bạn Đạo, Hải Quân từ ngoài biển câu cà nông vào. Cả hai yểm trợ tôi xung phong chiếm lấy mục tiêu. Mục tiêu của Hoà Bình và Thịnh Vượng. Mục tiêu của cánh đồng cỏ non xanh mướt có con bò thảnh thơi nằm nghĩ, có tiếng hò gặt lúa của nông phu, có con đò xuôi theo giòng nước. Có lục bình trôi.

Trả Con Cọp Hoàng Giang về với Chín và Như Tiên.

Trả đời bình yên về lại người dân cày. Trả tôi về với chồng sách vở và mộng mơ tuổi thơ.

Trả thằng Thạch về với ...bác sĩ Lân.

... Hôm nay...

... Bây giờ...

...Không biết phi công Văn Thạch có còn giữ củ khoai mì kỷ niệm của Chín không?

Trương Thị Yên Lành có được bình yên?

Cọp đã về chưa?
..........

_______o0o_______


(Tác Giả: Kiệt Trần/Kiến Hôi)

XXG
05-28-2021, 01:33 AM
_____NGƯỜI BẠN ẤN BÁN DỪA




Ba năm trước trong một lần đến Ấn Độ, tôi cùng một người bạn Ấn đi viếng một ngôi chùa Hindu cách Chennai chừng hai giờ lái xe. Trên đường về ngang qua một thị trấn nhỏ, hai đứa khát nước nên dừng xe lại bên một quày bán dừa tươi.

Người bán dừa là một thanh niên còn trẻ, nói được ít tiếng Anh, khó khăn nhưng cũng đủ để khách hàng hiểu ý. Hình như anh bán dừa không gặp người Á Đông nhiều nên thích bắt chuyện với tôi. Nói chuyện một chốc chúng tôi trở thành bạn. Người Ấn miền nam da đen hơn người Ấn miền bắc. Tôi hỏi tên anh nhưng tức khắc quên ngay sau khi anh trả lời.

Trước khi chia tay, tôi và anh chụp chung vài tấm hình kỷ niệm. Tôi chỉ anh xem hình anh trong máy. Hình rất đẹp và anh rất thích. Tôi hứa có dịp sẽ tặng cho anh ta những tấm hình màu in trên giấy láng.

Một du khách và anh bán dừa trên đường của một thị trấn Ấn Độ đông đúc, nghèo nàn, gặp lại nhau là chuyện rất hiếm. Những lời hứa dù rất thành thật rồi cũng chỉ là gió thoảng, mây trôi sau đó. Ước muốn, thời gian và điều kiện không phải bao giờ cũng là những kẻ đồng hành hòa thuận.

Sang năm sau, người bạn Ấn Độ đưa gia đình đi chùa Hindu, trên đường về lại tình cờ thấy anh bán dừa lần nữa. Người bạn không có ý mua dừa nhưng ghé thử người bán dừa còn nhớ mặt hay không.

Anh nhớ rất rõ và rất mừng. Anh hỏi thăm đủ thứ về tôi như một người thân đang ở một phương trời xa cách. Anh dặn người bạn Ấn cho anh gởi lời thăm và nhắc đi nhắc lại nhiều lần nhớ báo tin cho tôi biết anh ta vừa cưới vợ. Dường như anh có một niềm tin sâu xa trong lòng rằng tôi sẽ rất vui khi biết tin anh lập gia đình.

Người bạn Ấn sau đó gọi sang Mỹ “Không biết mày còn nhớ không nhưng người bạn bán dừa của mày gởi lời thăm và muốn báo tin mừng anh ta vừa cưới vợ.”

Tháng Tư năm ngoái tôi lại đi Ấn. Trước khi đi dặn vợ mua sắm một ít quà. Một vài chiếc áo cho anh và mấy hộp chocolate cho vợ anh. Bà xã còn ra Walmart sang mấy tấm ảnh thành nhiều cở khác nhau.

Khi tới Ấn tôi phải năn nỉ người bạn Ấn đưa đi thăm anh bán dừa. Hai đứa đều quá bận nhưng tôi nhất định không chịu “để đó có dịp trao lại giùm như người bạn Ấn đề nghị.

Quà không đáng giá bao nhiêu và chỉ có tính tượng trưng nhưng giá trị tinh thần rất lớn.

Cùng chứng kiến một cảnh đời nhưng chúng tôi nghĩ và nhìn từ hai góc khác nhau. Người bạn Ấn sống trong một quốc gia có 1.2 tỉ đồng bào của anh ta, trong khi tôi chỉ có một người bạn bán dừa. Cuối cùng tôi năn nỉ được anh và chúng tôi dành một buổi chiều để đi đến thị trấn giữa đàng năm trước. Tự nhiên tôi cũng cảm thấy vui trong lòng khi sắp gặp lại anh bán dừa.

Khi đến thị trấn trời đã xế chiều, nhưng tiếc thay quầy bán dừa không còn ở đó. Nơi người bạn bán dừa của tôi đứng trước đây nay chỉ còn khoảng đất trống. Người bạn Ấn hỏi thăm những tiệm chung quanh, mọi người đều nói anh đã không còn bán dừa ở đây từ nhiều tháng trước nhưng không ai biết anh dọn đi đâu. Hai đứa thất vọng.

Trước khi ra về, tôi chợt nghĩ những tiệm bán dừa lẻ chắc phải biết nhau vì có thể họ đều nhận dừa từ một nguồn bán sỉ. Chúng tôi đi tìm một tiệm bán dừa khác trên đường đó. Tôi đưa tấm hình của bạn tôi ra cho chủ quày và những người đứng gần nhận diện. Một người nhận ra anh. Thì ra anh vẫn bán dừa nhưng dời sang một con đường khác cách đó không xa.

Cuối cùng tôi gặp lại anh bán dừa. Anh mừng như một gặp lại người thân vừa ở Mỹ về. Tôi đưa quà của vợ mua cho anh. Anh ngắm nghía những tấm hình. Một nhóm khá đông người Ấn đang ngồi trò chuyện trước một tiệm ăn. Anh đến khoe hình và giải thích cho mọi người nghe một cách hãnh diện.

Một người đứng lên nói tiếng Anh rất chính xác và lưu loát, thay mặt cho nhóm dân Ấn, cám ơn tôi đã đi từ một nơi rất xa chỉ để mang những tấm hình tặng bạn. Tôi nói vài lời “không có chi” và bắt tay từng người. Bạn tôi chặt dừa mời. Tôi móc túi lấy tiền trả nhưng anh gạt tay tôi. Để anh vui tôi không trả tiền như lần trước.

Trời đã về chiều và tôi phải ra đi. Cầm tay anh bán dừa khá lâu. Tôi báo anh biết vì nhóm của tôi không còn làm việc ở phía nam này nhiều nữa nên có thể tôi không còn dịp để trở lại, dù sao, mong anh luôn nhớ một điều, tôi biết ơn trong đời đã có thêm một người bạn, sẽ luôn nghĩ về anh và mong anh cũng vậy. Anh mỉm cười, gật đầu và nhìn theo tôi cho đến khi chúng tôi cùng chìm khuất trong rừng người.

Ấn Độ Dương mênh mông nhưng còn giới hạn, tình người ở khắp nơi.


_________o0o________
(Trần Trung Đạo__)

XXG
05-29-2021, 03:42 PM
__ Lâu lắm rồi, dễ cũng hơn 15 năm trước, lần đầu tiên đọc qua một bài viết của tác giả Nguyễn Trần Diệu Hương về những ngày cô ấy dạy học (kèm) cho trẻ em không thân nhân ở trại tỵ nạn, tôi đã thích ngay văn phong nhẹ nhàng của tác giả. Hôm nay, XXG xin giới thiệu đến ACE một bài viết khác của tác giả. Một bài viết về tình anh em bạn bè. Thứ tình cảm bền vững và sâu đậm của những người chung chí hướng và đồng cảnh ngộ. Những người đã chấp nhận đánh đổi tuổi trẻ và sinh mạng của chính mình, lìa xa gia đình và quê hương để tìm hai chữ Tự Do - lánh xa loài quỷ đỏ vô thần.


_______o0o______

Lời toà soạn: Tác giả một mình vượt biển giữa thập niên 80 khi còn tuổi học trò. Dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, cô nhận giải danh dự 2001. Bốn năm sau, cô nhận thêm giải vinh danh tác phẩm 2005 với bài viết "Tháng Tư, Còn Đó Ngậm Ngùi," kể về tình gia đình chung thuỷ của người Việt tị nạn tại Hoa Kỳ. Bài viết mới, để chào đón năm Thân sắp tới, tác giả có kèm theo lời ghi: Xin tặng những người tuổi Bính Thân và Mậu Thân.


o0o



Khỉ ơi!...
(Tác giả: Nguyễn Trần Diệu Hương)

Rừng thưa xanh ngát trên một ngọn đồi thoai thoải màu nâu của phù sa, ở đây khỉ không sống hàng đàn, thỉnh thoảng người ta thấy vài ba chú khỉ thấp thoáng dưới bóng cây. Loại khỉ này cũng leo thoăn thoắt, nhưng không leo cây mà leo đồi. Khỉ ăn đủ thứ, mê nhất là trái cây nhưng chỉ có dưa hấu được phát mỗi tuần, không có chuối là thức ăn chính, chú khỉ nào cũng nhớ.

Khỉ lớn quen với rừng hơn, chịu cực khổ đắng cay cũng nhiều, hiểu đời hơn, và trầm tĩnh, chịu đựng hơn, nên cưng chìu khỉ nhỏ, có gì cũng để phần cho khỉ nhỏ. Tìm được mẫu trái cây nào cũng nhường khỉ nhỏ ăn trước. Khi nhỏ xa cha mẹ sớm, may mắn gặp được hai anh khỉ lớn chín chắn, khôn ngoan, nên cũng đỡ vất vả giữa rừng núi Pulau Bidong.

o0o

Cả ba anh em người dưng khác họ cùng tuổi khỉ (Huyên nhỏ hơn hai anh đúng một con giáp) nên đều rất thích câu ca dao:

Người ta tuổi Ngọ, tuổi Mùi
Riêng tôi sao cứ ngậm ngùi tủi (tuổi) Thân

Nghe hoài bị nhập tâm, nhìn cái dáng cao gầy, lủi thủi của hai anh, và khuôn mắt buồn hiu vì một thân một mình ở trại ty nạn, Huyên thương hai anh như anh ruột. Có một lần "cám cảnh" một thân một mình của hai anh, đến trại ty nạn một mình, ban ngày đi làm thiện nguyện, tối về ăn "cơm cao ủy” (nghĩa là phần ăn của tổ chức giúp người tỵ nan của Liên Hiệp Quốc phát hàng tuần), Huyên dùng trứng gà và dầu đánh sauce mayonnaise, rồi vét đến tận... đáy thùng những đồng ringgits (đơn vị tiền tệ của Mã Lai) quý giá của mình, mua cho hai ông anh… nuôi tuổi Thân hai ổ bánh mì nóng từ một lò bánh mì trên đảo của người tỵ nạn.

Tội nghiệp hai ông anh, đang trong độ tuổi hai mươi đầy sức sống, có bánh mì nóng ăn với sauce mới làm xong, mỗi ông “quất” (chữ dùng của anh Đăng) một ổ bánh mì dài khoảng hai gang tay người lớn, có bán kính bằng chiều ngang của lòng bàn tay. Ăn xong mới chợt nhận ra là mình đã quá sức overeating, cả hai nằm lăn ra sàn ván ép của “long house” mà thở. Huyện không được chứng kiến cảnh này vì hai anh khỉ lớn ở phía Đông, Huyên ở phía Tây của trại, Khi nghe kể lại, Huyên cười nửa đùa nửa thật:

- May quá, nếu các anh bị bội thực, lỡ có mệnh hệ nào thì em mang tội giết người bằng bánh mì với sauce.

Anh Trí còn cười:

- Yên tâm khỉ nhỏ, anh mệt quá đã định quơ tờ giấy viết chúc thư để lại “tôi chết là do ham ăn, không biết lượng sức mình, lỗi tại tôi mọi đàng, xin đừng bắt tội ai.”

Anh Đăng thì tự tin hơn:

- Anh chưa đặt chân đến Mỹ thì không thể chết được đâu.

Anh Đăng và anh Trí là bạn học cùng lớp suốt 7 năm Trung học ở Chu Văn An. Xong tú tài, anh Đăng vào Quốc gia hành chánh, anh Trí vào Phú Thọ. Chưa xong năm thứ nhất, nước mắt nhà tan theo đủ mọi nghĩa, anh Đăng về miền Tây (quê ngoại của anh) giúp mẹ nuôi một bầy em dại trong khi ba anh (một cựu Sĩ quan QLVNCH) vẫn biền biệt trong các trại tù cải tạo. Nửa thầy, nửa thợ, lại thêm cái lý lịch đen hơn đêm ba mươi dưới cái nhìn của chính quyền mới, trong màu đỏ búa liềm, anh Đăng hành nghề lơ xe, dùng kiến thức Quốc gia hành chánh năm thứ nhất sắp xếp chỗ ngồi cho hành khách trên các chuyến xe đò tuyến đường Cần Thơ - Saigon.

Không như anh Đăng, phải tự đuổi học mình vì phải điền khuyết vào chỗ trống của người chủ gia đình, thay cha nuôi em, anh Trí bị trường Đại học Bách khoa (tên mới của Phú Thọ) đuổi học vì ba anh tử trận vào những ngày cuối cuộc chiến. Những kiến thức vi phân, tích phân, toán cao cấp của năm thứ nhất ngành Công chánh ở trường Đại học Phú Thọ không có chỗ dùng khi anh ra lề đường ngồi bán sách. “Nhà toán học” ngồi ở lề đường đầy bụi bặm, mê giải toán hơn là mê “kinh doanh” nên chỉ sau một tháng, anh bỏ nghề buôn bán chữ nghĩa, đi làm phụ hồ. Cứ tưởng tượng bộ óc giỏi nhất của một lớp 12 ban toán Chu Văn An, đang học năm thứ nhất của Phú Thọ, phải bỏ trường, bỏ lớp, đi kiếm sống bằng việc bưng gạch, trộn xi măng mới thấy sai lầm giết cả một, hai thế hệ của chính quyền mới.

Khi miền Nam mới đổi chủ, tự dưng chất xám của miền Nam chảy ra lênh láng trên mặt đường, trong rừng sâu, trước khi chảy ra biển, và đi khắp thế giới.

Anh Trí đến Pulau Bidong bình yên trong lần vượt biên đầu tiên. Hơn ba tháng sau, anh Đăng cũng đến trại tỵ nạn nằm ngoài khơi của Mã Lai. Lúc đó có gần 3000 người ty nạn trên đảo nên họ không gặp nhau, và không biết là mình cùng có mặt trên đảo.

Đến lúc anh Trí được mời lên phỏng vấn bởi phái đoàn Mỹ. Tiếng loa vang vọng khắp đảo để ở ngỏ ngách nào, người ty nạn cùng có thể nghe được:

- Mời đồng bào Hoàng Phong Trí, tàu số MB xxx lên hội trường để được phái đoàn Mỹ phỏng vấn.

Lúc đó anh Đăng đang chân ướt chân ráo, mới có mặt ở đảo khoảng một tuần, cũng đi lên hội trường, không phải để được phỏng vấn mà là để gặp bạn mình.

Đó là lần đầu tiên họ gặp nhau kể từ khi đậu tú tài vào mùa hè năm 1974. Không hẹn mà cả hai cùng thốt lên:

- Sao ông đen và ốm vậy?

Một thân một mình ở trại ty nạn rất buồn, gặp được một người quen, nhất là một người bạn cùng lớp thời trung học thì không có niềm vui nào lớn hơn. Thế là anh Đăng dọn từ khu F về khu D ở cùng nhà với anh Trí.

Tháng 6 năm đó, Huyên đặt chân lên đảo Pulau Bidong. Hoàn tất mọi thủ tục dành cho một thuyền nhân mới nhập trại, Huyên mon men lên trường Trung học duy nhất của trại ty nạn nằm giữa khu nhà Huyên ở và Bưu điện của đảo, khi nghe một chị ở cùng nhà, đang dạy ở đó, cho biết trường rất cần người dạy cho các em trên đảo. Trong văn phòng của trường (là căn nhà mái tôn, sàn gỗ, khá vững chắc, và tiện nghi) Huyên gặp Sister Carol (người Úc) hiệu trưởng của trường, và anh Trí (người phụ trách soạn thảo sách Toán bậc Trung học để dạy cho các em trên đảo)

Sau một vài phút phỏng vấn, bà soeur người Úc nói tiếng Anh giọng Úc, Huyên nói tiếng Anh giọng Việt Nam, vậy mà cũng hiểu nhau, Sister giao cho Huyên dạy Anh văn cho lớp 8, Huyên được Sister giới thiệu với anh Trí, một thanh niên trẻ ốm nhom đang ngồi trên một cái bàn đầy giấy tờ với các công thức Toán, các hình vuông, tròn, tam giác… của môn Hình học, các công thức sin, cos của môn lượng giác…

- Đây là Mr. Hoàng Phong Trí, được coi như Giám học của trường.

Rồi Sister Carol quay đi với những bận rộn của một thiện nguyện viên điều hợp trường trung học trong một trại ty nạn có hơn 300 em đang theo học hai môn Toán và Anh văn.

Phe ta thuộc loại “tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời” nên nói tiếng Việt:

- Dạ chào chú.

Anh Trí trợn mắt, mỉm cười:

- Chào cô, cô mà gọi tôi là chú, tôi sẽ xếp cho cô dạy một lớp có học sinh dữ dằn nhất.

- Dạ chào anh.
.......


o0o


Lần đầu tiên Huyên chạm mặt với anh Đăng là ở hội trường, nơi các nhân viên của Cao ủy ty nạn Liên hiệp quốc từ rất nhiều nước trên thế giới đến làm việc.

Chị Nga ở cùng nhà, rủ Huyên lên hội trường, ở một góc đảo, làm việc với Cao ủy May thay cho chị sắp đi định cư ở Canada. Cao ủy phó phỏng vấn Huyên bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh. Tiếng Việt của cô May là một thứ tiếng Việt… ngang phè, dấu sắc, huyền, hỏi, ngã khi ẩn khi hiện, danh từ, tĩnh từ, chủ từ chạy lung tung không đúng vị trí:

- Mình đến đảo một mình à? Đâu có phải làm gì nhiều, lên đây làm việc giúp Cô May nhé. Rất cần những người tỵ nạn biết tiếng Anh phụ giúp các cao ủy, các phái đoàn, và đồng bào của mình nữa. Nhiều việc phải làm lắm.

Rồi cô May dẫn Huyên vào một cái phòng nhỏ, hình vuông, mỗi cạnh khoảng 5 thước, trong đó có bảy ông trung niên, thanh niên, và một chị đang cặm cụi viết lách. Đó là phòng giúp cao ủy ty nạn Liên Hiệp Quốc dịch các hồ sơ ghe vượt biên bị cướp biển từ tiếng Việt qua tiếng Anh. Một trong số những người làm ở đó là anh Đăng.

Chỉ một tuần sau khi làm việc ở đó, Huyên quen thân với anh Đăng, người đứng đắn nhất trong số những người đàng hoàng. Anh Đăng viết chữ rất đẹp, giỏi Anh văn hơn Huyên nhiều. Anh là một quyển tự điển sống khi Huyên gặp những chữ khó.

Một ngày như mọi ngày ở trại tỵ nạn, anh Trí dạy Toán ở trường trung học, anh Đăng là người thông dịch, và dịch tài liệu giúp các nhân viên của Cao ủy Ty nạn Liên Hiệp quốc. Huyên làm việc với anh Đăng ở hội trường buổi chiều và buổi tối. Buổi sáng dạy Anh văn cho lớp 7 và lớp 8 ở trường trung học Pulau Bidong. Làm việc không có lương, nhưng được các cao ủy mua tặng quần áo mới, không còn phải mặc đồ cũ từ kho phát quần áo có xuất xứ từ Goodwill bên Mỹ. Áo quần cũ của người Tây phương cao to, người Việt Nam mặc vào vừa rộng, vừa dài, giống như con bù nhìn đuổi chim ăn lúa trên đồng ruộng.

Tội nghiệp hai ông anh… khỉ lớn, Huyên mượn kim chỉ của Cô May về cắt, sửa lại cho hai anh mỗi ông một cái áo chemise mặc vào trông tươm tất hơn. Không có thước để đo, Huyên chỉ độ chừng bằng mắt. Kiến thức môn Toán, và khả năng của một người vừa học xong một lớp học may căn bản giúp Huyên sửa được hai cái áo chemise thuộc loại extra large size thành hai cái áo rất vừa với khổ người ốm và cao của “hai ông anh khỉ”. Huyên được hai anh khen:

- Không ngờ khỉ nhỏ cũng được việc.

Không biết để trả công thợ may, hay vì thấy cô em người dưng khác họ, hiếm khi có tiền, rất thích ăn trái cây đúng như… cốt khỉ, từ đó cứ mỗi lần có được một ít tiền viện trợ từ thân nhân, hay bạn bè ở Mỹ, anh Đăng đều mua cho Huyên một trái táo do người Mã lai bán ở một cái quầy nhỏ trên đảo. Những trái táo đó nhỏ hơn Washington apple, không giòn như Fuji apple nhưng là cả một món ăn quý hiếm đối với người tỵ nạn. Có lần Huyên cắt táo ra từng múi nhỏ, đem mời hai anh cùng ăn, cả hai anh đều từ chối:

- Đàn ông con trai ít ăn trái cây lắm.

Huyên ngây thơ tưởng thiệt, ăn ngon lành cả trái táo.

Anh Trí thì hay dẫn Huyên đi uống sữa màu (giống như Latte của Starbucks ở Mỹ) ở quán cà phê duy nhất trên đảo có ocean view rất đẹp mỗi khi anh có tiền. Đam mê và khả năng đặc biệt của môn Toán giúp anh soạn được những giáo trình rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu để dạy nên rất nhiều em thích môn Toán của thầy Trí. Mơ ước lớn nhất của anh là được qua Mỹ học ở MIT (Massachusetts Institute of Technology), tiếp nối năm thứ nhất dang dở của anh ở Phú Thọ.

Cuộc sống ở đảo bình yên như vậy. Vào những ngày lễ lớn, các nhân viên cao ủy về đất liền, hay về nước nghỉ phép, cả ba anh em vô rừng cắm trại, thức ăn mang theo chỉ có bánh mì với sauce mayonnaise, và cốm làm bằng mì vụn ngào đường, nhưng tất cả đều vui như ….khỉ được thả về rừng. Những lúc đó, các anh thường nói về ước vọng của mình khi được đặt chân đến xứ tự do. Anh Trí nuôi mộng về lại Phú Thọ để học, hay dạy. Anh Đăng ước mơ học về computer để mở mang nước nhà. Và Huyên, Huyên chi dám hy vọng mình một ngày nào đó, được mang kiến thức học được ở các nước giàu có, văn minh về giúp quê nhà. Lúc đó, chắc chắn không phải (không còn) là một quê hương tội tình, đã dập vùi ước mơ của các sinh viên vừa lớn như anh Đăng, anh Trí. Sẽ không có những người đứng trên bục giảng nhưng lại thiếu tư cách của một nhà mô phạm - những kẻ dạy học trò coi cha mình là “người có nợ máu với nhân dân”.


o0o


Cuộc sống của ba anh em tuổi khỉ êm đềm trôi qua, khoảng nửa năm sau, anh Đăng rời đảo vào đất liền, chuyển qua hai trại tỵ nạn khác, trước khi đến Mỹ. Hai tháng sau, Huyên cũng được chuyển trại, gặp lại anh Đăng ở trại ty nạn Bataan, gần Manila của Philippines. Như bao nhiêu thuyền nhân khác chuẩn bị đi Mỹ định cư, cả hai anh em đều được huấn luyện nếp sống mới “American Culture orientation” để chuẩn bị qua Mỹ vào buổi sáng. Buổi chiều, được xe bus chở về phía bên kia của trại, cách nơi tạm trú khoảng hơn hai miles, để làm thông dịch viên cho các thầy cô giáo người Phi dạy cho các trại viên khác. Hai anh em thuộc hai khóa khác nhau nên không còn thân như những ngày cùng làm việc mỗi ngày ở trại ty nạn Pulau Biddong nằm ở ven biển Mã Lai. Vả chăng lúc đó, áp lực của cuộc sống mới nơi đất Mỹ đã bắt đầu nặng lên vai anh Đăng. Ba anh vẫn còn ở trong tù cải tạo, mẹ anh vơ vét hết những thứ có thể bán được để đưa anh (người con trai lớn nhất) vượt biên. Mẹ anh không dặn dò, nhưng anh hiểu anh còn có một gánh nặng gia đình phải lo toan cho mẹ đỡ vất vả, nuôi các em khôn lớn, và cả nuôi ba đang mỏi mòn, khốn đốn trong trại cải tạo.

Thỉnh thoảng, hai anh em vẫn đi lang thang trên con đường nhựa duy nhất ở trại tỵ nạn Bataan, nhắc đến anh Trí vẫn còn đang ở Pulau Bidong. Không biết vì một lý đó nào đó, anh Trí bị phái đoàn Mỹ từ chối, và đang chờ các phái đoàn khác đến phỏng vấn. Bataan là đất liền, lại gần thủ đô của Phi Luật Tân, nên không có rừng để khỉ đùa giỡn hồn nhiên như ở Pulau Bidong. Và cả khỉ lớn, lẫn khỉ nhỏ đều nhớ đến “khỉ giỏi toán” đang lạc bầy ở Malaysia.


o0o


Anh Đăng đến Mỹ, vì không có thân nhân, nên được một tổ chức thiện nguyện đưa về một nhà thờ Tin lành ở Saint Louis, Missouri, miền Trung Tây của Mỹ. Anh sống ở nhà của vị mục sư nửa tháng. Tư cách và trình độ của anh chinh phục được cảm tình của cả gia đình vị mục sư, anh cũng được họ cho ở miễn phí trong một căn phòng khá rộng có đầy đủ tiện nghi, nhưng anh muốn ra sống riêng vì theo thư anh viết cho Huyên:

“Anh muốn tự lập, và vì anh không thể bỏ đạo Phật theo đạo Tin lành, nên anh không muốn ở lâu mặc dù cả gia đình của họ rất quý mến anh. Và em biết trình độ Anh văn của anh, khỉ nhỏ, anh không gặp trở ngại trong việc nói cho ông bà mục sư hiểu tại sao mình phải sống đời lưu lạc. Muốn viết cho em nhiều nữa nhưng cho anh ngừng ở đây, anh phải viết thư nâng đỡ tinh thần của Trí ở Pulau Bidong. Nghe nói sau khi anh em mình rời đảo, Trí đau một trận, không biết hắn ta tương tư em, tương tư anh, hay cả hai đứa mình?”

Lúc nào anh Đăng cũng vậy, anh nghiêm trang, nhưng rất có khiếu hài hước.

Đến Mỹ sau anh gần ba tháng, Huyên mang theo khoảng hơn 10 cái thư, anh Đăng gởi về từ hai địa chỉ khác nhau của thành phố Saint Louis. Thời đó, chưa có PC, không có email, quyển sổ ghi địa chỉ của Huyên có tên anh Đăng, và anh Trí ở trang đầu.

May mắn hơn anh Đăng, Huyên có thân nhân ra đón, ở phi trường San Francisco, không phải leo lên một chuyến máy bay khác bay về một nơi xa lạ, với những người lạ khác mình về tất cả mọi mặt. Dù lúc đó mấy đứa em còn nhỏ, đang đi học, mấy chị em cũng nghèo xác xơ như anh Đăng, nhưng Huyên được về California ấm hơn, và có nhiều người Việt Nam hơn anh Đăng. Lâu lâu Huyên vẫn viết thư chọc anh bằng thơ của Nhà thơ Trần Mộng Tú, mấy câu thơ mà cả ba anh em khỉ đều thích khi đọc được từ tạp chí Văn trong cái thư viện nhỏ ở Pulau Bidong:

Hãy tưởng tượng ra em
Ở một căn nhà lạ.
Mình em một màu mắt
Mình em một màu da
Mình em một lệ nhòa

Huyên đã đổi “em” thành “anh” trong mấy câu thơ gởi qua cho anh Đăng. Anh gởi lại một cái post card mặt trước có con khỉ nhăn răng cười, mặt sau có duy nhất một giòng chữ "khỉ anh chưa bao giờ khóc đâu khỉ nhỏ ơi!”

Lúc đó, cả hai anh em góp phần làm giàu cho cho bưu điện của Mỹ bằng những lá thư viết tay hàng tuần. Mỗi tuần ba ngày, đi học, đi làm về, cả anh Đăng và Huyên nhận được thư tay viết cho nhau. Chữ viết tay của Huyên thì vẫn... xấu muôn thủa, nhưng chữ của anh Đăng đã không còn đẹp như hồi anh viết báo cáo ở một góc hội trường của văn phòng cao ủy ở Pulau Bidong.

Cái Tết đầu tiên ở Mỹ của anh Đăng vẫn “một ngày như mọi ngày”. Giữa quê người và trời lạnh cắt của mùa Đông đầu tiên ở miền trung tây nước Mỹ, không có một chút gì gợi cho anh Đăng nhớ lại những cái Tết bình yên hạnh phúc trước năm 1975, những cái Tết buồn bã sau năm 1975, và cả Tết đầu tiên ở quê người có tiếng đập tôn thay cho tiếng pháo ở trại ty nạn Pulau Biddong, có mùi nhang trầm bay khắp đảo khi người ta cúng ông bà, tiễn năm cũ, đón năm mới vào giờ giao thừa.

Người nhắc cho anh Đăng nhớ Tết Việt Nam ở Mỹ là Huyên. Lúc đó, người Việt Nam ở Mỹ chưa đông lắm, người Việt Nam ở St. Louis còn hiếm hoi hơn, sống rải rác, xa nhau, không có chuyện ăn Tết Việt Nam. Hơn nữa anh Đăng lại rất bận, nên không nhận ra tháng chạp âm lịch sắp nhường chỗ cho tháng giêng, năm mới. Huyên gởi thư đi nhắc anh Đăng tuần sau là Tết Nguyên đán. Anh gởi lại một phong bì thường như bao nhiêu cái thư anh vẫn gởi, nhưng thư Tết của anh Đăng có hai tờ USD1.00, và một tờ USD2.00 mới toanh kèm theo một câu thơ của thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên “Tết về rồi đó nhỏ, chim núi của lòng anh”. (Hình như anh muốn nói đến nguyên tắc sống của anh, đơn giản rõ ràng như: một cộng một là hai?)

Huyên gởi thư cảm ơn, chúc anh một năm mới may mắn, an vui, nhưng “lờ” luôn câu thơ anh áp dụng rất đúng chỗ.

Anh Trí thì gởi cho Huyên một cái hình Pulau Bidong anh vẽ bằng bút chì, có rừng cây và một con khỉ đang treo lơ lửng trên một nhánh cây trong rừng thưa. Huyên lập tức hồi âm bằng lời Phật dạy “thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn.” Huyên còn nhớ đã đọc được trong một lần đi lễ chùa vào ngày Tết ở Việt Nam. Anh Trí rất thông minh, chắc chắn anh sẽ hiểu ý Huyên. Và anh sẽ nhìn cuộc đời dưới cái nhìn của một Phật tử để có thể vượt qua nỗi buồn “là một trong những công dân dài hạn” của trại tỵ nạn.

Với riêng Huyên, Tết Việt Nam và cả Tết Tây đầu tiên ở Mỹ đều "một ngày như mọi ngày". Thời đó, cuối thập niên 80s, không có bang giao giữa Mỹ và Việt Nam nên ngày Tết Việt Nam không có gì rõ nét. Như thế đôi khi tốt hơn, đỡ nhớ nhà! Và như vậy, Tết Việt Nam đến và đi âm thầm trong lòng anh em nhà khỉ từ St. Louis, San Jose ở Mỹ đến Pulau Bidong ở Mã Lai.

Đời sống ở Mỹ bận rộn, túi bụi, vừa đến Mỹ được một tuần, anh Đăng đã xin được việc làm, và tiếp nối con đường đèn sách bằng trường Community College ở Mỹ, một loại trường công lập dạy kiến thức hai năm đầu Đại học, chỉ cấp bằng trung cấp, và sẽ chuyển sinh viên lên University học hai năm còn lại để hoàn tất bằng cử nhân, nếu họ thích. Trình độ Anh ngữ của anh Đăng, và trình độ của một sinh viên năm thứ nhất của học viện Quốc gia hành chánh giúp anh học straight A dễ dàng, mặc dù anh phải đi làm full time để gởi tiền về quê nhà giúp Mẹ nuôi em.

Anh em nhà khỉ ở Mỹ vẫn thương yêu nhau như xưa, mặc dù bây giờ muốn đi thăm nhau phải mất đến gần 4 giờ trên máy bay, chứ không phải chỉ cần đi bộ 5 phút như hồi còn ở trại tỵ nạn.

Cả hai anh em vẫn viết thư đều đặn cho anh Trí, nhưng thư đi thì có, mà không thấy anh Trí viết thư trả lời. Tuy buồn và lo cho anh Trí, nhưng anh Đăng vẫn lạc quan:

- Anh tin là nhà toán học của 12B2 Chu Văn An năm xưa vẫn bình yên nhưng chắc là biết mình đang bươn chải, ngược xuôi với cơm áo, với học hành nên Trí không trả lời.

Anh còn tếu thêm:

- Cốt khỉ vẫn hoàn khỉ, và khỉ thì chẳng bỏ bầy đâu Huyên ơi!

Anh em nhà khỉ đã có Associate Degree từ Community College chỉ sau một năm rưỡi bằng lòng quyết tâm, và bằng lời hứa với cha mẹ, với chính mình.

Chuyển lên Unviversity học thêm hai năm cuối để hoàn thành cử nhân, học khổ hơn, nhiều project hơn, nhất là năm cuối, phải làm rất nhiều bài, phải đi thực tập, anh Đăng lại được promote ở nơi làm việc. Biết sức người có hạn và muốn giữ straight A, muốn ra trường với Summa Cum Laude về Computer Science nên anh chỉ học part time ở năm cuối. Huyên học ngành dễ hơn anh, lại không dám mơ đến Summa Cum Laude từ hồi bước chân vô University với cả hai thứ học và làm đều full time, nên ra trường trước anh. Thời đó, chưa có mobile phone, cuối tuần mới gọi phone cho nhau, anh Đăng luôn đùa như bản tính của anh từ thủa nào:

- Khỉ ơi, vậy là bây giờ em có bằng cấp cao hơn anh và khoẻ hơn anh nhiều. Anh vẫn còn nặng nợ, cả nợ cơm áo lẫn nợ sách đèn. “

Huyên đùa lại:

“- Hai vai gánh hai gánh như vậy nên vai anh sẽ chẳng bao giờ bị lệch”

Anh trở lại nghiêm trang khi tâm sự về chuyện học ở năm cuối:

- Mỗi lần viết xong được một cái program, nộp cho ông thầy xong thấy lòng nhẹ nhỏm. Tuần sau ông thầy phát bài, chưa kịp vui vì điểm A, lại nhận một program khác để viết, mà chưa biết phải bắt đầu từ đâu? Ước gì có Trí bên cạnh, hồi xưa Trí giỏi Toán hơn anh, chắc chắn nó viết program giỏi hơn anh. Nhớ cầu nguyện cho anh khỉ lớn vẫn còn lạc lỏng ở đâu đó, nghe khỉ nhỏ!”

Có lần anh Đăng gởi mừng sinh nhật Huyên một con khỉ nhỏ đánh trống, thắt nơ hồng rất dễ thương. Huyên vẫn còn giữ đến tận bây giờ trên một góc bàn làm việc, và trong một góc sâu nhất của tâm hồn.

Chuyện của anh em nhà khỉ, kể hoài không hết. Như chuyện tranh Huyên đã đọc hồi nhỏ, trong đám học trò theo Thầy Tam Tạng đi thỉnh kinh, có Tề thiên (một con khỉ lý lắc, thông mình, nhưng hay phá phách). Lâu lâu Thầy Tam Tạng lại phạt Tề thiên nhức đầu để cho học trò khỉ bớt láu cá, và bớt phá phách.

Trên đời này, cả trăm ngàn người cùng tuổi khỉ, nhung chắc chỉ có hai anh khỉ lớn, khi viết thư hay gọi điện thoại cho Huyên đều mở đầu bằng hai chữ thân quen “khỉ ơi”.


o0o


Cuối cùng anh Trí cũng được đi định cư ở Hòa Lan sau 5 năm dài ở trại ty nạn. Anh thuộc loại tài hoa, học giỏi, vẽ đẹp, chơi đàn hay, cái gì anh chạm tay vào cũng tốt đẹp hơn nên bị “trời xanh đánh ghen” tơi tả. Anh bắt đầu học một ngôn ngữ mới, bắt đầu mọi thứ từ số không ở tuổi ngoài 30, và trở thành một programmer giỏi của xứ sở hoa Tullip. Anh càng giỏi, càng bận rộn, càng đam mê môn Toán, không có thì giờ nghĩ đến “một nửa thứ hai” để như đa số mọi người. Tuổi đời càng nhiều, con số công trình anh đóng góp cho quê người, một cách thầm lặng nhưng rất đáng giá, càng cao.

Mới đây anh viết Email cho cả anh Đăng và Huyên:

“Khỉ ơi, khi nào thì bầy khỉ tụi mình mới về lại được Việt Nam dân chủ tự do, mới được đóng góp cho quê nhà, và được vào cắm trại ở rừng thưa như những ngày Bidong xưa cũ?”


o0o


Mỗi lần đến Tết, dù không còn đi chợ Tết, không còn nỗi háo hức của những mùa Xuân hạnh phúc thời thơ dại, Huyên vẫn ăn Tết bằng một lát mứt khoai (là thứ mứt mà Mẹ hay làm mỗi dịp Tết), một miếng bánh mì có phết mayonnaise để nhớ những mùa Xuân hạnh phúc luôn nằm trong một góc ký ức ngọt ngào. Dù năm đó là năm nào trong 12 con giáp, Huyên vẫn muốn được nghe lại tiếng “con khỉ nhỏ” của Ba Mẹ gọi Huyên, và tiếng “khỉ ơi” của anh Trí, anh Đăng. Và như thế, nên lúc nào có dịp vào sở thú, Huyên cũng tần ngần dừng lại bên chuồng khỉ, ngắm những con khỉ như ngắm lại những kỷ niệm đẹp của mình.


_____o0o______

(Nguyễn Trần Diệu Hương)

XXG
05-29-2021, 05:45 PM
____ Memorial Day is coming...
To J.P; O.F; H.L and our fallen heroes who died for the 3 simple words: Duty - Honor - Country.


"Nothing else matters..."


https://youtu.be/hYSOzoK-mi8

XXG
05-29-2021, 05:55 PM
___



https://youtu.be/bNms-sXBaDg

XXG
09-12-2021, 06:43 PM
Chơi Đồ Hàng__



(Tác giả: Ngô Đồng)



Chỉ ba chữ “Chơi Đồ Hàng” thế thôi mà cả một trời kỷ niệm ùa về, ai bảo già hay lú lẫn – lú lẫn mà có thể lôi trong hộp ký ức ra cả ngàn chi tiết thuở xa xưa nửa thế kỷ được sao? Hộp ký ức ấy trong suốt như khối thạch được nấu từ bột rong biển ẩn hiện những đóa hoa tim tím xinh xinh bị mưa ngoài vườn được hái mang thả vào khi thạch còn ở trạng thái lỏng.

Kỷ niệm cũng đã được đặt tên cho một bài hát từ nhạc sĩ Phạm Duy: ” Trăng lên bằng ngọn cau – Me tôi ngồi khâu áo bên cây đèn dầu hao – Cha tôi ngồi xem báo phố xá vắng hiu hiu – Trong đêm mùa khô ráo tôi nghe tiếng còi tàu – Cho tôi lại chiều hè, tôi đi giữa đường quê – Hai bên là hương lúa, xa xa là ngọn tre – Thấp thoáng vài con nghé – tiếng nước dưới chân đê!”

Những hình ảnh trong lòng tôi đúng y như thế, lại thêm bao nhiêu điều trẻ dại nghịch ngợm tìm mọi thứ quanh quẩn ngoài ngõ ngoài hè bên hàng xóm để chơi đồ hàng – thuở xa xưa ấy không có tv chẳng hề có “game” iphone ipad – mạng internet – facebook.

Mẹ ngồi khâu áo – cha đọc báo, đường phố chưa có tiếng bình bịch, xe đạp xe ba gác là phương tiện chính, nếu thảng hoặc có xe hàng xe taxi, thì chiều tối cũng đã về nhà đi ngủ nên “phố vắng hiu hiu” quả là lúc phải đi chơi đồ hàng vì chưa buồn ngủ! Nến được thắp nhỏ vào ly nước làm bánh bèo, thằng bạn hàng xóm bày trò gom lá khô nhóm lửa thổi cho khói bay làm thành hình tượng để dụ dỗ con bé bán cho nó dĩa bánh bèo đặt trên lá bông giấy có đũa cũng từ gai bông giấy để khỏi phải trả tiền lá hoa ngâu, điều kiện là khói phải có hình cô tiên hay trái tim tùy theo ý cô bán bánh!

Những kỷ niệm bé tí như những đóa hoa đó bay lượn trong mùi thơm ngọt ngào từ chiếc nồi đặt trên bếp ga lửa nhỏ để giữ cho thạch không được đặc lại, niềm hạnh phúc của người đứng trong bếp là quyền làm phép cho những thứ mình đang nấu trên bếp phải theo đúng ý mình muốn, mặn hay ngọt lỏng hay đặc, nhất là khi nào được phép đông khi nào phải sanh sánh lúc nào được nghỉ ngơi! Mơn man bao là hình ảnh từ thuở bán hàng lấy lá, đến bán hàng lấy tiền bị lỗ nặng, cũng những “thằng” những “con” bạn cùng xóm mua những gói chè được đổ vào bịch cho vào ngăn đá làm đông! Trong xóm nhà có tủ lạnh đầu tiên là điều kỳ diệu, bán chè đông lấy “năm cắc” thằng Trung nói cho con Lan nghe, con Lan kể cho thằng Đức, tụi nó cứ truyền nhau còn mình nhịn chè bán cho chúng nó đến khi Mẹ phác giác tại sao những gói chè biến mất nhanh quá và con gái có một túi tiền năm cắc!

Màu sắc từ củ cải đỏ, từ hoa tầm xuân xanh ngắt, từ lòng trứng vàng, từ múi sầu riêng, từ dừa non, từ bí đỏ, lá dứa lá cẩm trang trí cho khối thạch thành hoa mẫu đơn hoa hồng hoa cúc, trong kỷ niệm, bức tranh vẽ nguệch ngoạc trên trang vở đôi khu vườn đầy màu sắc xuyên qua khuôn cửa sổ có màn che đượcc vạch sang hai phía con bé thắt hai bím tóc giữa khuôn cửa Bố đem khoe với bạn: “Con gái tôi vẽ đấy!” Khu vườn bây giờ cũng đầy hoa đầy màu sắc, rất đơn sơ quê mùa không se sua bằng những cột những đình chỉ có cành tre khô làm điểm tựa, những gì phải có bàn tay mình đặt vào cho nó – rồi hạt ươm rồi hoa từ nhà bạn nhảy sang nhà mình bằng nhánh bằng lá – khu vườn vui mùa xuân, rực rỡ mùa hạ, mùa thu đầy trái ngọt dù lá vàng rụng đầy, đến đông còng lừng đẩy cây yêu vào hiên trú lạnh, bức tranh thuở bé vẫn trong tim trái tim vẫn nhớ vẫn yêu hoa thương lá, ai đùa rằng phải nói chuyện với cây, mình thì thật sự nói với nó: “tại sao chưa ra hoa hả bưởi – mùa này mà chẳng có nụ nào!” – con bé giật cả mình đơm hoa cho đúng ba trái đủ để chất vỏ nấu chè trong tủ đá!

Nền đen làm nổi bật sắc màu đời sống, vừa pha vừa nhớ thuở tròn trăng con gái, bài học đầu tiên nấu thạch là ra tiệm chạp phô mua những sợi rau cau màu ngà về ngâm nước, Mẹ dậy một bát rau câu ba bát nước đường cát nấu với nước lọc sạch để nguội thả hoa nhài vào đậy kín – để hương hoa tẩm vào đường, khi rau câu đông thành thạch, Mẹ cắt thành miếng nằm gọn trong lòng bàn tay khéo léo xẻ dọc thật mỏng, rồi nghiêng đủ để khi bà cắt ngang từng sợi thạch rơi xuống chiếc tô có hoa văn màu xanh dương vẽ đôi rồng chầu quả châu tròn trịa, món tráng miệng nhẹ nhàng ngày hè được phong phú hơn khi đi học các sơ cách đổ thạch sơn thủy có màu trắng cốt nước dừa xen cùng màu lá dứa – màu cà phê – những chiếc khuôn đơn sơ bằng nhôm được ông thợ thiếc hàn uốn nửa hình trái tim, sau khi cắt ghép lại thành trái tim nguyên vẹn.

Sau 1 975, món thạch được bán dạo bằng cách pha cho thật lỏng thêm cốt dừa, lớp dừa nổi lên mặt chén một lớp mỏng thế thôi, những chén thạch được đặt trên một tảng đá được mua từ nhà bán nước ngọt và nước đá trong xóm – mỗi sáng một chiếc xe ba gác chở những cây đá đến giao cho họ để bán lẻ – vỏ trấu được dùng để giữ nước đá chậm tan – bây giờ có lẽ chẳng còn thấy điều này nữa vì nhà nào cũng có máy làm nước đá trong tủ lạnh – Bán lẻ chén rau câu thế thôi cũng nuôi được cả gia đình trong khoảng thời gian ấy – vài năm sau khi cán bộ vào sống đầy miền Nam – sinh nhật tiệc tùng bắt đầu trở lại- những khuôn bánh – khuôn cắt thạch rau câu được dùng để đổ thành những bánh thạch đầy màu sắc, cứ thế đời trôi qua những vài chục năm!

Bây giờ cũng hoa ấy lá ấy, cách nấu gọn nhanh hơn, khung bếp rộng rãi sạch sẽ, khuôn khắc bằng nhựa dẻo silicone, bầy ra để nhớ quá khứ đã từng có bao nhiêu lần mình nấu mình vui cùng nó – mỗi thời một khác vui buồn lo toan lẫn lộn, đôi khi trong suốt nhìn thấu tâm cang, có lúc đen đặc quánh tưởng chừng không thấy gì nữa để tìm sự sống mà rồi đời vẫn nở hoa, những đóa hoa tự mình vẽ nên nó tự mình tô màu lên nó – đời sống đơn giản như thuở “chơi đồ hàng” dùng tiền lá đổi lấy nụ cười hạnh phúc!

Ngoài vườn những đóa mẫu đơn vẫn nở dù mưa gió dập vùi – sức sống mãnh liệt trong tim là nguồn động lực phải không hoa!



______o0o______



(Ngô Đồng)

XXG
09-12-2021, 06:52 PM
Sài Gòn – một thuở “uống môi em ngọt”

(Lương Thái Sỹ & An Dân)


Bạn đã uống cà phê nhiều, bạn biết muốn pha một ly cà phê tuyệt vời đâu có khó: Cà phê Sẻ loãng nước nhưng đậm mùi thơm, cà phê Mít đặc quánh mà vô vị, hãy chọn một tỷ lệ pha trộn thích hợp là đã đi được 70% đoạn đường rồi; muốn kẹo thêm nữa hả? Muốn hưởng cái cảm giác chát chát, tê tê đầu lưỡi phải không? Dễ mà, thêm vào chút xác cau khô là xong ngay. Bạn muốn có vị rhum, thì rhum; bạn thích cái béo béo, thơm thơm của bơ, cứ bỏ chút Bretel vào. Bạn hỏi tôi nước mắm nhĩ để làm gì à? Chà, khó quá đi, nói làm sao cho chính xác đây! Thì để cho nó đậm đà. Đậm làm sao? Giống như uống coca thì phải có thêm chút muối cho mặn mà đầu lưỡi ấy mà. Uống chanh đường pha thêm chút rhum cho nó ra dáng tay chơi. Như kẻ hảo ngọt nhưng vẫn cắn răng uống cà phê đen không đường cho lập dị. Thèm đá muốn chết nhưng cứ chốn bạn nhậu thì nằng nặc đòi uống chay không đá cho khác người, cho "đẳng cấp."

Tôi không biết, không tả được, mời bạn hãy thử và tự cảm lấy. Bạn đòi phải có tách sứ, thìa bạc; bạn nói phải nghe nhạc tiền chiến, phải hút Capstan (dộng vài phát hết gần nửa điếu và rít đỏ đầu), Ruby quân đội hay Basto xanh mới đã đời, thú vị phải không? Thì đó, bạn đã có đủ hết những gì bạn cần, sao không tự pha ra mà uống, lại cứ đòi đi uống cà phê tiệm, dị hợm không? Nói vậy chứ tôi biết, tôi không trách bạn đâu. Cà phê ngon chỉ mới được một nửa, nhưng chúng ta đâu chỉ cần uống cà phê, chúng ta còn ghiền “uống” con người tại quán cà phê; “uống” không khí và cảnh sắc cà phê; “uống” câu chuyện quanh bàn cà phê và nhiều thứ nữa. Vậy thì mời bạn đi với tôi, quanh quanh Sài Gòn làm vài ly chơi. Dĩ nhiên là tưởng tượng, cả bạn và tôi đều biết, đã xa rồi, biền biệt lắm rồi cái thời sinh viên (SV) ngày đó.

Bắt đầu từ thập niên 70, những năm Sài Gòn đã trải qua những trở mình to lớn; những cơn lốc kinh hồn; những bùng vỡ vượt mọi giới hạn; những xô đẩy, mời gọi đầy lôi cuốn và cũng nhiều cạm bẫy. Niềm vui và nỗi hy vọng về một vận hội mới sau biến cố 1963 qua nhanh theo với sự yểu tử tất yếu của những người đã nhân danh một cuộc cách mạng, nhưng là thứ cách mạng nửa vời, có khả năng đả phá nhưng lại thiếu bản lãnh và tâm lực để xây dựng, kiến tạo; người Mỹ đổ bộ càng lúc càng đông, theo với nó là các Snack Bar, gái làm tiền và sự phá sản nghiêm trọng của nhiều giá trị luân lý và đạo đức. Chiến trường càng lúc càng khốc liệt, càng áp gần và đã trở thành một nỗi ám ảnh dai dẳng; một cơn ác mộng thường trực.

Miền Nam Việt Nam những năm giữa thập niên 60 đến đầu thập niên 1970 như vậy đó. Tuổi trẻ Việt Nam lột xác: lớn ra và tự già đi trước tuổi của mình. Những “lưu bút ngày xanh” đành gấp lại; những mơ mộng hoa bướm tự nó đã thành lỗi nhịp, vô duyên. Tiếng cười dường như ít đi, kém trong trẻo hồn nhiên; khuôn mặt, dáng vẻ dường như tư lự, trầm lắng hơn và đầu óc không còn, cũng không thể vô tư nhởn nhơ được nữa. Những điếu thuốc đầu tiên trong đời được đốt lên; những ly cà phê đắng đầu tiên trong đời được nhấp vào và dù muốn hay không, tuổi trẻ đã thực sự bị chi phối, và phải thường xuyên đối diện với những bất hạnh của dân tộc; những thảm kịch của thân phận mình và quán cà phê trở thành cái nơi chốn hẹn hò để dàn trải tâm tư, để trầm lắng suy gẫm. Có một chút bức thiết, thật lòng; có một chút làm dáng, thời thượng. Thông cảm giùm đi, tập làm người lớn mà.

Đối với một thanh niên tỉnh lẻ mới mẻ và bỡ ngỡ, Sài Gòn lớn lắm, phồn vinh và náo nhiệt lắm. Trong suốt nhiều tuần lễ đầu tiên đi lại phải dè dặt và lúc nào cũng lẩm nhẩm câu “thần chú”: Phan Thanh Giản đi xuống, Phan Đình Phùng đi lên và mường tượng ra một “lá bùa” như một thứ kim chỉ nam khả dụng. Hai con đường một chiều và ngược nhau như cái xương sống xuyên dọc trung tâm thành phố giúp định hướng, tạo dễ dàng cho việc di chuyển. Dĩ nhiên nếu tính từ khu Chợ Cá tôi lưu trú, Phan Thanh Giản được hiểu như bao gồm cả khúc Minh Mạng nối từ Ngã Bảy đến Ngã Sáu Chợ Lớn và Phan Đình Phùng phải cộng thêm khúc Lý Thái Tổ rẽ phải đến Ngã Bảy hay rẽ trái đến Trần Hoàng Quân để về Ngã Sáu.

Về sau khi đã khá quen quen, lá bùa được vẽ lớn thêm ra: Từ Phan Thanh Giản, rẽ phải theo Lê Văn Duyệt sẽ đến phố chính Lê Lợi, nhà sách Khai Trí, chợ Bến Thành, rẽ trái lên Hòa Hưng, Bảy Hiền; từ Phan Thanh Giản rẽ phải ở Hai Bà Trưng sẽ đến bến Bạch Đằng, rẽ trái sẽ qua cầu Kiệu, Ngã Tư Phú Nhận; cũng từ Phan Thanh Giản rẽ trái ở Đinh Tiên Hoàng sẽ đến rạp Casino Dakao, Lăng Ông Bà Chiểu và hướng ngược lại là trường Văn Khoa, Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp. Cứ như thế, cái xe cọc cạch, trung thành như một người bạn thân thiết lê la khắp Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định.

Những ngày này, tôi là khách thường trực của quán Cà phê Thu Hương đường Hai Bà Trưng. Quán nằm ở một vị trí đẹp, chiếm ba lô đất ngó chéo qua phía trại hòm Tobia; nơi đây có một căn phòng hẹp vừa đặt quầy thu tiền, vừa là chỗ ngồi cho những ai thích nghe nhạc với âm thanh lớn, phần còn lại là một sân gạch rộng, có mái che nhưng không ngăn vách, từ trong có thể nhìn rõ ra đường qua những song sắt nhỏ sơn xanh với một giàn hoa giấy phủ rợp. Ngồi đây có thể nghe được văng vẳng tiếng nhạc vọng ra từ bên trong; cảm được chút riêng tư cách biệt, nhưng đồng thời cũng có thể nhận ra được sức sống bừng lên mỗi sáng, dáng vẻ mệt mỏi, u ám mỗi chiều đang lặng lờ chảy qua trên đường phía ngoài.

Chủ quán ở đây là một người đặc biệt: Khó chịu một cách dễ thương. Hình như với ông, bán cà phê chỉ là thú tiêu khiển và pha cà phê là một nghệ thuật kỳ thú. Ông hãnh diện với tên tuổi của Thu Hương và muốn bảo vệ nó. Bạn là khách uống cà phê phải không? Xin cứ ngồi yên đó, việc của bạn là uống vậy thì đừng táy máy đụng vào làm hư cà phê của tôi. Cà phê được bưng tới, ông chủ sẽ ngồi đâu đó quan sát và chờ. Yên tâm đi, đừng nôn nóng gì cả, bạn sẽ có cà phê ngon để uống mà.

Ông chủ sẽ xuất hiện đúng lúc cạn phin, sẽ bỏ đường cho bạn, khuấy đều cho bạn và sẽ lịch sự “xin mời” khi mọi việc hoàn tất. Ly cà phê như vậy mới là cà phê Thu Hương, đó là cung cách của Thu Hương, đặc điểm của Thu Hương. Nhiều người mới đến lần đầu không biết, cà phê bưng tới là tự lo liệu cho mình đều bị chỉnh ngay: Ông nôn nóng mở phin lỏng như vậy nước chảy ào ào còn gì là Thu Hương! Ông bỏ đường ngọt như ăn chè vậy còn gì là Thu Hương! Ống khuấy cốp cốp kiểu đó cà phê sẽ chua lét là ông giết Thu Hương rồi! “Thằng cha” này rắc rối thật nhưng là sự rắc rối có thể hiểu được, thông cảm được miễn là cà phê ngon.

Mà cà phê Thu Hương ngon thiệt, ngon lắm. Trong lĩnh vực kinh doanh quán cà phê, có người dùng âm thanh; có người dùng ánh sáng và cảnh trí; có người nhờ sự duyên dáng của tiếp viên; có người dùng phẩm chất của cà phê để hấp dẫn khách. Ông chủ Thu Hương đã chọn cách cuối cùng, cách khó nhất và ông đã thành công. Khách đến với Thu Hương là ai? Nhiều lắm, có thể họ từ bên trường Luật qua, từ dưới Văn Khoa, Dược, Nông Lâm Súc lên; từ Trung Tâm Văn Hóa Pháp, Hội Việt Mỹ lại; từ Huỳnh Thị Ngà, Nguyễn Công Trứ, Vương Gia Cần, Võ Trường Toản, Thư Viện Quốc Gia tới, quanh quanh khu Tân Định, Đa Kao cả mà.

Cũng có người từ xa hẹn nhau đến nhưng dù từ đâu họ đều có điểm giống nhau là tất cả đều trẻ và đều có vẻ “chữ nghĩa” lắm; “ông” nào “bà” nào cũng tha tập cours quằn tay, cộng với nào là Hố Thẳm Tư Tưởng của Phạm Công Thiện, Cho Cây Rừng Còn Xanh Lá của Nguyễn Ngọc Lan, Nói Với Tuổi 20 của Nhất Hạnh; các tạp san Tư Tưởng, Sử Địa, Bách Khoa, Văn và v…v… Ở Thu Hương dĩ nhiên là có thể “uống ly chanh đường, uống môi em ngọt” hay nhiều thứ giải khát khác; tuy nhiên, phần lớn là nhâm nhi ly cà phê.

Thu Hương nổi tiếng như vậy; ông chủ điệu như vậy, dù rành hay không cũng phải ráng tỏ ra sành điệu với người ta chứ! Lại còn phải cố bậm môi kéo Basto xanh cho có vẻ phong trần. Cứ như thế mà trầm ngâm suy tư, rì rào tâm sự; đốt bao tử, đốt phổi và đốt thời gian. Nghĩ lại thật phí phạm và đáng tiếc nhưng hồi đó thì không thấy như thế. Phải như vậy chứ sao! Thời chiến mà, buổi nhiễu nhương mà! Ngày đó tôi thường ngồi Thu Hương với T, một người bạn đang học năm thứ hai ở trường Y khoa. Anh là người rất mê giáo sư Trần Ngọc Ninh, coi ông là một nghệ sĩ tài hoa, một tay dao bậc thầy trong ngành giải phẫu và vẫn thường say sưa kể việc thầy Ninh có thể cầm lưỡi dao lam khẻ vào tập giấy quấn thuốc và cho biết trước là sẽ rạch đúng mấy tờ.

Bạn tôi đúng là người trời sinh ra để làm thầy thuốc, anh muốn xoa dịu mọi khổ đau và không chịu được những điều tàn nhẫn, thô bạo. Hồi sinh viên N té lầu chết ở trường Y khoa, báo đăng nói là tai nạn nhưng không biết từ đâu bạn tôi khẳng định đây là một vụ ám sát, thanh toán lẫn nhau và anh đau đớn, tức giận lắm (thật ra bạn tôi lầm, vì vụ té lầu và cái chết của N tại trường Luật là hoàn toàn khác nhau). Người với người cùng trăm trứng chui ra, chả lẽ không còn cách đối đãi nào tốt hơn với nhau hay sao? Đến lúc này anh đã có câu trả lời cho điều ám ảnh nhiều năm trước: Không phải không có cách mà là dường như người ta không cần và cũng không muốn phải chăng với nhau. Đau thật, nỗi đau quặn thắt tim gan.

Bạn thường ăn phở gà Hiền Vương, phở Pasteur; bạn thường đi qua đi lại liếc liếc mấy bộ đồ cưới đẹp ở nhà may Thiết Lập, vậy bạn có biết cà phê Hồng ở đâu không? Thì đó chứ đâu, gần nhà may Thiết Lập, cách vài căn về phía đường Nguyễn Đình Chiểu, ngó chéo qua mấy cây cổ thụ ở bờ rào Trung tâm Thực nghiệm Y khoa (Viện Pasteur). Tôi phải hỏi vì tôi biết có thể bạn không để ý. Quán nhỏ xíu hà, với lại cái tên Hồng không biết do ai đặt, gọi riết thành quen chứ thực sự dường như quán không có bảng hiệu, và tiền diện của nó trông ủ ê cũ kỹ lắm chứ không sơn phết hoa hòe, đèn treo hoa kết gì cả. Từ ngoài nhìn vào, quán như mọi ngôi nhà bình thường khác, với một cái cửa sổ lúc nào cũng đóng và một cánh cửa ra vào nhỏ, loại sắt cuộn kéo qua kéo lại.

Quán hẹp và sâu, với một cái quầy cong cong, đánh verni màu vàng sậm, trên mặt có để một ngọn đèn ngủ chân thấp, với cái chụp to có vẽ hình hai thiếu nữ đội nón lá; một bình hoa tươi; một con thỏ nhồi bông và một cái cắm viết bằng thủy tinh màu tím than. Phía sau, lúc nào cũng thấp thoáng một mái tóc dài, đen tuyền, óng ả, vừa như lãng mạn phô bày vừa như thẹn thùng, che giấu. Cà phê Hồng, về ngoại dáng, thực ra không có gì đáng nói ngoài cái vẻ xuề xòa, bình dị, tạo cảm giác ấm cúng, thân tình và gần gũi; tuy nhiên, nếu ngồi lâu ở đó bạn sẽ cảm được, sẽ nhận ra những nét rất riêng, rất đặc biệt khiến bạn sẽ ghiền đến và thích trở lại.

Hồi đó nhạc Trịnh Công Sơn, đặc biệt là loại nhạc “mệt mỏi” cỡ “đại bác đêm đêm…” hay “đàn bò vào thành phố…” đã trở thành một cái “mốt”, một cơn dịch truyền lan khắp nơi, đậu lại trên môi mọi người, đọng lại trong lòng mỗi người. Cà phê Hồng đã tận dụng tối đa, nói rõ ra là chỉ hát loại nhạc này và những người khách đến quán – những thanh niên xốc xếch một chút, “bụi” một chút (làm như không bụi thì không là trí thức) – đã vừa uống cà phê vừa uống cái rã rời trong giọng hát của Khánh Ly. Đến Hồng không chỉ có nghe nhạc về quê hương, chiến tranh và thân phận; ở đây còn có thể đọc về những điều đó. Không hiểu do sáng kiến của các cô chủ, muốn tạo cho quán một không khí văn nghệ, một bộ mặt trí thức hay do tình thân và sự quen biết với các tác giả mà ở cà phê Hồng lâu lâu lại có giới thiệu và bày bán các sách mới xuất bản, phần lớn là của hai nhà Trình Bày và Thái Độ và của các tác giả được coi là dấn thân, tiến bộ. Lại có cả Time, Newsweek cho những bạn nào khát báo nước ngoài. Tôi đã đi quá xa rồi phải không?

Xin lỗi, cho tôi được mượn cơ hội này để nói về tuổi trẻ của chúng ta một chút. Tôi đang trở lại với cà phê Hồng đây. Hồng là ai? Tôi không biết, quán có ba cô chủ, ba chị em; người lớn nhất trên hai mươi và người nhỏ nhất mười lăm, mười sáu gì đó. Nói thật lòng, cả ba cô đều chung chung, không khuynh quốc khuynh thành gì nhưng tất cả cùng có những đặc điểm rất dễ làm xốn xang lòng người: Cả ba đều có mái tóc rất dài, bàn tay rất đẹp và ít nói, ít cười, trừ cô chị; cái kiểu ít nói ít cười làm chết người ta. Còn cái dáng đi nữa, bạn còn nhớ không? Làm ơn nhắc giùm để tôi tả cho chính xác đi, khó quá. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có những lời hát khó giải thích nhưng dễ cảm nhận như “vết lăn, vết lăn trầm” hay “vết chim di” gì đó có lẽ có thể mượn để hình dung ra dáng đi của mấy cô chủ cà phê Hồng; nó nhẹ lắm, êm ái thướt tha lắm và cũng lặng lờ khép kín lắm.

Chính cái vẻ lặng lờ vừa như nhu lệ thẹn thùng, vừa như kênh kiệu kiêu sa, vừa lãng đãng liêu trai đó đã làm khổ nhiều trái tim trai trẻ lắm, rất nhiều. Những năm 1980, cà phê Hồng không còn, dãy phố nhỏ buồn thiu, im lìm và trống vắng như nét ảm đạm chung của toàn thành phố một thời rộn rã. Đối diện nơi quán cũ, gần cuối bờ thành Viện Pasteur là một bãi rác khổng lồ, ruồi nhặng đen nghịt và mùi hôi thối nồng nặc, phủ trùm; ở đó, hàng trăm ông lão bà cụ; hàng trăm trẻ em trai gái tranh nhau giành giật, đào móc từng chút sắt vụn, từng mảnh nhỏ nylon.
Tôi đã thường đứng lại rất lâu, nhìn cảnh não lòng này và tự hỏi: Những người đã có thời ngồi đây mơ ước và hy vọng giờ đâu cả rồi? Còn chị em cô Hồng: Những nhỏ nhẹ tiểu thư, những thon thả tay ngà, những uyển chuyển “chim di” giờ mờ mịt phương nào? Ai có thể trả lời được về số phận của những con người nhỏ nhoi trong thân phận chung của cả một dân tộc! Nay khu vực này đã thay da đổi thịt nhiều, nhưng vẫn nhớ không khí xưa của một thời làm cách mạng và phản kháng trong… quán cà phê!

Viện Đại học Vạn Hạnh mở cửa muộn màng nhưng ngay từ những năm đầu tiên nó đã thừa hưởng được những thuận lợi to lớn về tâm lý: Hào quang của phong trào Phật giáo đấu tranh từ nhiều năm dồn lại, cùng với những tên tuổi chính trị đã giúp cho Đại học Vạn Hạnh được nhìn vừa như một cơ sở giáo dục khả tín vừa như một tập hợp của những thành phần trẻ tuổi ý thức và dấn thân nhất. Tuy nhiên, dường như cái hồn của Đại học Vạn Hạnh được đặt tại một tiệm cà phê: Quán Nắng Mới ở dốc cầu, ngó chéo về phía chợ Trương Minh Giảng. Quán Nắng Mới có nhiều ưu thế để trở thành đất nhà của dân Vạn Hạnh, trước nhất vì gần gũi, kế đến là khung cảnh đẹp, nhạc chọn lọc và cuối cùng, có lẽ quan trọng nhất là sự thấp thoáng của những bóng hồng, có vẻ tha thướt, có vẻ chữ nghĩa.

Tôi quen với Nắng Mới vì họa sĩ HĐ Ngọc, bạn tôi có lúc thuê nhà ở bên hông ĐH Vạn Hạnh; và NN Trường thuê nhà trong hẻm sâu gần quán cà phê cóc của nhạc sĩ Lê Đô được biết đến với tập sách dạy tự học đàn guitar Carulli. Chừng đó là quá đủ, quá đạt để phe ta tụ lại: Các anh chị em thuộc khối Văn Thể Mỹ của nhạc sĩ PT Mỹ tấp vào nói chuyện văn nghệ; nhóm làm thơ trẻ Nguyễn Lương Vỵ, Võ Chân Cửu – lúc đó đang lên và đang chiếm đều đặn nhiều cột thơ trên báo Khởi Hành – ngồi đồng từ sáng đến tối để… làm thơ; những “chuyên viên xuống đường và lợi dụng xuống đường” cũng chụm đầu lại để bàn mưu kế.

Nhưng đông hơn cả, ấm áp hơn cả là những nhóm hai người, một tóc dài, một tóc ngắn chờ vào lớp, chờ tan trường và chờ nhau ở Nắng Mới. Mỗi lần có đêm không ngủ, sáng Nắng Mới không còn chỗ ngồi. Vạn Hạnh như một lò lửa, một điểm nóng, một trung tâm. Hình như Nắng Mới đã sống với Vạn Hạnh, sống theo Vạn Hạnh cho đến ngày cuối cùng. Nắng Mới nay không còn. Những con người cũ tứ tán muôn phương. Cái nơi chốn đầy sức sống và niềm tin ngày nào giờ tiêu điều buồn bã như dòng kinh nước đen uể oải dưới chân cầu Trương Minh Giảng.

Có một quán cà phê thân quen nữa không thể không nhắc đến: Quán chị Chi ở gần đầu đường Nguyễn Phi Khanh, cách không xa Casino Đa Kao. Thật ra đây không phải là quán cà phê mà là quán trà; mà có lẽ cũng không thể gọi là quán trà mà chỉ có thể nói là “chỗ uống trà ở nhà chị Chi” mới hoàn toàn đúng. Bạn hãy tưởng tượng giùm tôi cái khu gia cư xưa cũ, rất yên tĩnh và rất dễ thương, nằm phía sau rạp Casino Đa Kao, ở đó có những con đường rất nhỏ, những ngôi nhà mái ngói phủ đầy rêu xanh, những hàng bông giấy che kín vỉa hè; ở đó không có cái ồn ào náo nhiệt như ngoài Trần Quang Khải, khúc đổ về Tân Định, cũng không có cái tập nập ồn ã của đoạn Lê Văn Duyệt hướng về Lăng Ông; nó trầm lắng cô liêu và im ả tách biệt lắm. Nhà nào cũng nhỏ, cất cao hơn mặt đường mấy bực tam cấp xi măng, mở cửa ra là có thể nghe người bên trái nói, thấy người bên phải cười và có cảm tưởng như có thể đưa tay ra bắt được với người đối diện bên kia đường.

Quán chị Chi ở một trong những ngôi nhà này. Làm sao để nhận ra? Không biết, tôi đã nói là không phải quán xá gì cả mà, chỉ là tới nhà bà chị uống trà chơi vậy thôi và đã là nhà bà chị thì phải tự biết chớ, cần gì hỏi. Phòng khách chị Chi – được gọi là quán – nhỏ lắm, chắc độ chín mười thước vuông gì đó, chỉ đủ chỗ để đặt ba bốn chiếc bàn nhỏ. Nhà không có nhạc, không trưng bày trang trí gì cả ngoại trừ một bức tranh độc nhất treo trên vách, bức tranh đen trắng, cỡ khổ tạp chí, có lẽ được cắt ra từ một tờ báo Pháp. Tranh chụp để thấy một bàn tay giắt một em bé trai kháu khỉnh, vai đeo cặp sách, miệng phụng phịu làm nũng, hai mắt mở to nhưng nước mắt đang chảy dài theo má, phía dưới có hàng chữ nhỏ: “Hôm qua con đã đi học rồi mà”.

Giang sơn của chị Chi chỉ có vậy và chị mở “tiệm”. Khách đến với chị Chi không phải coi bảng hiệu mà vào, cũng không phải nghe quảng cáo trên đài địa phương hay đọc giới thiệu trên báo chợ báo bán gì cả, mà hoàn toàn do thân hữu truyền miệng cho nhau để đến, nhiều lần thành quen, từ quen hóa thân và quyến luyến trở lại. Chị Chi có bán cà phê nhưng tuyệt chiêu của chị là trà; loại trà mạn sen, nước xanh, vị chát nhưng có hậu ngọt và mùi thơm nức mũi. Trà được pha chế công phu trong những chiếc ấm gan gà nhỏ nhắn, xinh xinh. Ấm màu vàng đất, thân tròn đều, láng mịn, vòi và quai mảnh mai, cân đối.

Mỗi bộ ấm có kèm theo những chiếc tách cùng màu, to bằng ngón tay cái của một người mập, vừa đủ cho vài hớp nước nhỏ. Ấm có ba loại, được gọi tên ra vẻ “trà đạo” lắm: Độc ẩm, song ẩm và quần ẩm nhưng hồi đó chúng tôi thường “diễn nôm” theo kiểu “tiếng Việt trong sáng” thành ấm chiếc, ấm đôi và ấm bư. Trà được uống kèm với bánh đậu xanh – loại bánh đặc biệt của chị Chi – nhỏ, màu vàng óng và mùi thơm vô cùng. Nhắp một ngụm trà, khẽ một tí bánh, cà kê đủ chuyện trên trời dưới đất trông cũng có vẻ phong lưu nhàn tản và thanh cao thoát tục lắm.

Đến với chị Chi có cái thú vị là được hưởng một không khí thân mật, thoải mái như đang ngồi trong nhà của mình; điều thích nữa là không bao giờ phải bận tâm đến chuyện tiền bạc gì cả; muốn đến lúc nào cứ việc đến, không có tiền thì chỉ cần ngồi cười cười, chị Chi sẽ nói giùm cho bạn điều bạn khó nói: “Cuối tháng chưa lãnh măng-đa phải không? Uống gì nói chị lấy”. Chưa hết đâu, khi đã thân, đã thành “bạn của chị Chi”, hai lần mỗi năm vào khoảng trước Giáng Sinh và hăm ba ông táo về trời bạn sẽ được chị Chi kêu “đến chị chơi”. Đến chị chơi có nghĩa là đến uống trà mà không phải trả tiền và nếu gặp lúc chị Chi vui và khoẻ, “chơi” còn có nghĩa là có bánh bèo tôm chấy hay bánh hỏi thịt nướng kèm thêm nữa.

Khách của chị Chi không đông, giá nước ở chị Chi không đắt vì vậy chắc chắn chị Chi không sống bằng “cửa tiệm”. Chị bán cho vui, bán mà như kêu anh em góp chút tiền cho chị để chị nấu giùm chút nước uống cho vui. Mà quả tình ở chỗ chị Chi vui thật, vui vì những đậm đà tình nghĩa. Hồi đó chị Chi đã khá lớn tuổi, bây giờ chị đã lìa xa chúng ta (mà nếu còn cũng không còn đủ sức để nấu nước giùm cho ai được nữa). Quán chị Chi đã biến tướng ít nhiều nhưng dù sao cũng xin cảm ơn chị và xin đại diện cho những anh chị em đã từng ngồi quán chị Chi bày tỏ lòng tiếc nhớ đến chị và đến những ngày khó quên cũ. Tôi nghĩ anh chị em cũng không hẹp lòng gì mà không cho tôi nói lời đại diện này. Cuộc đời chúng ta đẹp vì những niềm vui nho nhỏ không tên; Sài Gòn của chúng ta đáng nhớ vì những dễ thương nho nhỏ không tên. Chị Chi, chị đã cho chúng tôi những niềm vui ấy; chị đã góp cho Sài Gòn một phần của cái dễ thương ấy. Cảm ơn chị và cà phê sánh đặc rất ngon của chị trong mùa hè đỏ lửa và lệnh tổng động viên.

Những năm cuối thập niên 60, Sài Gòn có mở thêm nhiều quán cà phê mới, những quán sau này thường được trang hoàng công phu hơn, có hệ thống âm thanh tối tân hơn và nhất là quán nào cũng chọn một cái tên rất đẹp, phần lớn là dựa theo tên những bản nhạc nổi tiếng: Cà phê Hạ Trắng, Lệ Đá, Diễm Xưa, Hương Xưa, Hoàng Thị, Biển Nhớ, Hoài Cảm, Da Vàng… Tuy nhiên, ở một con đường nhỏ – hình như là Đào Duy Từ – gần sân vận động Cộng Hòa có một quán cà phê không theo khuôn mẫu này. Nó mang một cái tên rất lạ: Quán Đa La. Đa La là Đà Lạt, quán của chị em cô sinh viên Chính Trị Kinh Doanh, có lẽ vừa từ giã thác Cam Ly, hồ Than Thở để về Sài Gòn học năm cuối tại nhà sách Xuân Thu hay sao đó, mở ra.

Trường kinh doanh quả là khéo đào tạo ra những môn sinh giỏi kinh doanh: Tin mấy cô sinh viên mở quán thật tình là không được chính thức loan báo ở đâu cả; tuy nhiên, cứ úp úp mở mở như vậy mà tốt, nó được phóng lớn, lan xa, tạo ấn tượng mạnh và quán được chờ đón với những trân trọng đặc biệt, những náo nức đặc biệt. Những cô chủ chắc có máu văn nghệ, đã cố gắng mang cái hơi hướm của núi rừng Đà Lạt về Sài Gòn: Những giò lan, những giỏ gùi sơn nữ, những cung tên chiến sĩ đã tạo cho quán một dáng vẻ ngồ ngộ, dễ thương; rồi những đôn ghế, những thớt bàn được cưa từ những cây cổ thụ u nần, mang vẻ rừng núi, cổ sơ đã giúp cho Đa La mang sắc thái rất… Đa La.

Ngày khai trương, Đa La đã mời được Linh mục Viện trưởng Viện Đại học Đà Lạt đến dự và đã chuẩn bị một chương trình văn nghệ hết sức rôm rả với những bản nhạc “nhức nhối” của Lê Uyên Phương, Nguyễn Trung Cang, Lê Hựu Hà… Chừng đó là đủ chết người ta rồi, dân Đại Học Xá kéo qua, dưới Sư Phạm, Khoa Học lên; Y Khoa; Phú Thọ xuống; cả Petrus Ký, Chu Văn An nữa là đủ bộ, quanh quanh khu Ngã Sáu chấm Đa La và dồn tới. Những ngày đó Đa La đông vui lắm, nó trở thành một chốn tụ tập hết sức văn nghệ; nó đã chứng kiến sự nở hoa của nhiều mối tình và cũng chia xẻ sự héo tàn của nhiều mối tình khác, nó có thể tiếp tục buồn vui với những người bạn trẻ như thế nếu như đất nước không có những đột biến to tát làm thay đổi rất nhiều nhịp sống chung và tác động sâu xa đến suy nghĩ và hành động của từng con người.

Đa La vắng dần những người khách cũ, lưa thưa có thêm những người mới với dáng vẻ ủ dột trầm ngâm hơn. Đa La lần lượt nhận được tin tức về nhiều người bạn cũ không bao giờ còn trở về; Đa La tiếp tục có thêm nhiều buổi cà phê cuối cùng để tiễn những người đến lượt ra đi. Đa La còn đến lúc nào? Đóng cửa bao giờ tôi không biết, có điều là đã có thời Đa La giống như một tri kỷ của nhiều người, nó cũng buồn, cũng vui, cũng hy vọng, cũng rã rời, cũng phấn chấn, cũng mệt mỏi, cũng khóc, cũng cười, cũng muốn ngoan ngoãn xây dựng, cũng thích tung trời phá phách, cũng tỉnh, cũng điên, nói chung là nó chung chịu với bạn bè những tháng ngày nhiều chuyện, dễ thương lắm và đáng nhớ lắm, một chút Sài Gòn.

Cà phê Hân ở Đinh Tiên Hoàng Đa Kao là quán thuộc loại sang trọng. Khách phần lớn ở lớp trung niên và đa số thuộc thành phần trung lưu, trí thức. Bàn ghế ở đây đều cao, tạo cho khách một tư thế ngồi ngay ngắn, nghiêm chỉnh và bàn nào cũng có đặt sẵn những tạp chí Pháp ngữ số phát hành mới nhất. Câu chuyện ở Hân chắc là quan trọng lắm, lớn lắm; nhìn cái cách người ta ăn mặc; trông cái vẻ người ta thể hiện là biết ngay chứ gì; có lẽ cả thời sự chính trị, kinh tế tài chánh, văn chương, triết học đều có cả ở đây. Một chỗ như vậy tốt lắm, đáng trân trọng lắm chứ; tuy nhiên, dường như có một chút gì rất xa, rất lạ với một dân ngoại đạo cà phê.

Hân vốn tự nó là một nơi chốn hết sức đáng yêu và chắc chắn là một nơi chốn rất đáng nhớ của nhiều người, dù ngồi quầy là một ông già đeo kính như bước ra từ một câu chuyện của văn hào Nga Chekov. Về sau, ở đối diện với Hân người ta mở thêm quán cà phê Duyên Anh của hai chị em cô Hà, cô Thanh; cô em xinh hơn cô chị và được nhiều chàng trồng cây si (không biết nơi này có liên quan gì với nhà văn Duyên Anh hay chỉ là tên đặt bởi một người chủ ái mộ nhà văn này). Quán này cũng là nơi đóng đô của một người bạn tôi, một kẻ si tình thoát ra từ Tự Lực Văn Đoàn duy nhất còn lại của thế kỷ 20 với tình yêu đơn phương dành cho cô em.

Hai tiệm cà phê, một sang trọng chững chạc, một trẻ trung sinh động, cả hai đã trở thành một điểm hẹn, một đích tới mà khi nhắc đến chắc nhiều anh chị em ở trường Văn Khoa, trường Dược, trường Nông Lâm Súc (Trung Tâm Quốc gia Nông Nghiệp rồi Học viện Quốc gia Nông nghiệp saa này) ngay góc Hồng Thập Tự – Cường Để còn nhớ, cũng như nhớ món bánh cuốn ở đình Tây Hồ bên trong chợ Đa Kao thờ cụ Phan, nhớ quán cơm lúc lắc trong một con hẻm nhỏ đường Nguyễn Bỉnh Khiêm mà nữ sinh viên vừa đi vừa run khi được mấy chàng mời cơm.
Quán cơm ghi sổ bên hông trường và trong con hẻm trại gia binh gần nhà thờ Mạc-Ti-Nho (bà chủ người Huế rất nhân hậu và hiểu cho sinh viên xa nhà. Bạn có thể ghi sổ hai, ba tháng ở đây mà không sợ bị nắm áo. Trong số ghi sổ kinh niên có tôi và Lê Quang. Có lúc đói quá hai thằng bỏ ngang tiết học để đi ăn cơm lúc… 10 giờ sáng). Rồi cả quán cơm sinh viên trong sân Hoa Lư khi đã “viêm màng túi” (từ thường dùng bây giờ). Có tiền kha khá thì ăn cơm thố ở đường Phan Đình Phùng gần Bàn Cờ, rất ngon và lạ.

Bạn nào muốn gặp các nhà văn nhà thơ, muốn nhìn họ ngậm ống vố, đeo kiếng cận nói chuyện văn chương thì mời đến quán Cái Chùa, anh em nào muốn có không khí trẻ trung đầm ấm mời đến Hầm Gió; anh em nào muốn có chỗ riêng tư tâm sự thì cứ theo đường Nguyễn Văn Học chạy tuốt lên Gò Vấp, vào quán Hương Xưa, ở đó có vườn cây đẹp, các cô chủ đẹp và cái cách người ta đối đãi với nhau cũng rất đẹp.

Cũng đừng quên nhắc đến quán Chiêu, hẻm Cao Thắng, rồi còn cà phê hàng me Nguyễn Du, bên hông Tổng cục Thực phẩm (một cơ quan tự trị – như Tổng cục gia cư – nơi tôi vào làm việc với lương tháng hơn 40,000 đồng trước khi chuyển qua Tổng cục Thủy nông ở chân cầu Thị Nghè), cũng Beatles với Don’t let me down, cũng Elvis Presley như ai; và cả pha chút Adamo quyến rũ. Vợ tôi có cô bạn Nina với quán Nina gần ngã ba, giá cao gấp rưỡi những quán bình dân gần hãng Shell nhưng so với Pole Nord hay La Pagode thì chỉ bằng 1/4 là cùng. Dần dần cà phê Nguyễn Du kéo tận đến bên hông trường đạo gần Nhà thờ Đức Bà, bản doanh của các luật sư; và kéo đến sát hông Thư viện Quốc gia.

Chán cà phê thì đi ăn nghêu sò, bò bía, ăn kem trên đường Nguyễn Tri Phương, góc Minh Mạng hoặc bên hông chợ Tân Định. Phá lấu đã có góc Pasteur-Lê Lợi, nhưng chỉ dành cho các bạn có tiền. Rủng rỉnh tí xu dạy kèm cuối tháng có Mai Hương hay Chiêu ở Cao Thắng. Quán Mù U, hẻm Võ Tánh, chỗ thương binh chiếm đất ở gần Ngã tư Bảy Hiền dành cho những bạn muốn mờ mờ ảo ảo. Muốn thưởng thức túp lều tranh mời đến cà phê dựa tường Nguyễn Trung Ngạn gần dòng Kín, đường Cường Để. Rồi quán cà phê Lú ở chợ Thị Nghè của một tay họa sĩ tên Vị Ý. Cao cấp hơn có La Pagode, Brodard.

*****
Thích xem phim Pháp xưa, phim Mỹ xưa và ngồi… cả ngày xin mời vào rạp Vĩnh Lợi trên đường Lê Lợi để chung vai với đám đồng tính. Vào Casino Sài Gòn có thể vào luôn hẻm bên cạnh ăn cơm trưa rất ngon tại một quầy tôi đã quên tên. Nhưng rạp Rex vẫn là nơi chọn lựa nhiều nhất của SV, cả nghèo lẫn giàu. Người chịu tiền vé xem phim, người chịu tiền cà phê, cuộc sống SV cứ chia sẻ như thế mà đi tới vô định. Nghèo nhưng vui và mơ mộng tới trời. Tống Biệt hành, Đôi mắt người Sơn Tây sống chung với Cô hái mơ. Đại bác ru đêm sánh vai với Thu vàng. Ảo vọng và thực tế lẫn vào nhau. Thỉnh thoảng lại pha thêm chút Tội ác Hình phạt, Zara đã nói như thế, Che Guervara, Garcia Lorca… nhưng định hướng vẫn mịt mờ, vô định, không thấy đâu là đường. Cứ ngỡ mở mắt dậy sẽ thành anh hùng nhưng lại không có ngày mai.

Trong tâm trạng đó SV nào chả có một lần ghé Ngã ba Chú ía hay Ngã năm Chuồng chó để biết mùi đàn bà? Và rồi kết thúc tại Trung tâm hoa liễu Hồ Xuân Hương nếu thiếu may mắn. Nhưng không sao, sinh viên mà! “Cõi trên” một chút, tâm thần một chút, lập dị một chút, đói (giả hay thật) một chút, “thầy tu” một chút, du đãng một chút và cả ở bẩn một chút, thì mới là sinh viên. Tất cả những gì tôi nhắc tới là một chút ngày cũ, một chút cảnh xưa, một phần hơi thở và nhịp sống của Sài Gòn trong trí nhớ. Xin tặng anh, tặng chị, tặng em, đặc biệt là tặng tất cả những ai tha hương có lúc bỗng bàng hoàng nhận thấy, dường như một nửa trái tim mình còn đang bay lơ lửng ở cà phê Hồng, Duyên Anh, hay đâu đó ở quê nhà…

Sài Gòn, Tháng Tám 2021

(Kỷ niệm những năm ở cư xá HỌC VIỆN QUỐC GIA NÔNG NGHIỆP SÀI GÒN trước 1974)