PDA

View Full Version : Trang Hát Nói của Trần Nhất Lang và thân hữu



Thùy Linh
12-08-2011, 03:54 PM
Trang Hát Nói của Trần Nhất Lang và thân hữu


http://i98.photobucket.com/albums/l274/NhonhaKG/new-2-5.jpg

Thùy Linh
12-08-2011, 04:00 PM
HÁT NÓI

Trích trong sách “Việt nam Văn Học Sử Yếu” của Dương Quảng Hàm
N. N sưu tầm

Hát nói là một trong các lối hát ả-đào hay đào nương-ca. Hát ả - đào gốm những lối ca trù do đào-nương (hoặc cô đào) hát, đối với lối hát trai hay Hà-nam do giáp-công (hoặc kép) hát.
Hát ả - đào kể có nhiều lối như dâng hương,giáo trống, gửi thư, thét nhạc… Nhưng chỉ có lối hát nói là thông dụng nhất là có văn chương lý-thú nhất.
Hát nói có thể coi là một biến thể của hai thể lục bát và song thất.

Đủ khổ, dôi khổ và thiếu khổ,- Mỗi bài hát nói chia làm nhiều đoạn gọi là khổ bài. Mỗi khổ có bốn câu, trừ khổ cuối chỉ có ba câu.


Theo số khổ, hát nói chia làm ba thể:

Đủ khổ là những bài có ba khổ (khổ đầu 4 câu, khổ giữa 4 câu, khổ xếp 3 câu) cộng là 11 câu. Thế này là chính thức.
Dôi khổ là những bài có hơn ba khổ (khổ dôi ra là khổ giữa).
Thiếu khổ là những bài thiếu một khổ (thường là khổ giữa) chỉ có 7 câu.

Hai thể sau là biến thức.


I. Đủ khổ
Các câu trong bài đủ khổ: theo tiếng nhà nghề, 11 câu trong bài đủ khổ có tên riêng là :
- khổ đầu: hai câu 1 – 2 là lá đầu, hai câu 3 – 4 là xuyên thưa.
- Khổ giữa: hai câu 5-6 là thơ, hai câu 7-8 là xuyên mau.
- Khổ xếp: câu 9 là dồn, câu 10 là xếp, câu 11 là keo.

Số chữ trong câu hát nói: số chữ không nhất định , thường đặt những câu 7,8 chữ, nhưng có khi đặt những câu ngắn hơn chỉ có 4,5 chữ, hoặc dài tới 12,13 chữ.
Duy có câu cuối bao giờ cũng đặt 6 chữ và hai câu 5-6 đặt thành hai câu thơ thì phải theo thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn. Nhưng hai câu 5-6 không đặt theo thể thơ và có số chữ so le cũng được. Thí dụ (hai câu 5-6 trong bài Rõ mặt tu mi của Nguyễn Công Trứ):

Đố kỵ sá chi con tạo
Nợ tang bồng quyết trả cho xong.

Cách gieo vần trong bài hát nói:


Cách gieo vần phải theo các lệ sau này:





Trong bài hát nói, dùng cả hai thứ vần: vầng bằng và vần trắc. Khi nào trong một câu đang vần bằng đổi sang vần trắc hoặc trả lại thế thì vừa có yêu vận và cước vận. những câu ấy là các câu chẵn, trừ câu thứ sáu là câu thơ nên chỉ có cước vận thôi.
Trong mỗi khổ, cước vận của câu đầu và câu cuối phải dùng tiếng trắc, cước vận của hai câu giữa phải dùng tiếng bằng. còn yêu vận của câu thứ hai thì phải dùng tiếng trắc mà của câu thứ tư thì dùng tiếng bằng để có thể chuyển vần trắc sang vần bằng hoặc vần bằng sang vần trắc được.
yêu vận gieo vào chữ cuối đoạn thứ nhì (về sự chia đoạn, xem rõ mục sau).

Luật bằng trắc trong các bài hát nói. - Đại khái luật bằng trắc các câu trong mỗi khổ bài hát nói là như sau (những chữ in nghiêng ) không cần theo đúng luật, theo lệ (nhất, tam, ngũ bất luận ):

[LEFT]Câu thứ nhất : t t b b t t
Câu thứ nhì : b bt t b b
Câu thứ ba : b b t t b b
Câu thứ tu : t t b bt t

Nên nhớ : Câu đầu và câu cuối theo một luật vì hai câu ấy đều gieo vần trắc, hai câu giữa đều theo một luật vì hai câu ấy đều gieo vần bằng.


Lời chú

1. Khổ xếp chỉ có ba câu thì theo luật của ba câu đầu kể trên.
2. Những câu 5-6 và những câu khác trong bài hát nói, nếu đặt thành câu thơ, thì phi theo đúng luật thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.
3. Những câu 6 chữ theo đúng luật kể trên. Còn những câu dài trên 6 chữ thì đối với việc ứng-dụng luật ấy, phải chia làm ba đoạn con, mỗi đoạn hai chữ, hoặc 3,4 chữ hay dài hon nữa. Trong mỗi đoạn, chỉ kể chữ cuối là phi theo luật bằng trắc, trong chữ trên gác ra ngoài không kể, muốn đặt tiếng gì cũng đuợc.
4. Những câu 4,5 chữ chỉ chia làm hai đoạn thì đoạn thiếu là đoạn đầu không kể, còn hai đoạn cuối theo đúng luật. Thí dụ câu đầu bài Chơi thuyền Hồ Tây của Nguyễn Khuyến :

Thuyền lan nhẹ nhẹ
b b t t
Câu đầu bài Cái thú say ruợu của Nguyễn Công Trứ (?)

Say chưa ? Say mới thú
b b 0 t t

5. Những câu lấy chữ sẵn không theo đúng luật bằng trắc.
Thí dụ câu thứ hai của khổ xếp trong bài này Mộng sự với chân thân của Cao Bá Quát (?):
Quân bất kiến Hoàng-hà chi thủy thiên thuợng lai.
( câu này là câu lấy chữ sẵn ở trong bài Tuong tiến tửu của Lý Bạch ).


Lời chú-
Lệ gieo vần và luật bằng trắc tuy như đả kể trên, nhưng đôi khi nhà văn không làm theo đúng hẳn cũng đuợc, miễn là câu đăt có thể hát đuợc lưu loát thì thôi..


Một bài hát nói có đủ khuôn khổ làm mẫu :

Nợ nam nhi của Nguyễn Công Trứ (0= chữ gác ra ngoài luật, b = bằng; t = trắc; yv = yêu -vận; cv = cuớc-vận; (hết một đoạn)

I :Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái.
B b t t b b t (cv) ( theo luật thơ)

II : Cái công danh là cái nợ nần.
0 b b t t (yv) b b

III : Nặng nề thay hai chữ “quân thân” !
0 b b t t b b (cv)

IV : Đạo vi tử, vi thần đâu có nhẹ.
0 t t b b (yv) 0 t t (cv)

V : Cũng rắp điền viên vui tuế nguyệt.
T t b b b t t (cv)

VI : Trót đem thân- thế hẹn tang bồng.
B b t t t b b (cv)

VII : Xếp bút nghiên theo việc kiếm cung.
0 t b t t b b (cv)

VIII : Hết hai chữ “trinh trung” báo quốc,
0 t t b b t t (cv)

IX : Nghiêng mình những vì dân vì nuớc,
0 t t b b t t (cv)

X : Túi kinh luân từ truớc để về sau,
0 b b t t (yv) 0 b b (cv)

XI : Nghìn thu một tiếng : công hầu.
B b t t b b (cv)

II DÔI KHỔ

Cách làm bài hát nói dôi khổ. - Trong những bài dôi khổ, khổ đầu, vẫn ở trên, khổ xếp vẫn ở duới, còn khổ giữa thì làm dôi ra thành hai ba khổ hoặc nhiều hon nữa tùy ý. Trong những khổ dôi ra, số câu, số chữ, cách gieo vần và luật bằng trắc cung theo như các khổ chính. Thí dụ phong cảnh Huong son của Mạnh Chu Trinh ( xem phần thứ nhì, bài số 133).

III_ THIẾU KHỔ
Những bài khổ thiếu - một đôi khi bài hát nói thiếu hẳn đi một khổ, thuờng là khổ giữa, chỉ còn lại có 7 câu.
Thí dụ :

Tiễn biệt

Ngán cho nỗi xoay vần thế cục
Sum-họp này chả bõ lúc phân ly,
Hỡi ông tơ ! Độc địa làm chi!
Bắt kẻ ở người đi mà nỡ được!
Thôi đã chót cùng nhau nguyện-ước,
Duyên đôi ta chả trước thì sau.
Yêu nhau nhớ lấy lời nhau.

CUNG THÚC THIỀM


IV-MƯỠU

Định nghĩa : Mưỡu là những câu làm theo thể loại lục bát đi kèm với hát nói, hoặc ở trên (mưỡu đầu), hoặc ở dưới (mưỡu hậu).
Không phải bài hát nói nào cũng có mưỡu; có nhiều bài không có. Lại có bài chỉ có mưỡu đầu hoặc mưỡu cuối; có bài có cả mưỡu đầu và mưỡu cuối.

Mưỡu đầu :

Mưỡu đầu có thể có một cặp câu lục bát (mưỡu đơn)hoặc hai cặp câu lục bát (mưỡu kép).
Những câu mưỡu đầu bao giờ cũng đặt trùm lên bài hát nói. Câu mưỡu cuối không phải hiệp vần với câu đầu bài hát nói. Thí dụ :


Đồng Tiền

Mưỡu ( đơn)

Hôi tanh chẳng thú vị gì,
Thế mà ai cũng kẻ vì, người yêu.

Nói:

Tạo-vật bất thị vô để sự,
Bòn chài ra một thứ quấy chơi.
Đủ vuông tròn tuợng Đất, tuợng Trời.
Khẳm họa, phúc, nguy, yên, tử, hoạt.
Chốn kim-môn noi tử-thát
Mặc phao tuồng không kẻ phòng nhàn.
Đương om-sòm chớp giật, sấm ran
Nghe xốc xách, lại gió hòa mua ngọt.
Kẻ tài-bộ đa vào phương vận đạt,
Không ngươi, cùng ải với cỏ cây
Nguời yêm yêm đành một phận trầm mai
Có gã, lại trổ ra sừng gạc.
Dốc đáy túi, mặt Nguyễn lang ngơ-ngác,
Trổng đầu giuờng, gan tráng-si-làu-bàu.
Để đoàn ấm-á càu-nhàu,
Khiến lu tài-danh vơ-vẩn.
Khả quái tầm thuờng “a đổ vật”
Khuớc giao đáo để đại thần linh.
Đương đồ ai chẳng chuộng gia Huynh,
Thù thế, kể lấy làm đệ nhất,
Tiếng xỏng-xảnh đầy trong trời đất,
Thần cũng thông, huống nữa là ai?
Long đồ nghĩ cũng nực cuời.

NGUYỄN CÔNG TRỨ


Hồ Hoàn Kiếm

Muỡu (kép )

Lênh-đênh duới nuớc trên trời,
Quanh thuyền trăng gió một vài ông thơ.
Bút nghiên để sẵn bao giờ,
Đề câu tuyệt-diệu còn nhờ tay ai?

Nói:

Thu phong thu nguyệt.
Cảnh Kiếm-hồ bao xiết vẻ phong-quang,
Soi biết bao lợi-tẩu danh-truờng,
Kìa vân-cẩu mảnh guong còn mãi đó
Nước biếc khôn tìm gương Thái-tổ
Đá xanh hầu mốc chữ Phuong-đinh.
Chẳng quản chi nguời chi nhục, kẻ chi vinh,
Lấy sơn thủy hữu tình làm khế hữu.
Khi bình hoa,khi đối tửu,
Kho trời chung phong nguyệt của riêng ta:
Chơi đi kẻo nữa mà già.

HOÀNG CẢNH TUÂN


Muỡu hậu - Muỡu hậu bao giờ cũng là muỡu đơn. Muỡu hậu thuờng đặt ở câu xếp và câu keo; nhưng cung có khi đặt ở duới câu keo, nghia là đặt hẳn xuống cuối câu bài hát nói. Nếu hai câu muỡu hậu đặt xen vào giữa câu xếp và câu keo, thì câu lục phải ăn vần với câu xếp ở trên ở câu bát phải buông vần với câu keo ở duới bắt vào. Thí :Cầm kì thi tửu của Nguyễn Công Trứ (xem phần thứ nhì, bài thứ 102)
Một số bài Nói có thể vừa có muỡu đầu vừa có muỡu hậu. Thí dụ :


Vịnh Tiền Xích Bích

Gió trăng chứa một thuyền đầy,
Của kho vô tận biết ngày nào vơi.
Ông Tô-tử qua choi xích-bích,
Một con thuyền với một túi thơ.
Gió hiu-hiu mặt nuớc nhu tờ,
Trăng chênh-chếch đầu non mới ló.
Thuyền một lá xông ngang ghềnh bạch-lộ,
Buông chèo hoa len-lỏi chốn sơn-cương.
Ca rằng:
Quế chạo hề lan tương,
Kích không minh hề tố lưu quang.
Diểu-diểu hề du hoài,
Vọng mi-nhân hề thiên nhất phương.
Nguời ỷ-a réo-rắt, khúc cung thương.
Tiếng kêu lẫn tiếng ca vang đáy nuớc.
Sực nhớ kẻ quay ngọn giáo vịnh câu thơ thuở truớc,

Nghi sự đời nên cảm nỗi phù-du.
Hai kho phong nguyệt nghìn thu hãy còn.
Còn trời, còn nuớc, còn non.

NGUYỄN CÔNG TRỨ

CÁC TÁC PHẨM KÊ CỨU

1.) Phan Kế Bính, Việt hán văn khảo (sách đa kể truớc)
2.) Uu-thiên Bùi-Kỉ, Quốc văn cụ thể: Tân Việt Nam thư-xã Hà Nội
3.) Đông Châu, Cổ-súy nguyên-âm, cuốn thứ nhì (sách đa kể truớc)
4.) Ôn-như Nguyễn Văn Ngọc, Đào- nương ca, tập I, Hát nói và hát muỡu. Việt văn thư-xã, Vĩnh-hưng-long thư quán Hà Nội.
5.) Phạm Văn Duyệt, Hát ả đao, quyển thứ nhất. Imp. Du Trung- Bắc tân- văn Hà-nội
6.) Hoàng- tăng- Bý, Văn ca trích cẩm 200 bài hát ả đao, Tân-dân thư-quán Hà- nội.
7.) Phạm Quỳnh, Văn chuong trong hát ả đao, P.N.t.XII số 69 tr.171-188



____________________________


DU XUÂN

MƯỠU

Du xuân ngày rộng tháng dài
Muôn hồng ngàn tía biết ai bạn giờ ?
Mận hỏi thì Đào xin thưa
Trách người không đến hững hờ hoa xuân .


NÓI

Ngày xuân đẹp thảnh thơi du ngoạn
Lắm hoa xinh muôn vạn tía hồng
Đang cợt đùa chờ đón gió đông
Thơ với rượu, vẳng bên sông én gọi .

Thi sĩ gieo vần tìm ý mới
Giai nhân dạo gót ngắm trời xanh
Dù là ai, dân giả hay bậc công, khanh
Cũng sắm sửa hội đạp thanh nô nức
Xuân chín chục thiều quang đưa bóng ác
Đôi chim oanh ríu rít hót trên cành
Vui xuân tơ liễu còn xanh !

Trần Nhất Lang

Thùy Linh
12-08-2011, 04:06 PM
Thùy Linh đã xin và được phép của Đại Thi huynh Trần Nhất Lang đem thơ qua Đặc Trưng



CẢNH ĐÀN NHẠN BAY XUỐNG BÃI CÁT . (1)


MƯỠU

Kìa đâu cát phẳng một doi
Mấy chòm cỏ lục, loi thoi trận nhàn
(Hoa Tiên Truyện)


NÓI

Ngàn Tương cát phẳng
Trên không kìa đàn nhạn đưa thoi
Lớp theo đàn, lớp chậm cánh lẻ loi
Thủy triều xuống nhạn từng đôi về bãi trú .
Vàng lập ruộng thu ăn dễ đủ
Tuyết in bãi trảy chẹn thưa rồi (2)
Cảnh thanh nhàn chim nhạn đậu bên doi
Trên dòng nước bóng chiều rơi thấp thoáng .
Mộng hương quan mơ màng khói sóng (3)
Thương cho người lẻ bóng đèn chong
Nõi lòng ai biết hay không ?


(1) Phỏng theo ý thơ bài Bình Sa Lạc Nhạn,
một trong 8 bài Bát Cảnh Tiêu Tương
của danh sĩ nước ta Lương Nhữ Hộc
vịnh 8 bức họa của Tống Địch, Trung Hoa .

(2) Hai câu 5 & 6 lấy nguyên văn bài nguyên tác
Bình Sa Lạc Nhạn .
Trảy là lúa điêu cô, chim nhạn rất thích ăn .
Chẹn là ngăn cản .
(3) Hương quan là cái cổng làng, thôn . Câu này ý nói
nhìn khói sóng trên sông mà nhớ tới quê hương .
Mượn ý hai câu cuối bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu :
"Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu "
Tản Đà dịch thơ :
"Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng thêm buồn lòng ai ."

Trần Nhất Lang (http://www.bensongmay.com/profile.php?mode=viewprofile&u=25)

Thùy Linh
12-08-2011, 04:12 PM
CẢNH CHỢ CHIỀU Ở CHÂN NÚI . (1)

MƯỠU

Kìa đâu mây tạnh chân ngàn
Lưng đèo xơ xác, họp tan chợ chiều .

(Hoa Tiên Truyện)


NÓI

Tám bức bình phong non mở
Cảnh hoàng hôn chân núi chợ họp bầy
Dẫy lá xanh, ánh vàng chiếu trên cây
Rượu lưu khách, người về cá dây liễu xỏ .
Điếm nọ cờ còn trương gió
Lều kia rèm đã cuốn mây (2)
Vẳng trên sông điệu sáo khúc Lạc Mai (3)
Người cỡi hạc đã bay về núi thẳm .
Trên sườn núi bóng chiều bảng lảng
Chốn quê nhà vầng trăng sáng còn không ?
Trăng chia hai mảnh nhớ mong ! (4)


(1) Đây là bài Sơn Thị Tình Lam, là bài thứ hai của
Bát Cảnh Tiêu Tương cùng một tác giả Lương Nhữ Hộc .
Thiết tưởng chúng ta cũng nên biết đôi nét về Tiêu Tương .
Tiêu Tương là chỗ sông Tiêu và sông Tương hiệp lại trong
tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa . Sông Tương phát nguyên từ
Dương Hải Sơn (Quảng Tây) chảy qua Hồ Nam, Trường Sa,
vào hồ Động Đình. Nơi này có nhiều cảnh đẹp,
nhà danh họa Tống Địch đã ghi lại những cảnh này trên
tám bức họa nổi tiếng, được nhiều danh sĩ làm thơ vịnh .

Vua Thuấn di giá đi tuần thú xứ Thương Ngô và mất ở đó .
Hai bà vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm vua Thuấn đến
bờ sông Tiêu Tương, cả hai ngồi bên bờ sông mà khóc,
nước mắt vấy vào những cành trúc . Về sau trúc mọc ở
bờ sông Tương đều lấm chấm trông như đồi mồi .
Người ta gọi là Tương phi trúc, hay dùng làm mành cửa .
Trong Truyện Kiều có câu :

"Mành Tương lất phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình".

Và chữ giọt Tương chỉ nước mắt cũng ở điển này mà ra .

(2) Hai câu này trích nguyên văn của nguyên tác .Đây là
loại thơ Thất Ngôn Bát Cú cổ thể, thường có hai
câu 6 chữ ở cặp Trạng hay cặp Luận .
Trong cuốn Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập chúng ta thường
thấy những bài thơ viết theo cách này .

(3) Lạc Mai Hoa là tên một khúc sáo rất thê lương khiến
người nghe phải chạnh nhớ tới quê hương mình .

(4) Điển này thì dễ rồi . Trong Tuyện Kiều có câu :
"Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dậm trường".


Trần Nhất Lang

__________


CÁNH BUỒM VỀ TỪ NƠI XA (1)

MƯỠU

Kìa đâu cuối phố quạnh hiu
Chân trời thấp thoáng con chèo về khơi .
(Hoa Tiên Truyện)


NÓI

Bến liễu thuyền san sát
Buồm xa về lớp lớp đậu bên doi
Giây lèo căng thuận gió phương trời
Xuyên cánh mây vượt trùng khơi sóng rẽ .
Thuyền tách thinh thinh chèo nhẹ nhẹ
Khói tan thức thức lục ơi ời (2)
Sông Ngô, bể Sở từng đến thăm chơi
Bút Ma Cật đố vẽ vời nên bức họa (3)
Phong cảnh ấy tay thợ trời điểm hóa
Sông nước, thuyền mây đã gom cả vào đây
Càng nhìn mà dạ thêm say !

(1) Đây là bài Viễn Phố Quy Phàm, là bài thứ ba
trong Bát Cảnh Tiêu Tương của Lương Nhữ Hộc .
Viễn Phố : Là nơi bán hàng xa . Còn có nghĩa là nơi ở xa .
Thơ Bà Huyện Thanh Quan có câu :
Gác mái, ngư ông về viễn phố
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn .

(2) Hai câu 5&6 lấy trong bài nguyên tác .
Tách : Là tách bến . Rời bến .
Thinh thinh : Như thênh thênh, có nghĩa là rộng rãi .
Còn có nghĩa là rất nhẹ .
Thức thức : Là thứ này thứ khác . Nhiều thứ .
Trong Truyện Kiều có câu :
"Thời trân thức thức sẵn bầy
Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường".
Lục : Mầu xanh lá cây . Ý nói sau khi khói tan,
phong cảnh hiện ra với bao nhiều cây cối xanh tươi
cùng với mầu xanh của vòm trời, khiến ta liên tưởng
tới câu thơ cổ : "Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc."
Dòng nước thu và bầu trời (dài) cùng chung một mầu .
Tố Như tiên sinh có câu tả cảnh rất hay, có lẽ phần
nào ảnh hưởng câu thơ cổ này :
"Lung linh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc, non phơi ánh vàng."

(3) Ma Cật . Vương Duy tự là Ma Cật, đời Đường .
Năm 21 tuổi thi đậu tiến sĩ, ra làm quan .
Ông sớm từ quan về ở ẩn ở núi Chung Nam .
Ngoài tài thơ ra, Vương Duy còn sành âm nhạc,
giỏi thư pháp và hội họa . Tranh sơn thủy của ông
mở đầu cho lối họa Nam tông .
Vương Duy có địa vị cao trong Nam phái Thiền tông .
Người đời gọi ông là Thi Phật .

Trần Nhất Lang

Thùy Linh
12-08-2011, 04:17 PM
BÓNG CHIỀU Ở XÓM CHÀI (1)


MƯỠU


Kìa đâu thuyền bến nơi doi
Ngư thôn mấy nóc bóng trời tà dương .
(Hoa Tiên Truyện)



NÓI


Bên sông nhà chục mái
Ráng chiều rơi hồng trải thôn trang
Dẫy núi tây non nhuộm ánh vàng
Thuyền đậu sát chan chan bến lặng .
Pha khói chim về cây điểm phấn
Quáng vòng cá hớp nước tuôn la (2)
Kìa thuyền ai chèo lan vẫy xa xa
Người đội nguyệt cất tiếng ca bay theo gió .
Thương Lang hề một bài thơ cổ (3)
Thương Lang hề nước vỗ trăng treo
Thơ rằng :
"Sông Thương nước chảy trong veo
Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta .
Sông Thương nước đ ục chảy ra
Thì ta lội xuống để mà rửa chân." (4)


(1) Đây là bài thứ tư, tức là Ngư Thôn
Tịch Chiếu của Lương Nhữ Hộc .
(2) Hai câu 5&6 mượn nguyên văn trong bài nguyên tác .
(3) (4) Thương Lang là tên một phần sông Hán .
Do chữ lấy trong thơ : "Thương Lang chi thủy thanh hề,
khả dĩ trạc ngã anh; Thương Lang chi thủy trọc hề,
khả dĩ trạc ngã túc ."
Nghĩa bóng ý nói : "Thời thái bình ra gánh vác việc đời,
Thời loạn lạc lui về ở ẩn ."
Phần dịch thơ của cổ nhân ở ghi chú (4) .
Tác giả mượn làm Mưỡu Hậu Kép để
kết bài Hát Nói .


[/COLOR]Trần Nhất Lang
Thu Apr 01 2010

Thùy Linh
05-07-2013, 07:06 PM
CẢNH ĐÀN NHẠN BAY XUỐNG BÃI CÁT . (1)

MƯỠU

Kìa đâu cát phẳng một doi
Mấy chòm cỏ lục, loi thoi trận nhàn
(Hoa Tiên Truyện)


NÓI

Ngàn Tương cát phẳng
Trên không kìa đàn nhạn đưa thoi
Lớp theo đàn, lớp chậm cánh lẻ loi
Thủy triều xuống nhạn từng đôi về bãi trú .
Vàng lập ruộng thu ăn dễ đủ
Tuyết in bãi trảy chẹn thưa rồi (2)
Cảnh thanh nhàn chim nhạn đậu bên doi
Trên dòng nước bóng chiều rơi thấp thoáng .
Mộng hương quan mơ màng khói sóng (3)
Thương cho người lẻ bóng đèn chong
Nõi lòng ai biết hay không ?


(1) Phỏng theo ý thơ bài Bình Sa Lạc Nhạn,
một trong 8 bài Bát Cảnh Tiêu Tương
của danh sĩ nước ta Lương Nhữ Hộc
vịnh 8 bức họa của Tống Địch, Trung Hoa .

(2) Hai câu 5 & 6 lấy nguyên văn bài nguyên tác
Bình Sa Lạc Nhạn .
Trảy là lúa điêu cô, chim nhạn rất thích ăn .
Chẹn là ngăn cản .
(3) Hương quan là cái cổng làng, thôn . Câu này ý nói
nhìn khói sóng trên sông mà nhớ tới quê hương .
Mượn ý hai câu cuối bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu :
"Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu "
Tản Đà dịch thơ :
"Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng thêm buồn lòng ai ."


Trần Nhất Lang (http://www.bensongmay.com/profile.php?mode=viewprofile&u=25)
Thu Mar 25, 2010 (http://www.bensongmay.com/profile.php?mode=viewprofile&u=25)


[/CENTER]

Thùy Linh
05-10-2013, 06:23 AM
BÓNG CHIỀU Ở XÓM CHÀI (1)


MƯỠU

Kìa đâu thuyền bến nơi doi
Ngư thôn mấy nóc bóng trời tà dương .
(Hoa Tiên Truyện)


NÓI


Bên sông nhà chục mái
Ráng chiều rơi hồng trải thôn trang
Dẫy núi tây non nhuộm ánh vàng
Thuyền đậu sát chan chan bến lặng .
Pha khói chim về cây điểm phấn
Quáng vòng cá hớp nước tuôn la (2)
Kìa thuyền ai chèo lan vẫy xa xa
Người đội nguyệt cất tiếng ca bay theo gió .
Thương Lang hề một bài thơ cổ (3)
Thương Lang hề nước vỗ trăng treo
Thơ rằng :
"Sông Thương nước chảy trong veo
Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta .
Sông Thương nước đ ục chảy ra
Thì ta lội xuống để mà rửa chân." (4)


(1) Đây là bài thứ tư, tức là Ngư Thôn
Tịch Chiếu của Lương Nhữ Hộc .
(2) Hai câu 5&6 mượn nguyên văn trong bài nguyên tác .
(3) (4) Thương Lang là tên một phần sông Hán .
Do chữ lấy trong thơ : "Thương Lang chi thủy thanh hề,
khả dĩ trạc ngã anh; Thương Lang chi thủy trọc hề,
khả dĩ trạc ngã túc ."
Nghĩa bóng ý nói : "Thời thái bình ra gánh vác việc đời,
Thời loạn lạc lui về ở ẩn ."
Phần dịch thơ của cổ nhân ở ghi chú (4) .
Tác giả mượn làm Mưỡu Hậu Kép để
kết bài Hát Nói .


Trần Nhất Lang
Thu Apr 01, 2010

-------------------------




(http://www.bensongmay.com/profile.php?mode=viewprofile&u=25)]TIẾNG CHUÔNG CHÙA VĂNG VẲNG TRÊN NÚI (1)

MƯỠU

Kìa đâu nghi ngút khói sương
Chầy khuya mấy tiếng chuông vang mái chùa .
(Hoa Tiên Truyện)


NÓI

Đầu non sương khói
Tiếng chuông đâu ban tối tỏ cơ Thiền
Chùa núi cao như một thế giới riêng
Chuông văng vẳng tới khách thuyền bến trước .
Ngảnh mặt xem ngờ những nước
Nghiêng tai mảng mới hay chiền (2)
Giật mình tỉnh giấc cô miên
Khách tang hải nợ trần duyên chưa dứt .
Chuông thanh thoát xua tan niềm tục
Cửa Từ Bi công đức cao sâu
Không Môn càng tỏ pháp mầu .

(1) Đây là bài thứ năm, Yên Tự Vãn Chung của
Lương Như Hộc vịnh Bát Cảnh Tiêu Tương .
(2) Câu 5&6 trích trong bài nguyên tác .
Chiền : Là chùa .

Đọc đến đây chúng ta không thể nào không
liên tưởng tới bài Tứ Tuyệt nổi tiếng của Trương Kế, đời Đường .
Đó là bài Phong Kiều Dạ Bạc.

Truyện kể lại rằng : Một đêm kia,
một bài thơ Tứ Tuyệt tình cờ được làm ra do
hai thầy trò nhà sư chùa Hàn San, hai câu trên
là của vị tăng, hai câu dưới là của chú tiểu .

Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tự ngân câu bán tự cung
Thùy bả kim hoàn phân lưỡng đoạn
Bán trầm thủy để bán phù không .

Dịch thơ :

Mồng ba, mồng bốn trăng mờ
Nửa dường móc bạc, nửa như cung trời .
Ai đem vòng ngọc chia hai
Nửa in đáy nước, nửa cài tầng không .

Tiếng chuông chùa do nhà sư đánh lên
lúc nửa đêm để cảm tạ Phật tổ về sự
hoàn thành bài thơ trên, đã vẳng đến
bến sông gần đó, khiến cho thi sĩ Trương
Kế làm nên câu cuối của bài thơ tuyệt diệu
"Phong Kiều Dạ Bạc".

PHONG KIỀU DẠ BẠC

Trương Kế

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên .
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền .

Phong Kiều : Ở ngoài cửa Xương Môn,
thị trấn Tô Châu, tỉnh Giang Tô .
Cô Tô : Thị trấn Tô Châu ngày nay .
Hàn San tự : Ở phía tây Phong Kiều .
Đời Đường, hai nhà sư Hàn San và Thập Đắc
trụ trì tại đây, nên chùa có tên là Hàn San .

Dịch thơ :

Ban Đêm Thuyền Đậu
Bến Phong Kiều

Quạ kêu, trăng lặn sương trời
Buồn hiu giấc ngủ lửa chài, bến phong .
Đêm Cô Tô vẳng tiếng chuông
Chùa Hàn San đến thuyền sông Phong Kiều .
Trần Trọng San dịch .

Tản Đà dịch :

Trăng tà, tiếng quạ kêu sương
Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ .
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San .

(Trích từ Thơ Đường của Trần Trọng San) .

Thùy Linh
05-10-2013, 06:35 AM
MƯA ĐÊM TRÊN SÔNG TIÊU TƯƠNG (1)

MƯỠU

Kìa đâu lệ trúc nhuộm thâu
Tiêu Tương rả rích mưa mau canh chầy .
(Hoa Tiên Truyện)


NÓI

Mưa đêm rả rích
Suốt canh thâu tí tách giọt thu
Dải Tiêu Tương khóm lệ trúc âm u
Tiếng nhặt thưa nhu ru, không chợp mắt .
Đầy vơi lòng khách mưa không dứt
Lai láng hồn thơ hứng có thừa (2)
Sớm mai dậy xem rồng đã mọc cháu chưa ? (3)
Cảnh ngoạn mục lạ hơn xưa biết mấy !
Người tài tử bút thần say vẽ lấy
Tranh Tiêu Tương Dạ Vũ còn đấy ngàn sau
Giọt tuôn lệ trúc mưa mau !

(1) Đây là bài Tiêu Tương Dạ Vũ, bài thứ tám
của Lương Nhữ Hộc vịnh Bát Cảnh Tiêu Tương .
Và cũng để chấm dứt loạt bài này .
(2) Phóng tác theo hai câu 5&6 của nguyên tác .
(3) Do chữ Long Tôn tức là mục măng, cũng là
tên một thứ trúc ở Thần Châu mọc trong hang núi,
nhỏ như cây trâm .
Chữ lấy trong câu :
"Nhất dạ tứ sơn lôi vũ khởi
Mãn sơn vô số trường long tôn".
Dịch thơ :
Một đêm mưa gió bốn bề
Đầy non vô số măng tre mọc dài .

Trần Nhất Lang
Sun Mar 21, 2010
(http://www.bensongmay.com/profile.php?mode=viewprofile&u=25)
----------------------------


TIẾNG VẠC ĐÊM SƯƠNG

MƯỠU

Vẳng nghe tiếng vạc kêu sương
Bể dâu mấy độ tang thương mấy lần .


NÓI

Mù sương phố núi
Một người xưa đi dưới bóng chiều rơi
Mười lăm năm bao vật đổi sao dời
Nghe đâu đó tiếng vạc Hời kêu đêm vắng .
Đời vương mộng áo xanh mây trắng
Thơ đọng sầu dòng thắm gối khuya
Dấu ruộng dâu biển cả hãy còn kia
Tranh vân cẩu vẫn hiện về theo mây xám .
Giấc mộng lớn một mầu ảm đạm (**)
Chưa suy tàn ai dám nói bền lâu
Cổ kim mấy bãi nương dâu !

Năm 1990 tác giả lên thăm thành phố Đà Lạt .

(**) Phỏng theo ý thơ của Lý Bạch trong bài
Xuân Nhật Túy Khởi Ngôn Chí .

"Xử thế nhược đại mộng"

Dịch nghĩa : Cuộc đời giống như giấc mộng lớn .


Trần Nhất Lang
Sun Mar 21, 2010 (http://www.bensongmay.com/profile.php?mode=viewprofile&u=25)

Thùy Linh
05-10-2013, 06:41 AM
THĂM GIẾNG NGỌC TRÊN NÚI .

MƯỠU

Nhớ xưa thăm giếng trên đèo
Rừng hoa chim hót, thác gieo tiếng đàn .


NÓI


Rủ nhau thăm Giếng Núi
Một đoàn người dắt díu nối đuôi leo
Thăm giếng Ngọc xa mãi tận đỉnh đèo
Xe giây cáp cheo leo qua núi lửa .
Đáy giếng lung linh trời lật ngửa
Cỏ rêu lún phún nước trong veo
Qua đồi hoa chim hót gió ngàn reo
Đường khúc khuỷu giọt sương gieo cành liễu .
Nào thi sĩ, giai nhân yểu điệu
Nắng hồng lên rọi chiếu bước cầu treo
Mải vui dốc mấy cũng trèo .

Trần Nhất Lang
Sat Mar 13, 2010 (http://www.bensongmay.com/profile.php?mode=viewprofile&u=25)



-----------



NGƯỜI VỀ KẺ Ở

MƯỠU

Người ơi, người ở đừng về
Để cho nguyệt gác hoa lê tủi hờn
Tương tư chết nửa tâm hồn
Môi son phai nhạt, lệ tuôn má đào .


NÓI

Người về, kẻ ở
Suốt năm canh cứ nhớ nhớ, thương thương
Buổi hôm nao chia chén rượu đêm trường
Giục tiếng trống bên tường, gà báo gọi .
Bứt rứt nhẽ trăm tơ ngàn mối
Băn khoăn lời một chốn hai nơi
Trót đa mang tiếng hát giọng cười
Một ngày nên nghĩa cũng là người tri kỷ .
Không nỡ bước phút phân kỳ buồn tẻ
Tiễn người đi mà giòng lệ đầy vơi
Tương tư gánh nặng chàng ơi !


Trần Nhất Lang
Sat Mar 13, 2010 (http://www.bensongmay.com/profile.php?mode=viewprofile&u=25)

Thùy Linh
05-10-2013, 06:45 AM
NGỒI TỰA SONG ĐÀO

MƯỠU

Ngồi rằng ngồi tựa song đào
Hỏi người tri kỷ ra vào có thấy vấn vương ?
Gió lạnh suốt đêm canh trường
Nửa chăn nửa chiếu nửa giường để đó đợi ai !
(Quan Họ Bắc Ninh )


NÓI

Song đào ngồi tựa
Đếm sao khuya mà nhớ thương nhau
Buổi chia tay em nghiêng nón bên cầu
Chàng đi mãi, thiếp ôm sầu gối chiếc .
Xuân trước ngõ hoa đào sắc biếc
Sầu trong tim má thắm mầu phai
Đường hoa xưa thơ thẩn em dạo gót hài
Đôi tay em ngắt nhụy bông nhài mà nhớ chàng da diết
Tiếng gà gáy đâu đây nơi điếm Nguyệt
Dấu giầy ai in tuyết ván cầu Sương (**)
Cô đơn gió lạnh đêm trường .


Chú thích : (**) Thoát ý ở hai câu thơ cổ :
"Kê thanh mao điếm nguyệt,
Nhân tích bản kiều sương".
Dịch nghĩa :
Tiếng gà gáy nơi điếm cỏ dưới trăng,
Vết chân người in trên cầu ván có sương ướt .

Trong Truyện Kiều có câu :
"Tiếng gà điếm Nguyệt, dấu giầy cầu Sương".

Ở đây tác giả mượn ý hai câu thơ cổ này
để tô đậm thêm cảnh quạnh hiu, thanh vắng
trong đêm trường .

Trần Nhất Lang


_________o0o__________


LÝ RĂNG ĐEN

MƯỠU

Răng đen ai nhuộm cho mình
Cho duyên mình đẹp cho tình anh say .

Ca Dao


NÓI

Hỡi người gánh nước
Yếm thắm, răng đen bước gió bay
Tà trong quấn quít vạt bên ngoài
Hãy dừng chân lại, anh gánh thay chốc lát .
Mây biếc trên đê lùa mái tóc
Khăn điều dưới bến vắt bờ vai
Đó về ngoảnh mặt lại đây
Để anh ngó chút vơi đầy thương nhớ .
Sông nước câu thề trăng vẫn đó
Sao ta còn cách trở đôi nơi
Yêu nhau xin giữ lấy lời .


Trần Nhất Lang
Fri Mar 19, 2010

Thùy Linh
02-13-2014, 04:58 PM
ĐÊM XUÂN NGHE MƯA RƠI

MƯỠU

Đêm xuân nằm đếm mưa rơi
Mưa cho hoa đẹp, mưa đời dở dang .


NÓI

Mưa rơi từng giọt
Mưa buồn rớt trên đọt lá xanh tươi
Mưa xuân cho hoa nở thắm môi cười
Mưa nhân thế cho đời phai mộng đẹp .
Mỗi độ xuân về thêm cách biệt
Bao lần hoa nở lắm thương đau
Những giấc mơ nỗi nhớ thuở ban đầu
Hình bóng cũ đã in sâu tình sử .
Mưa từng chập cuộc đời tan vỡ
Mưa dấu hằn nhớ nhớ thương thương
Mưa đêm thao thức canh trường .

Trần Nhất Lang



RU EM VÀ RU TA


MƯỠU

Anh ru em ngủ
Một buổi sáng mùa xuân
Anh hôn em trên đôi má thanh tân
Hoa chớm nở bên sân chờ nắng mới.
Ai biết thiên đường bao biến đổi
Lòng nghe nhân thế lắm thương đau
Ru em lời biển cả nương dâu
Mùa thu tới cây trút sầu trụi lá.
Kinh nhật tụng chữ yêu ai tạc dạ ?
Em cứ đi và tình hãy trả cho đời
Ta ru một tiếng nhớ người.

Trần Nhất Lang.

Thùy Linh
02-07-2021, 04:35 AM
~~~~~:z57:~~~~~

NGÀY HIỀN MẪU NHỚ MẸ

MƯỠU

Mẹ hiền nay đã rời xa
Còn đâu thấy nữa để ta hôn Người .


NÓI

Ngày Hiền Mẫu khiến ta nhớ Mẹ
Ta đôi mươi, Người tiễn tuổi trẻ lên đường
Phố Ngọc Hà lất phất giọt mưa sương
Mẹ đưa con tới trại vào quân trường Đà Lạt .
Hai mốt năm gươm đàn đại bác
Mười ba xuân bắp muối khoai mì (1)
Mẹ mỏi mòn theo dõi bước con đi
Con "Ra Trại" mười tháng sau Mẹ về chín suối .
Tiễn linh cữu Mẹ đi lần cuối
Con khóc vùi như tuổi mới mười ba
Ngậm ngùi nay đếm lệ sa !

(1) Chính xác là 13 năm 8 tháng trong tù cải tạo .

Trần Nhất Lang
Sat May 08, 2010 4:10 pm

Thùy Linh
02-07-2021, 04:39 AM
~~~~~:z57:~~~~~
DÒNG THU VIỄN XỨ

MƯỠU
Hồn thu úa lạnh tóc sương
Nỗi lòng viễn khách còn vương dặm sầu

NÓI
Lá rơi xào xạc
Con nai già ngơ ngác đón thu sang
Thiếu phụ hiên Tây ngồi đếm lá vàng
Đôi mắt biếc mơ màng, sân hoen nắng mới
Mây Cali khi chìm khi nổi
Gió Quận Cam lúc thổi lúc không
Thu về kẻ đợi người trông
Trăng ai gầy nhớ, thư hồng loang sắc tím !
Tình viễn xứ đan khung trời kỷ niệm
Lá thu khô liệm kín hồn thơ
Nhớ câu chim Việt ngựa Hồ !

Trần Nhất Lang
Sat Nov 06, 2010 1:48 pm

Thùy Linh
02-07-2021, 04:49 AM
~~~~~:z57:~~~~~

BÀI THƠ KHÔNG MUỐN VIẾT

Bài thơ không muốn viết
Viết cho ai, ai biết bây giờ?
Mấy cành khô gầy héo đứng trơ vơ
Bên song cửa ánh trăng mờ soi giấy mực.
Nghe gió rít buồng tim rạo rực
Thấy sương rơi tấc dạ nôn nao
Nhớ năm xưa cùng xướng mận họa đào
Nguồn thơ hứng dạt dào bao thi vị.
Bỗng tắc nghẽn bởi xa người "tri kỷ"
Bóng hình ai kiều mỹ cũng là mơ
Hỏi trang Thiên Vấn tìm mô?

California hạ tuần tháng 10 năm 2011

Trần Nhất Lang

Thùy Linh
04-01-2021, 06:35 AM
~~~o0o~~~
MƯA ĐÊM THÁNG TƯ

MƯỠU
Đêm nằm đếm giọt mưa rơi
Nghe tình tan vỡ, nghe đời dở dang.

NÓI
Đêm tháng Tư mưa rơi nặng hạt
Gội hàng cây bụi cát phong trần
Bên hiên nhà gió thổi tạt mưa xuân
Đôi chim sẻ bên sân tìm chỗ ẩn.

Giấc mộng không người chung gối ấm
Câu thơ vắng bạn họa vần say

Tháng Tư Đen ta nhớ mãi hôm nay
Bao đau đớn bỗng tràn đầy ký ức.
Tình đã lỡ, em qua đò bến Trúc
Để hồn anh đong lệ nước sông Tương

Đêm Đen mưa lạnh canh trường.

Trần Nhất Lang
~~~o0o~~~

MƯA ĐÊM THÁNG TƯ

MƯỠU
Ngoài hiên từng gịot sầu rơi
Nghe tim quặn thắt nghe hồn xót xa

NÓI
Trời tháng Tư mưa về rớt hạt
Bước tha hương lưu lạc đường trần
Gió xa về lặng lẽ đón muà xuân
Cánh vạc muộn bay về nơi tổ ẩn

Lầu phụng đâu người đan mộng ấm
Thềm trăng thiếu bạn dệt tình say

Tháng Tư Đen dĩ vãng gọi đêm nay
Ôi dâu biển ngậm ngùi bao ẩn ức
Tình đã chết sang ngang thuyền bến Trúc
Mảnh tim anh thổn thức khúc Tiêu Tương

Mưa rơi rả rich đêm trường

Thuỳ Linh

Thùy Linh
04-03-2021, 05:40 PM
~~~:z57:~~~

CUỘC ĐỜI MÂY NỔI
MƯỠU

Công hầu như đám mây bay
Hiên trăng mái trúc những ngày nhàn cư .

NÓI
Cuộc đời đám mây nổi
Thương cho ai còn lặn lội giữa phong trần
Biết bao năm cặm cụi bước thanh vân
Hưng phế trải mấy lần vinh với nhục .

Vui ẩn dật cành mai chậu cúc
Thú điền viên rượu thánh thơ thần

Khi hoa nở, khi gió gác, lúc trăng sân
Cờ một cuộc bên văn phía võ .
Chén rượu Lưu Linh, câu thơ Lý - Đỗ
Chốn hiên mai xóm nhỏ đi về

Mặc ai phi thị, thị phi .

Trần Nhất Lang
Wed Oct 07, 2009 11:36 am

Thùy Linh
04-06-2021, 07:00 PM
~~~o0o~~~

QUÊ HƯƠNG NỖI NHỚ
MƯỠU

Quê hương khuất bóng lệ nhòa
Giọt về quê mẹ, giọt sa xứ người .
Còn bao nhiêu giọt ngậm ngùi
Gửi em thương xót cảnh đời ly tan .

NÓI

Nhật mộ hương quan hà xứ thị (1)
Chốn chân mây chiều nghĩ nhớ quê nhà
Dòng phù sa nuôi bưởi ngọt Biên Hòa
Măng cụt Lái Thiêu quà biếu mẹ .
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ (2)
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu (3)
Tay trong tay dìu bước bãi Vũng Tàu
Những kỷ niệm ban đầu tình chớm nở .
Bài thơ cuối ép cánh hoa tim vỡ
Tháng Tư buồn rồi mãi mãi xa nhau (4)
Quê hương cách nửa trái cầu .

(1) Trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu .
Tản Đà dịch : "Quê hương khuất bóng hoàng hôn".
(2) (3) Tản Đà dịch :
"Hán Dương sông tạnh cây bầy
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non".
(4) Tháng 4 - 1975 .

Trần Nhất Lang
Sun Oct 11, 2009 7:50 am

Thùy Linh
04-11-2021, 06:25 PM
~~~o0o~~~

VÔ ĐỀ
MƯỠU

Cuộc đời ngồi ngẫm mà ghê
Cổ kim, kim cổ đi về chiêm bao
Gương xưa soi để ngàn sau
Chữ nhàn bên cạnh cần đâu đi tìm .

NÓI

Nhà tan nước mất
Thân lưu vong đất khách quê người
Đời vinh nhục đã trải mấy mươi rồi
Càng thấy rõ sự đời đen lẫn bạc .

Nhấp cạn vài chung vui tuổi hạc
Ngâm nga dăm vận giải cơn phiền

Không công danh, cương tỏa thật thần tiên
Chẳng mũ áo ngựa xe trói buộc .
Mặc thế sự người thua kẻ được
Riêng mình ta vui bước yên hà

Tội gì mà phải bôn ba .

Trần Nhất Lang
Tue Sep 29, 2009 10:08 am

Thùy Linh
04-17-2021, 11:23 PM
NHỚ VỀ HÀ NỘI
(Nhân nghe tranh nhạc Hà Nội Ngày Tháng Cũ do Cát Vân post tặng)
Trần Nhất Lang

Hà Nội mùa xuân một sớm mai
Hàng xoan gọi nắng tóc buông cài
Đan tay phố mộng tình trong mắt
Dìu bước đường hoa gió lạnh vai
Trời đất chia ly trăng ước nhạt
Sâm Thương cách biệt chén thề phai
Đêm qua mộng thấy em mờ hiện
Phương ấy người xưa có nhớ ai ?

Friday, October 30, 2015
~~o0o~~~

CHIM BẰNG VIỄN XỨ
Trần Nhất Lang

Từ độ chim bằng dạt viễn phương
Gió mưa nhoà nhạt điệu hoài hương
Giang sơn ngó lại cơn dâu bể
Tổ quốc trông về lớp khói sương
Trải mấy thăng trầm đời huyễn mộng
Qua bao hưng phế sóng vô thường
Hồn thơ bừng thức hoa tâm Tuệ
Có kẻ qua đò quẩy mõ chuông.

Thùy Linh
04-28-2021, 03:47 AM
~~~o0o~~~

BÀI THƠ THÁNG TƯ

Trần Nhất Lang

Thời loạn chuyện đời lắm đổi thay
Sao rơi, hoa rụng mấy ai hay
Má hồng buổi ấy tình tha thiết
Tóc bạc đêm qua lệ ngắn dài
Thành quách chuyển dời thay chủ mới
Ngó sen gẫy đứt vướng tơ dai
Trông về đất cũ lòng ngao ngán
Mây tháng Tư đen phủ xứ này.

Thùy Linh
05-01-2021, 07:31 AM
~~~o0o~~~

VỊNH CÂY CAU TRẠI 5 YÊN BÁI MÙA ĐÔNG 1976 (1)

Trần Nhất Lang

Yên Bái năm nay lạnh phát rầu
Trừ cau, cây chết cả còn đâu
Thân ngay thẳng đứng không nghiêng gốc
Lá lượn cong xanh vẫn mượt tàu
Chống mái đỡ nhà cơn bão táp (2)
Gói cơm dành bữa buổi cày sâu (3)
Một ngày cải tạo bao đau khổ
Tù ngục lưu vong vẫn ngẩng đầu.


(1) Mùa đông 1976 là mùa lạnh đầu tiên khi quân cán chính Việt Nam Cộng Hoà chuyển trại từ miền Nam ra các trại cải tạo ở Miền Bắc, tại Yên Bái lạnh dưới không độ C, nhiều cây cối, hoa mầu chết vì lạnh.

(2) Miền Bắc khi gặp bão tố, người ta thường chặt cây cau làm cột chống nhà khỏi bị sập.
Xin hiểu theo nghĩa bóng là các tù cải tạo Miền Nam VNCH là rường cột chống đỡ quốc gia vì ngoài quân nhân, cảnh sát ra đoàn cải tạo gồm nhiều thành phần khác như trí thức, đảng phái, tôn giáo...

(3) Miền Bắc thường dùng mo cau khô ngâm nước cho mềm để gói cơm đi cầy hay gặt lúa.

Thùy Linh
05-04-2021, 04:46 AM
~~~o0o~~~

NGƯỜI ĐI
Tặng thi muội Thuỳ Linh

Trần Nhất Lang.

Đưa tiễn người đi bỗng nhớ nhiều
Sân ga vạt nắng ngả xiêu xiêu
Hàng cây trút lá cành trơ trụi
Rặng liễu buông tơ bóng quạnh hiu
Người đã về nơi trông gió biển
Ta còn ở chốn đợi mây chiều
Cuộc đời biết có chia tay nữa?
Tặng chén men tình kẻ chắt chiu.