Register
Page 1 of 2 12 LastLast
Results 1 to 10 of 17
  1. #1

    emails như lá mùa thu

    Không tránh né nhưng không gian riêng vẫn cho cái thú vị riêng tư, hay ích kỷ. Không gian riêng theo triết gia Pháp thế kỷ 18 JJ Rousseau bắt đầu từ khi con người biết làm hàng rào để phân biệt đất của mình và của hàng xóm, từ đó những tranh tụng dẫn đến chiến tranh v.v... Thật ra mọi việc xuất phát từ tâm, tâm thiện hay tâm ác sẽ hướng dẫn hành vi con người. Về mặt hiện tượng, hàng rào giúp ta có cuộc sống riêng hòa bình hơn là sống chung mà giết nhau.
    Những năm 50 hay 60 của thế kỷ trước, trong cuộc chiến tranh lạnh, phe trung lập giả hiệu do Nga nắm đầu đưa ra khẩu hiệu sống chung hòa bình được Ấn Độ và Trung Cọng cổ súy. Coexistence Pacifique giữa con cọp và con dê thì xin tha cho em, cho em sống riêng hòa bình.
    Nhưng sống riêng hòa bình cũng không xong vì người ta có thích hòa bình đâu. Po Dharma, người Việt gốc Chăm, cho rằng nước Chăm (Chiêm Thành) bị xóa trên bản đồ vì sống bên cạnh nước Việt Nam, một xứ luôn muốn nuốt lân bang, cho nên Chiêm Thành chỉ có chết thôi. Nếu đúng như vậy thì lịch sử tái diễn, quốc gia miền Bắc không bao giờ để quốc gia miền Nam yên và đã thôn tính.

    Không giang riêng hàm một ý nghĩa rộng rãi hơn là sở hữu địa ốc, nó gồm sự sống vật thể và sự sống tâm linh. Cho nên không gian riêng được những kẻ văn minh tôn trọng và bảo vệ cho nhau, mà không cần những bản hiệu như cấm vượt qua, cấm săn bắn, cấm câu cá (No trepassing, no hunting, no fishing). Tuy vật ở mặt khác, con người có nhu cầu đối thoại, nhu cầu thông cảm. Cần có hai người để nói bầu trời đẹp, tục ngữ Pháp (Il faut deux pour dire que le ciel est beau).
    Nhưng luật riêng của khu phố là chỉ có một chiều, one way street, tuy rằng software máy móc để bạn đi wrong way. Coi chừng cảnh sát, cho nên thân hữu có thể đi trên two way street, hay three way street. Nói khác nếu có ý kiến xin cứ cho vào mục Dấu Ngàn Năm trong diễn đàn phụ Chuyện Linh Tinh.
    Vùng đất nầy sẽ được sử dụng để in lại các emails của tôi
    . Tôi sẽ cố gắng dẫn nhập để khỏi gây bỡ ngỡ, hay sửa đối khuôn dạng cho thích nghi vào khung cảnh nầy.
    Last edited by tonthattue; 02-19-2012 at 06:50 AM. Reason: lỗi đánh máy

  2. #2

    Lời ghi ngắn về Kinh A Di Đà

    Kinh A Di Đà không có trong dòng Nguyên Thủy Theravada nên không có trong các nước Kampuchia, Lào và Miến Điện. Những chùa Nguyên Thủy không tụng. Tại kinh đô tỵ nạn, Phật Tử VN đã quen với kinh nầy, qua cầu siêu, phát tang, và là phần chính trong buổi kinh chiều. Cho nên đồng bào không đến các chùa Nguyên Thủy của Hội Khất Sĩ cũng như chùa ở Pomona. Các thầy đã thích ứng tụng kinh nầy. Có người chê là làm business. Tôi nghĩ điều nầy quá đáng, ít nhất trong ý nghĩ đầu tiên. Tùy duyên để đem bổn dạo về chùa. Những lời phê bình do đối đãi mà ra, vì những thái độ quá khích của mấy thầy bên Nguyên Thủy. Có một vị khá nổi tiếng, thích xuất hiện trong các sinh hoạt chính trị, đồng thời luôn phủ nhận kinh Đại Thừa. Thầy nói những kinh như Hoa Nghiêm v.v... bằng chữ Phạn là sản phẩm của Ngài Long Thụ; chỉ có kinh Pali mới thiệt của Phật. Thầy có lúc bông đùa với Như Thị Ngã Văn Nhất Thời Phật Tại, là cái ngụy tạo của A nan mở đầu việc kể lại lời Phật thuyết. Nói cho cùng, tất cả kinh là do chép lại. Socrate, Jesus, Khổng Từ và Thích Ca đều không dùng chữ viết, về sau các môn đệ chép lại thành sách.

    Tôi có đọc các bài giảng Kinh A Di Đà của Ngài Tuyên Hóa. Sau khi giảng thế nào là kinh và đi sâu vào phần dẫn nhập, Ngài nói rằng duy chỉ một lần trong 40 năm thí pháp, Phật tự ý thuyết giảng mà không có ai hỏi như ông Tu Bồ Đề hỏi Phật trong Kinh Kim Cang. Ngài nói vì lý do đó kinh A Di Đà là Kinh Bậc Nhất, và cuối cùng kinh điển của Phật chỉ còn lại câu Nam Mô A Di Đà Phật.

    Trước đó, như tôi có dịp thưa, tôi làm quen với phái Pháp Hoa Nichiren của Nhật. Tôi cũng gặp một luận thuyết như thế ấy. Họ nói Phật thuyết Kinh Pháp Hoa do tự ý Ngài vì lòng từ bi, chỉ có lần nầy thôi. Kinh khởi đầu bằng câu: Nhĩ thời Thế Tôn tùng tam đại an tường nhi khởi cáo Xá Lợi Phất. Do đó kinh Pháp Hoa là số một; tất cả chỉ còn lại câu niệm Nam Myo Ho Renge Kyo. Nam (mô) Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, tụng nó là tụng đề mục daimoku. Thiệt ra sau khi đọc điều nầy về kinh Pháp Hoa và trước khi nghe giảng về Kinh A Di Dà, tôi có gặp vài cuốn kinh tạm gọi là kinh nhỏ nói về uống rượu và ăn tối ăn trưa v.v... trong đó Phật cũng tự ý thuyết giảng. Do đó tôi có ý nghĩ rằng kinh có bắt đầu với câu hỏi hay không thì giá trị vẫn nằm trong nội dung.

    Nếu tìm hiểu thêm, có thể nói rằng Kinh Pháp Hoa đã gián tiếp mở đầu bằng câu hỏi. Các nhà luận thuyết mà chính yếu là Ngài Thiên Thai cho rằng ba cuốn Vô Lượng Nghĩa, Diệu Pháp Liên Hoa và Kinh Niết Bàn là một bộ. Mà kinh Vô Lượng Nghĩa bắt đầu bởi bồ tát Đại Trang Nghiêm hỏi Phật pháp môn nào tên gì giúp nhanh chóng đạt vô thượng chánh đẳng chánh giác (a nậu đa la tam miệu tam bồ đề). Đáp: Vô lượng nghĩa. Thứ đến kinh PH cũng nhấn mạnh làm sao cho chúng sinh chóng thành Phật (đắc nhập vô thượng đạo, tốc thành tựu Phật thân). Kinh Niết Bàn dài hơn, phức tạp trở lại với nhiều danh từ, xem như phụ đính , rộng bàn về thường lạc ngã tịnh, nhấn mạnh trung đạo, phá vỡ chấp có lẫn chấp không.

    Phần tôi, sau khi rời khỏi khung cảnh Tịnh Độ qua hướng năng động của Pháp Hoa, tôi trở về suy nghĩ lại những kinh mà Nichiren yêu cầu coi nhẹ để chú trọng đến Pháp Hoa. Tôi đã gặp những câu rợn người muốn khóc.Ví như đại nguyện thứ 11 của Dược Sư Như Lai: Nếu những hữu tình bị đói khát khổ, vì kiếm ăn mà tạo mọi nghiệp ác, thì ta cho ăn uống rất ngon để no thân trước đã, rồi sau ta mới cho ăn pháp vị để thành người rốt ráo an vui. Thật vậy, con người không phải là thiên thần cũng không phải là thú vật.

    Tôi suy nghĩ lại về Kinh A Di Đà. Tôi không thấy thế giớí cực lạc là vô tưởng, utopia như các lý thuyết mỵ dân bịp bợm chết người. Tôi tin thế giới của chúng ta, cõi Diêm Phù Đề (Jumpuvida) có thể cho mỗi người Phi Châu một cái mùng chống sốt rét, trẻ con Afganistan không phải ăn bánh mì mốc mà mẹ chúng giả nhỏ trong cối đá để dễ nuốt trôi, cơn đói không hoành hành giờ phút nầy ờ Somalia, Bắc Triều Tiên… nếu mọi thứ súng đạn, mọi tiêu pha xa xỉ của nhà cầm quyền là những điều không xẩy ra. Nếu mọi người không bị kích động thì họ có thể nghe tiếng gió (vi phong xuy động) mà thấy tiếng lòng, tiếng của lương tâm.
    Kinh A Di Dà cũng như các kinh khác cần hiểu theo lối ý tại ngôn ngoại; được thuyết giảng trong lối diễn tả đầy tưởng tượng của tiểu lục địa Ấn Hồi như hằng hà sa số còn nhân với a tăng kỳ, nhân với na do tha, cao bảy triệu do thuần ... khác với lối văn chắt vo, cô đọng như thơ Đường và Hán tự.

    Những cố gắng đưa kinh đến với con người, bằng âm nhạc, bằng thi ca, bằng email như anh Giang chuyển kinh nầy trong tiếng nhạc là những ân phước vô lường. Phật nói xây chùa không bằng hành vi chỉ nhường góc chiếu cho người khác ngồi nghe Pháp. Tôi có đi với nhiều người Mỹ trong môn phái nầy làm công việc diễn qua âm Việt là "gây su", tôi hiểu ngầm như gây giống: nói cho người ta biết rằng có cái gọi là Kinh Pháp Hoa hữu dụng. Bây giờ bạn chưa thấy cần thiết nhưng việc làm của chúng tôi đại để như thế nầy. Đang lúc bạn sức khỏe, tôi lại nói cho bạn biết có những thứ thuốc ở chỗ nầy, chỗ kia. Bạn có thể đánh tôi cho là gây điềm xui. Nhưng đến khi bạn hay người thân bệnh, bạn biết ngay liều thuốc chỗ nào xử dụng ngay. Nhiều người đã trình bày hiệu quả của công việc nầy.
    Một email, một lời thuyết minh với ý thánh chưa thấm thấu nghĩa lý ngay bây giờ nhưng không thể nói tác dụng không bao giờ xẩy ra.
    Xin mọi anh chị và gia quyến an lành. Hôm qua tôi đồng ý để một thân hữu chuyển đến một nhà văn hiện ở VN một bài thơ chấm dứt với hai câu:
    Nam mô nhân loại trong tôi
    Nam mô nhân loại ngoài tôi.
    Bây giờ tôi đọc hai câu ấy trước khi chấm dứt email nầy. ttt
    Last edited by tonthattue; 02-19-2012 at 06:58 AM. Reason: lỗ đánh máy

  3. #3

    công án trần truồng

    (cuối 2009 tôi nhân một emails với hình ảnh các cô gái Thái trần truồng vây quanh bởi khách làng chơi đang ịn vào thân thể họ những ngôi sao; nhân viên nhà hàng đứng ghi để tính tiền sau).

    Scroll down, các bạn sẽ thấy các ngôi sao đẹp hơn các ngôi sao trên ga lông của Võ Nguyên Giáp, của Nguyễn Cao Kỳ đem dán vào vùng đất cấm của các nường. Thân thể ví như một thị trấn; giá nhà đất thay đội tuỳ nơi, location, location, location. Nhưng có khác là dán sao ở chỗ hang cùng tốn kém hơn, trong khi cái chéo đất hẻo lánh của thành phố thì rẻ rề.
    Nay hoàng gia tôi lại nhớ một lối dán khác của người Thái nhưng nằm bên kia, xuyên tâm đối nếu dùng một danh từ hình học.

    Chiều Panat
    Xiêu lạc gió lùa cây đổ lá
    Đường quê ẻo lả khuất mờ xa
    Vòng vo u uẩn trời cô tịch
    nặng gót lối về quê quán đâu?
    Ta để lại đây ngày thảo bạc
    Xứ người lặng lẽ nét Đông Phương
    Nồng thơm gốc bưởi hoa màu trắng
    Giọng cười nhỏ nhẻ độ bến mơ.
    Chùa xưa mái nặng dòng suy cảm
    xin nguyện cho người một bóng im. 1983

    Mấy câu trên tôi dùng để quất vào cái tê tái tâm hồn một chiều trên Panat. Panat Nikhom rất quen thuộc trong thuyền nhân hay bộ nhân ghé đất Thái, là trung tâm chuyển tiếp đưa người đến nước thứ ba. Nó mang tên của thành phố nầy, thành phố được bầu là sạch nhất vương quốc Thái. Nói là thành phố nhưng chỉ bằng quận lỵ của mình như Cái Bẻ, Bình Chánh. Tôi ở trong một thiểu số của thiểu số được sống ngoài trại, có thể đi lang thang, sinh sống bình thường sau công việc dịch các tài liệu rất dỏm.
    Thái rất nhiều chùa, chuyện rất dễ hiểu nhưng tôi không vào vì nó lành lạnh làm sao. Một chiều rất buồn sau khi đi xem cái chợ như chợ Đông Ba ở Huế, ngất ngây vì mùi riềng, mùi ớt, tôi hít thở không khí ở một góc đường. Ở bên kia không xa lắm, có cái gì óng ánh vàng như vảy cá vàng.
    Tới gần một tí, tôi nhận rõ là một tượng Phật, trên một nền đá cao, dưới một ki ốt, chống đỡ bởi bốn cột chung quanh và không có tường. Tượng Phật lung linh trong gió vì thứ gì vàng vàng như vảy cá; tượng Phật bên Thái có mặc y vàng bằng vải. Nhưng trường hợp nầy thì khác. Tôi đi vào khuôn viên. Một bà khá lão đang quét sân, ra dấu cho tôi đến gần tượng. Toàn thân Phật, chỉ trừ hai con mắt, được đắp lên bởi những miếng giấy mỏng mà ta hay gọi là giấy thiết như thứ hay thấy trong các bao thuốc lá bóc ra khỏi giấy.
    Bằng thứ ngôn ngữ quốc tế hai tay, bà bảo tôi mua mấy tấm như vàng mã cúng cô hồn. Nhưng họ làm sao khi ta ịn nó vào tượng Phật thì chỉ có thứ vàng ấy ở lại và ta thu phần giấy về.

    Phật thì rất bình đẳng, dán vàng ở đâu cũng được, không có chỗ thâm sơn cùng cốc mà nhà hàng tính giá cao. Không có tiền mua vàng mã thì sờ ké cũng chẳng sao có khi còn nhiều phước hơn nữa. Nhưng có khác, không ai viết tên lên thân Phật như ký tên trên da thịt mấy cô.
    Tượng Phật thì bằng đá, thiền môn đã dạy bài phá chấp bằng cách chẻ tượng bằng gỗ nấu nước trà.
    Ịn một tờ mã vào thân Phật và ịn một ngôi sao vào người cô em Thái là hai việc hoàn toàn khác nhau. Nhưng ở trên cái vô ngại hai hành động ấy biểu thị điều tạm gọi là hướng về, một khát khao rất người. A Nan đã có lần bị yêu nữ bắt cóc, Phật phải dùng Kinh Lăng Nghiêm giải cứu.
    Trà đình tửu điếm vẫn mang nét thanh lam của đạo tràng. Gió cũng như phướng đều không động chỉ có tâm ta động. Nếu thế thì ý niệm xuyên tâm đối nói từ đầu chỉ có giá trị tương đối.
    Người Thái bà con với chúng ta đó nghe các ngài. Người Thái thuộc giống Bách Việt nếu ta tin vùng sông Dương Tử với núi Lĩnh Nam là nơi phát sinh Bách Việt. Hoặc bị đẩy hoặc tự ý, các phân bộ của Bách Việt xuống Nam. Nhóm Thái theo hướng chệch chiều tây. Các ngài sẽ không đồng ý khi nhìn bề ngoài Thái Lan là một mô phỏng của Ấn Độ, từ đền đài, Phật giáo nguyên thuỷ, mẫu tự v.v....
    Một người Mỹ biết tiếng Việt nói với tôi rằng cấu trúc câu văn Thái giống câu văn Việt và ông nói tiếng Thái có rất nhiều chữ gốc Hán như Hán Việt của mình. Tôi còn nhớ "xóng" là hai từ chữ "song", xảm là ba (tam), chập là mười (thập). Nhân viên quản lý trại tỵ nạn có danh sách viết loăng quăng nhưng họ đọc tên rõ ràng như ta đọc theo mẫu tự abc. Ở nông thôn vẫn còn tập tục nhai trầu cau.
    Bộ tộc Thái tràn xuống Nam trên đế quốc Ấn hay đúng hơn là xứ Khmer cũng như dân Lạc Việt xuống vùng Chăm trong ảnh hưởng Ấn Hồi. Hai cánh quân Việt và Thái đã ăn dần và nay còn lại Kampuchia như một hòn đảo cách xa vùng Ấn Hổi. Nhưng ngôn ngữ Khmer rất gần Ấn; và nét mặt Khmer rặt (không lai Tiều Châu) có nước da sậm như thánh Gandhi.
    Đoàn người Việt ít bị ảnh hưởng bởi vùng họ chiếm đoạt, phe ta chỉ đưa vào ngôn ngữ các danh từ của Chàm nhất là Huế. Trong lúc ấy, Thái chấp nhận các nét văn hóa chính của văn minh Ấn.
    Dân trên bán đảo Malay thuộc Thái, không ở trong trường hợp trên; họ thuộc giống dân Mã Lai, theo đạo Hồi. Họ muốn ly khai và một thời đã cọng tác với CS Tàu làm khó Bangkok. Họ gần với Mã Lai cả về địa lý và tâm tư cùng văn hoá.

    Con gái Thái mà mặc xà rông kim tuyến thì đẹp, đẹp, đẹp vô cùng. Bạn sẽ té ngửa, khi cô ta chắp hai tay đưa lên gần trán chào bạn. Hai tay không sít vào nhau như bạn chấp tay lạy Phật. Hai bàn tay không phải là một mà cũng không phải là hai, một hài hoà, một dung hợp, một bất nhị. Cô nghiêng mình không quá sâu như gái Nhật kiểu cách ngoại giao, nhưng nghiêng vừa làm bạn có ý nghĩ nàng muốn nhìn trộm bạn. Nghĩ đến cái regard furtif đó bạn cũng thấy điếng lòng.
    Huy Phương đã nói công dụng đôi tay của gái Huế khi gặp người lạ như sau: Một tay níu vành nón, tay kia giữ tà áo, phòng cơn gió vô tình đưa cao để lộ nguyên hình. Người Thái không có nón, còn cái xà rông thì rất dày, nhiều lớp vải, không mỏng la mỏng lét như các nường Đồng Khánh. Họ cũng không thể làm như Tây phương là ôm chồm bạn. Hai tay đưa lên cao như dấu hiệu hòa bình, nhận sự hiện diện của khách thể, của đối nhân, chẳng khác hiệp sĩ, một tay cầm cương ngựa, tay kia đưa lên là tình bạn không vũ khí.
    Gái Thái trần truồng và gái Thái mặc xà rông là một hay là hai?
    Xin trình công án nầy đến các thiền sinh, các thiền sư, các đại lão thiền tông bởi một kẻ chuyên nghề "nói chơi, nói láo chơi".
    tôn thất tuệ
    Last edited by tonthattue; 02-22-2012 at 04:33 PM.

  4. #4

    nửa hồn Xuân Lộc

    Xuân Nam Mão 2011
    Thưa các anh chị,
    Cách đây ba hôm tôi viết một lời bàn ngắn nhân khi có người gởi cho mấy video có Khánh Ly hát tặng lãnh sự CSVN tại SF, Ca, cùng với Cao Kỳ Duyên. Theo tôi việc nầy đã manh nha từ ngàn xưa, ngày xưa thì đúng hơn vì cô Mai tức Khánh Ly đã tham dự nhiều buổi sinh hoạt tại Đà Lạt trước những biến động đấu tranh miền Trung; trong dịp nầy Linh Mục Nguyễn Ngọc Lan đã minh thị nói VN chỉ có một con đường là đi theo MTGPMN tuy ông không chịu nói đã nhiều lần vô bưng với mặt trận. Ở đoạn nầy tôi viện dẫn hồi ký của Nguyễn Đắc Xuân và viết thêm rằng các người tham dự đã đọc và bình luận thơ của Thái Luân. Các buổi họp nầy nhuốm màu CS vì ngoài LM Lan còn có nhiều nhân vật trí vận và có Trịnh Công Sơn. Cũng như sau đó TCS cho ra những bản nhạc phản chiến mạnh mẽ, tăng cường bởi tiếng hát Khánh Ly đến tầm mức công phá.
    Nguyễn Đắc Xuân không nói nội dung các bài thơ của Thái Luân. Tôi còn nghi vấn phải chăng Thái Luân có mặt. Sau khi tra cứu và hỏi các nhân vật sống, Thái Luân không có mặt ở Đà Lạt bao giờ cũng như mất tích trên địa bàn sinh hoạt ở Huế (bị tù và đổi đơn vị). Nhưng không khí, như mô tả qua ngòi bút của NĐX, đã gây ấn tượng không tốt cho Thái Luân.
    Thái Luân trong quá khứ đã gây cho vợ chồng tôi một cảm tưởng khó tả khi chúng tôi đến thăm Phạm Duy và nhạc sĩ nầy vừa hoàn tất phổ nhạc Bi Hài Kịch thơ của Thái Luân. PD chỉ nói tác giả là một sĩ quan QLVNCH ngành tâm lý chiến ở Huế. Bi Hài Kịch là bi hài kịch (tragecomdie) thực sự của chúng ta, khi hai bên tương tranh chém giết nhau chỉ như công cụ của một đạo diễn. Diễn viên ôm súng bắn, diễn viên gục đầu đường, diễn viên đang tra tấn, diễn viên chịu cực hình, tất cả xẩy ra trên quê hương, mà quê hương là ba má, quê hương là khoai sắn, là con thơ.
    Tôi tin Nguyễn Đác Xuân đã chuyển tập thơ nầy cho PD vì PD đã phổ mấy bài của NDX trong Tâm Ca. PD nói ông đang phổ bài thứ hai thuật lại lời nói của một một kỹ nữ với học sinh Đồng Khánh: em đừng cười chị, để chị diễn lại trò móc túi để cho thằng lính Mỹ thỏa mãn thú con heo, nếu không chúng sẽ đè em ra mà làm. Vợ chồng tôi thấy khó chịu vì nó hoàn toàn khác với tính cách cao thượng và nghệ thuật của Bi Hài Kịch và tôi mất cảm tình với Thái Luân. Tâm cảm nầy tôi vẫn còn giữ khi nhắc đến các buổi họp tại ĐaLạt như trên.
    Sau khi viết xong lời comment, tôi gặp bài Nửa Hồn Xuân Lộc. Tôi chưa nhất thiết đã kéo Thái Luân vào phe mình nhưng tôi thấy sự thiết tha của TL là chân thành. Tôi tìm hiểu thêm. PD hay thay đổi lời thơ của kẻ khác, theo ý mình, thêm nhân vật tên Duyên vào thơ Nguyễn Tất Nhiên; chỉ dùng ý thơ từ một bài rất dài của Phạm Thiên Thư thành bài Lên Non Tìm Động Hoa Vàng. Việc nầy không tác hại gì, hơn nữa ông phải uyển chuyển lời cho ăn khớp với nhạc. Nhưng lời diễn dịch của PD trong trường hợp đã quá xa với một đoạn ngắn Thái Luân viết như sau:
    Xin cám ơn những cô gái bán bar nhỏ con
    Đã gồng mình chịu đựng
    Vì cuộc sống
    Của các cô
    Và của Việt Nam.
    Thưa thầy giáo, thưa công chức:
    Xin đừng vênh vênh cái mặt đạo đức
    Chửi người ta
    Con gái Huế bây giờ đi bán bar!

    PD nên dùng những lời ca dự định trên là của chính minh, trong tự do sáng tac của ông; nhưng không nên nói là của Thái Luân.
    Tôi không biết PD có hoàn tất dự định hay không. Tôi chỉ thấy bài Bi Hài Kịch trên một nguyệt san của Thích Đức Nhuận.
    Đoạn thơ ngắn trên đây tôi vừa tìm gặp đã đảo ngược cái nhìn của tôi về Thái Luân, cho nên tôi đã chuyển bài Nửa Hồn Xuân Lộc cho nhiều thân hữu. Một người bạn ở bên Đức đọc và nói với tôi rằng ông nổi da gà và thích cái hào hùng chân thành của Nguyễn Phúc Sông Hương tức Thái Luân. Thái Luân lúc còn là thiếu úy ở Huế có 25 bài thơ trong đó có bài Bi Hài KịchCảm ơn Bar nói trên. Ông bị phạt 40 ngày trọng cấm và ba tháng tù. Nhưng sau đó đi đơn vị khác và chức vụ cuối cùng là thiếu tá tiểu đoàn trưởng vùng 2 chiến thuật.
    Xin hẹn khi có cuốn sách mới của Thái Luân, sẽ hầu các anh chị vài nhận định và thảo luận về bài giới thiệu của một ông tiến sĩ mà tôi thấy hơi khó hiểu.
    Kính chúc năm Mão không bị mèo cắn như năm Mão 1975.


    Nửa Hồn Xuân Lộc
    Nguyễn Phúc Sông Hương

    Nếu được như bố già thượng sĩ
    Nghe tin lui quân chỉ nhìn trời,
    Vỗ về nón sắt, cười khinh bạc,
    Chắc hẳn lòng ta cũng thảnh thơi.

    Còn ta nhận lệnh rời Xuân Lộc
    Lại muốn tìm em nói ít lời,
    Nhưng sợ áo mình đầy khói súng
    Cay nồng mắt người gục trên vai.

    Vì chắc ôm nhau em sẽ khóc,
    Khóc theo, vợ lính cả trăm người!
    Em biết dù tim ta sắt đá
    Cũng vỡ theo ngàn giọt lệ rơi.

    Mây xa dù quen đời chia biệt
    Ngoảnh mặt ra đi cũng ngậm ngùi.
    Rút quân, bỏ lại hồn ta đó
    Bảo Chánh, Gia Rai lửa ngút trời!

    Bí mật lui quân mà đành phụ
    Mối tình Long Khánh tội người ơi.
    Mất thêm Xuân Lộc tay càng ngắn
    Núm ruột miền Trung đứt đoạn rồi.

    Sáng mai thức dậy, em buồn lắm
    Sẽ khóc trách ta nỡ phụ người.
    Lòng ta như trái sầu riêng rụng
    Trong vườn em đó vỡ làm đôi!

    Đêm nay Xuân Lộc vầng trăng khuyết
    Như một vành tang bịt đất trời!
    Chân theo quân rút, hồn ta ở
    Sông nước La Ngà pha máu sôi

    Thương chiếc cầu tre chờ thác lũ
    Cuốn qua Xuân Lộc khóc cùng người
    Ta đi, áo nhuộm màu đất đỏ
    Cao su vướng tóc mãi thơm mùi,

    Tiếc quá nắng vàng phơi áo trận,
    Vườn nhà em chuối chín vàng tươi.
    Ta nhớ người bên đàn thỏ trắng,
    Cho bầy gà nắm lúa đang phơi,

    Chôm chôm hai gốc đong đưa võng,
    Ru nắng mùa xuân đẹp nụ cười...
    Nếu được đưa quân lên Định Quán
    Cuối cùng một trận cũng là vui



    Núi Chứa Chan kia sừng sững đứng
    Sư đoàn 18 sao quân lui?
    Thân ta là ngựa sao không hí
    Cho nỗi đau lan rộng đất trời.

    Hồn ta là kiếm sao không chém
    Rạp ngã rừng xanh, bạt núi đồi.
    Hỡi ơi! chân bước qua Bình Giã
    Cẩm Mỹ nhà ai khói, ngậm ngùi!

    Lửa cháy, cả lòng ta lửa cháy
    Xóm làng Gia Kiệm nhớ khôn nguôi.
    Đêm nay Xuân Lộc, đoàn quân rút
    Đành biệt nhau, xin tạ lỗi người.

    Chao ơi tiếng tắc kè thê thiết
    Kêu giữa đêm dài sợ lẻ loi,
    Chân bước, nửa hồn chinh chiến giục
    Nửa hồn Xuân Lộc gọi quay lui.

    Ta biết dưới hầm em đang khóc
    Thét gầm pháo địch dập không thôi...

    @

    Buổi chiều nhận lệnh rời Xuân Lộc
    Ta muốn tìm em nói ít lời,
    Nhưng sợ em buồn, không nói được
    Nên đành lặng lẽ mà đi thôi!

    Ngại phút rời xa em sẽ khóc,
    Bao người vợ lính sẽ buồn theo
    Yếu đuối tim ta người chiến sĩ
    Loạn rừng, tội nghiệp tiếng chim kêu.

    Rút quân bỏ lại đời ta đó,
    Bảo Chánh, Gia Rai lửa ngút trời,
    Lửa ngút, trái tim ta lửa ngút,
    Trái tim người lính mới yêu người.

    Vì bí mật quân, ta đành phụ
    Mối tình Long Khánh tội người ơi
    Mất thêm Xuân Lộc tay càng ngắn,
    Núm ruột miền Trung càng xa vời.

    Sáng mai chắc chắn em buồn lắm
    Sẽ trách sao ta lại phụ người.
    Lòng ta như trái sầu riêng rụng
    Trong vườn em đó vỡ làm đôi

    Cao nguyên bài học đầy cay đắng
    Lớp lớp người rơi, lớp lớp rơi ...
    Ta chẳng muốn làm người bại trận
    Thành người tình phụ đó em ơi.

    Ðêm nay quân rút hồn ta ở
    Nhìn nước La Ngà pha máu sôi,
    Thương chiếc cầu chờ cơn thác lũ
    Tràn qua Xuân Lộc cuốn theo người.

    Ta đi áo nhuộm màu đất đỏ
    Cao su vướng tóc mãi thơm mùi,
    Tội nghiệp nắng vàng chờ áo trận
    Khi tàn chinh chiến sẽ đem phơi.

    Em hỡi, em thương đàn thỏ trắng,
    Bầy gà mất mẹ sống mồ côi
    Em hỡi em thương người lính trận
    Người lính đêm nay phụ bạc rồi.

    Bao năm ta trọn tình đất đỏ,
    Một phút này thôi thẹn với đời
    Sốt rét đêm run, ngày không ngã
    Bao lần máu đổ dửng dưng cười.
    Một phút này thôi, hừ lại ngã,
    Bỏ thành, bỏ đất nhục nào vơi.

    Nếu được đưa quân lên Ðịnh Quán,
    Cuối cùng một trận cũng là vui.
    Sáng mai chân bước qua Bình Giã,
    Cẩm Mỹ nhìn lui luống ngậm ngùi!

    Lửa cháy, cả lòng ta lửa cháy,
    Một trời Gia Kiệm nhớ khôn nguôi.
    Muôn năm em hỡi trời xuân Lộc
    Giữ nửa hồn ta mãi với người.

    Giữ nửa hồn ta bên chiếc võng
    Dưới giàn thiên lý bóng trăng soi .. .
    Ðêm nay quân rút sầu riêng rụng
    Trong vườn em và trong tim tôi!

    Tôi sợ một ngày mai bại trận
    Ðể em côi cút lại trên đời.
    Nếu phải một ngày mai bại trận
    Ðêm nay sao ta lại bỏ người!

    Em hỡi, dưới hầm ai đang khóc,
    Thét gào pháo địch mãi không thôi.
    Xuân Lộc trời ơi Xuân Lộc cháy
    Ai gọi tôi về trời Gia Rai!!
    Last edited by tonthattue; 02-19-2012 at 07:10 AM. Reason: lỗi đánh máy

  5. #5

    chờ đợi một quê nhà của đời người

    nghiệt ngã chờ đợi đến bao giờ?

    1. Chờ đợi và nghiệt ngã, Cao Thoại Châu
    2. Nghiệt ngã đến bao giờ?, Tôn Thất Tuệ
    3. Phụ bản: Kinh Cô Đơn, thơ TTT.

    chờ đợi và nghiệt ngã
    cao thoại châu

    mấy năm trước một anh bạn đồng nghiệp từ nước ngoài về có mời gặp một vài người. Ai đó hỏi người rằng cái gì là đặc thù cuộc sống ở nước ấy. Câu trả lời của người về: “ Có 2 điều không ai tránh được là thuế và chết!”. Bạn coi đó là sự “nghiệt ngã” ở nơi anh đã sống gần 20 năm.
    Đóng thuế cho những gì mình thụ hưởng, dù nói thế nào vẫn là một lẽ công bằng. Với một nước phát triển thì chống trốn, gian lận thuế là điều không khó bởi luật pháp chặt chẽ và nhân viên thuế có tay nghề cao. Nộp thuế còn là ý thức về những hình phạt nếu làm ngược lại. Không có chi là nghiệt ngã cả nếu đừng có máu bất lương trốn tránh cái giá phải trả.!Chết cũng thế. Ai không biết đó là điểm đến sau cùng của mỗi con người, nó đáng buồn nhưng thật bình thường, công bằng là đằng khác và không phải điều nghiệt ngã vì nó không giáng xuống một kẻ riêng nào.
    Tối tắt đèn với ý nghĩ về Thuế - Chết không phải là Nghiệt ngã…Giấc ngủ không chập chờn, say nhưng ngắn vì bây giờ mới gần 2 giờ một ngày mới.
    Hiện tôi có hai lời hẹn và có hẹn là có đợi chờ. Nhà giáo Nguyễn Bá Học từng viết “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Đã loáng thoáng trong khoảng bao la này một chút ngại núi e sông .
    Là kẻ sống gửi xứ người, tôi thường bị dồn dập bởi những câu “Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” thơ dịch Đường thi của Tản Đà. Hoặc “Quê nhà xa lắc xa lơ đó/ Trông lại tha hồ mây trắng bay” của Nguyễn Bính và gần đây là nguyên một tập thơ của Phạm Cao Hoàng “Mây khói quê nhà”. Vì vậy rất cám ơn hạnh phúc khi một ngày nọ bỗng có một quê nhà không phải bằng đất đá núi sông mà bằng con người, một đời người. Nhưng có đó và chờ đợi cũng là đó, ở một hòan cảnh nào đó chờ đợi là lãng mạn thú vị nhưng khi sang một khúc quanh nó có thể thành nghiệt ngã, bao la mênh mông hơn cả tràng giang với con thuyền lá tre. Tôi yếu đuối, sức lực có lúc cạn kiệt và đêm qua đi ngủ lởn vởn trong đầu Thuế & Chết của anh bạn nước ngoài về, cùng với sự lởn vởn của Nghiệt ngã mà tôi nhận ra không phải ở hai thứ nói đó. Thấy mình như cọng rau buổi chợ chiều. Thức dậy cọng rau không tươi hơn dù một tinh mơ ngày mới đã đến…
    Cái hẹn thứ hai ngắn hơn, nhỏ và gọn hơn, không bao la mờ ảo mà nằm trên cuốn lịch đang vơi dần và có thể gọi thành tên. Tôi chờ đợi hai cái hẹn từ cùng một quê nhà và hiểu thấm thía là sự đợi chờ có khi được trả lời môt cách trái ngược.
    Nhớ cuốn phim chiến tranh coi hồi xưa. Một đại úy biệt kích Pháp được thả xuống Bắc Phi để bắt người lãnh đạo cao nhất cuộc kháng chiến. Vượt qua nhiều gian nguy, toán của viên đại úy đã hòan thành nhiệm vụ và giải tù binh bằng máy bay về Pháp, anh sĩ quan này còn mang theo một đứa bé không cha mẹ về như đứa con nuôi anh ta gặp trên đường nhiệm vụ. Dưới chân thang máy bay là những chiếc xe bóng lộn và một quan chức cao cấp đón người tù binh như một thượng khách công du không phải kẻ bị truy nã! Hai bên đã có một thỏa thuận mới và việc làm của toán biệt kích thành vô nghĩa! “Moi et toi, nous sommes seuls tout les deux!”- tao và mày chúng ta đều cô đơn- viên đại úy nói với đứa bé khi cả hai lên xe như những người thất bại!
    Cái mà anh ta chờ đợi đã đến và đến theo một hướng khác! (từ web của cựu sinh viên Đại Học Sư Phạm
    )

    Nghiệt ngã đến bao giờ?
    tôn thất tuệ

    À tôi nhớ ra rồi, cái tên của anh thầy giáo là Daru. Các thuộc địa Pháp đều có trường tiếng tây ở nhiều cấp giúp cho dân địa phương tiến thân; như ở VN, có thể ghê gớm như Bùi Bằng Đoàn lên đến hình bộ thượng thư có quyền sinh sạt (nghĩa đen) trong tay hay chỉ là thầy ký ngồi ghi sổ tiền đi chợ ở nhà ông quan năm. Cũng vậy, trên xứ Algérie Bắc Phi ở một ngôi làng xa, Daru một mình quản lãnh cơ sở giáo dục, được đối xử như một người con trong thôn xóm. Cả ba nước thuộc địa ngó qua Địa Trung Hải đã rục rịch những bất ổn, khơi mào sự đòi độc lập. Chính quyền thuộc địa đã phải vận dụng tài nguyên nhân sự bằng cách ghép mọi người Pháp vào công việc trị an, kể cả thành phần tôn giáo. Vậy huống chi Darus, thầy giáo trường làng lớp ba.

    Hôm ấy chiều chưa ngã nắng, Daru đang dạy bài địa lý. Hình lục giác nước Pháp trên bảng có những con sông bằng phấn xanh, những dãy núi bằng phấn đỏ. Nhìn ra ngoài sân, Daru thấy một ông sen đầm (gendarme) gọi chàng ra nói chuyện. Chàng trở vào bãi lớp, cùng người lính bước xuống mấy cấp đến nơi có một người bản xứ bị trói hai tay và neo vào một thân cây. Daru có nhiệm vụ giải giao tội nhân nầy cho trạm công an làng bên để tiếp sức dẫn đến trung ương.
    Chàng tuân lệnh, cầm sợi dây như dẫn con vật ra đồng. Người lính lui về đường cũ. Khi không thấy người kia nữa, Daru mở trói cho tội nhân chạy thoát. Daru trở lại trường, nơi đó có phòng trọ của chàng. Ngang qua lớp, chàng thấy trên bảng, hình bản đồ lục giác vẫn còn. Chàng thấy có thêm một dòng chữ lạ, cứng cáp không như chữ học trò. “Daru, mầy sẽ phải trả món nợ máu nầy”.

    Mấy dòng trên tôi ghi lại khi hồi tưởng truyện ngắn Hôte của Albert Camus. Tôi không nhớ rốt ráo câu chuyện nhưng những yếu tố trên nằm trong đề tài hiện sinh như cô đơn, ngộ nhận v.v…tuy tác giả sinh ở Algérie, đã từng hoạt động kháng chiến chống Đức.
    Câu chuyện hao hao giông giống với truyện phim ở phần cuối của bài Chờ Đợi và Nghiệt Ngã của Cao Thoại Châu (CTC). Một đại úy biệt kích Pháp được thả xuống Bắc Phi để bắt người lãnh đạo cao nhất cuộc kháng chiến. Vượt qua nhiều gian nguy, toán của viên đại úy đã hoàn thành nhiệm vụ và giải tù binh bằng máy bay về Pháp, anh sĩ quan này còn mang theo một đứa bé không cha mẹ về như đứa con nuôi anh ta gặp trên đường nhiệm vụ. Dưới chân thang máy bay là những chiếc xe bóng lộn và một viên chức cao cấp đón người tù binh như một thượng khách không phải kẻ bị truy nã! Hai bên đã có một thỏa thuận mới và do đó việc làm của toán biệt kích thành vô nghĩa!
    Hôte cho thấy một Daru bị hàm oan, nhưng có thể giải thích được vì sự ngộ nhận dựa trên sự kiện có thật, thấy rõ là chàng dẫn tội nhân từ anh lính sen đầm, kinh nghiệm cá nhân thời tao loạn có thể cho anh thấy mối nghi ngờ trước khi nhìn lên bảng có lời de dọa. Anh tiếp nhận một cách chậm chạp.

    Nay hãy nhìn đoạn phim CTC kể. Đại úy nhà ta như bị cái lưới trời, thiên la địa võng chụp xuống theo lối bẩy chim. Thế à, người ta cung nghinh đón tiếp kẻ anh phải khổ công đi bắt sống, chỉ thiếu kèn trống và cờ xí. Chính anh bị truốt bỏ cái ý nghĩa, mục đích việc làm gian nguy. Ý nghĩa việc làm, dù không đúng trên bình diện hoàn vũ, là keo sơn móc mối con người và con người; móc nối thành chuổi hành động, suy nghĩ, những thời khắc của riêng một con người.
    Ý nghĩa không thể bị / được tiền tệ hóa (monétiser, monetize). Một người được thuê đào từng lỗ đất khá sâu; đào xong chủ nhà ra xem rồi ra lệnh lấp lại, và đào chỗ khác. Hắn ta bỏ cuộc khi được yêu ầu đào lần thứ tư vì thấy việc nầy vô nghĩa lý, hắn phải làm cái việc phi lý dù được trả tiền. Sau khi được giải thích mục đích là tìm một kỷ vật mà người cha không kịp chỉ rõ trước khi chết; hắn ta vui vẻ và đào nhanh hơn. Câu chuyện giáo khoa nầy giải thích trường hợp nhân viên phải xin đi chỗ khác khi bị ngồi chơi xơi nước mà hưởng lương hàng tháng đủ; ngồi chơi xơi nước trong khi kẻ khác trong bộ thì đầu tắt mặt tối kêu than mệt mỏi. Kẻ ấy thấy mình vô dụng, đứng ngoài hệ thống, nói cho văn hoa là một thứ lưu đày trên sinh quán.

    Sự mất ý nghĩa vì bị tướt đoạt hay tự mình rủ bỏ cái bị buộc nhận là giá trị, sự mất nầy khởi đầu diễn trình gọi là vong thân, tha hóa, phẩn nộ ... Nói dễ hiểu là rời rạc, nhân tâm ly tán, lòng người đảo điên. Nói theo xã hội học, thiếu cái tương thuận (consensus). Thật vậy, làm sao người thọ thuế thản nhiên lặng ngắm mây trôi theo sách Thiền, khi một ông tổng thống công du mỗi ngày tốn 200 triệu dollars; Obama đã đốt một tỷ bạc khi đi Ấn Độ. Vợ tổng thống Marcos có ba ngàn đôi giày khi dân Phi Luật Tân moi rác mà sống bị rác đè chết khi núi rác lở sau cơn mưa. Cái gì là ý nghĩa phải cầm cờ tôn giáo không phải của mình mà đi biểu tình đón tiếp một người trong tộc họ kẻ cầm quyền?
    Nói vậy mới hiểu Gandhi. Vị thánh nầy muốn xây dụng một Ấn Độ với cái tinh thần mà ông kêu gọi dân chúng hun đúc: vì hạnh phục cá nhân, của gia đình và xã hội, từ bỏ óc nô lệ làm giàu cho người Anh.

    Tôi đang đến gần cự điểm (point focal), danh từ quang học, của CTC trong bài nầy: đi tìm một quê nhà bằng , bởi, của người đời và đời người. Cho kiểu cách một tý, quê nhà nhân bản. Như vậy quê ấy không mang tính cách trừu tượng, một xã hội vô tưởng, cũng không có tính cách tôn giáo như cõi Cực Lạc của Phật Di Đà, vùng đất của Chúa có thánh Phê Rô canh giữ, hay cảnh giới của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ vv…
    Quê nhà ấy được thấy qua trực giác như Thằng Bờm đã thấy lẽ công bằng nguyên thủy gồm hai vế cân xứng là nắm xôi và cái quạt mo. Khi người đời bị triệt tiêu, đời người cũng chết theo. Thế kỷ 20 là thế kỷ nhiều máu nhất, buồn nản nhất. Thời trung cổ Âu châu được xem như một đêm dài, nông nô bị xiềng bởi cái xiềng vô hình trong nông trại của chủ, nhưng vẫn có chút không khí mà thở còn nghe những chàng du ca ngồi trên mình ngựa gãy những khúc đàn êm. Họ còn chút tồn tại của tư duy, dĩ nhiên cách suy nghĩ bị điều kiện hóa bởi các thứ thần học lạc hậu. Vẫn trong khung cảnh Âu Châu, những thời như Phục Hưng, cổ điển, duy lý vv… đi kèm theo các triều đại độc tài. Nói vậy, nhưng dù bạn không được phép hô hào nơi công viên, vua Louis 14 không đến đầu giường bảo bạn suy nghĩ thế nào, nhào nắn tư tưởng theo một khuôn đúc của triều đình.
    Qua đến thế kỷ 20, ý nghĩa cuộc sống bị cắt cụt đến tận vô thức. Đó là lý do có những tiếng kêu. Thống thiết nhất là Koestler: cường quyền là cực đại, con người là số không, bản ngã chỉ là một ảo tưởng văn phạm. André Malraux: cuộc đời chẳng có giá trị gì, nhưng không có gì có giá trị như cuộc đời. Tôi không rành văn học nhưng cứ nghĩ phong trào muôn dạng gọi là hiện sinh, tuy không giải quyết được nhiều như những học thuyết tôn giáo và tâm linh, báo động nguy cơ hủy diệt sự hiện sinh.
    Hiện sinh đó là sự sống bình thường, không thiên thần không thú vật. Hiện sinh đó nhận chân bởi những con người tầm thường. Họ chia sẻ với một tác giả nào đó đã nói: không có cái chết, chỉ có những người chết. Khi không tìm ra lẽ sống hay ý nghĩa cuộc sống bị rứt bỏ, mình xem như đã chết. Vì vậy có thể hiểu vì sao có kẻ tự tử, vì một giá trị nào đó mất đi, như mất một mối tình vv…

    Cũng vậy, đại úy biệt kích nhà ta đã chết điếng, chết đứng như Từ Hải khi thấy sự chờ đợi của mình đã chệch hướng, biến chính mình làm đồ chơi của những thế lực chính trị. Ông đã ghép đứa bé mồ côi vào chính mình, đồng thời nhận biết cả hai không còn gì ngoại trừ chính cái cô đơn, lạc loài. Toi et moi, nous sommes seuls, tous les deux. Cả hai đi vào một thế giới không hồn, thế giới ấy là thế giới khách quan hay nội tại chẳng quan trọng. Nhưng bên trong thì nhiều hơn. In me there has been a soulless world. Đây không phải là trạng thái tự tại hồn nhiên mà trái lại, sôi động, đau đớn, như con cá hất lên đất khô, cố tìm sống qua chút âm ẩm còn trên da. Còn về Daru như đã nói trên chàng chưa vào ngõ cụt, câu viết trên bảng chưa làm thân thể chàng chết, chàng lo cho cái chết của ý nghĩa thả tù, hy vọng người ta sẽ hiểu chàng hơn.
    CTC không phải là tác giả cuốn phim, nhưng khi viết ông đã phóng chiếu sự chờ mong nghiệt ngã lên nhân vật nầy, dấn ông vào cái cô đơn tuyệt đối. Hãy so sánh với một nhân vật phụ của Hawthorne; cái hồn ma. Hồn ma của người đã chết trở về đứng bên lò sưởi, nhìn những người thân còn sống ngồi quanh cây đèn măng sông; hồn ma muốn thốt lên một lời thương mến nhưng khóa kín miệng. Mình đã bị bắn ra ngoài như những tinh thể không chịu nỗi sức ly tâm. Bây giờ thốt ra tiếng nồng thơm thì mình là con ma, người ta sẽ mời thầy mời cha về trừ quỷ ám. Và dĩ nhiên hình ảnh thân yêu (là chính mình) cũng mất đi trong lòng những người kia. Thôi hãy lui ra tàng cây rộng, ra cánh đồng hoang...
    Thật vậy, hai bên không còn sự thuận hợp, nói theo xã hội học thì làm sao được việc cũng như Khổng Tử nói nội ngoại bất tề sự bất thành. Nhưng đất sống của viên đại úy khác với trường hợp của hồn ma, hồn ma thành hình vì những cơ duyên tự nhiên của thành trụ hoại không. Không phải là cảnh lòng người ly tán; hồn ma chơi vơi theo kiểu hồn ma; kẻ còn sống vẫn tiếp tục nếp cũ, như nếp sống của hồn năm xưa.
    Viên sĩ quan của chúng ta vẫn phải sống trên cái quê nhà đất cát, núi non, cái quê nhà vô cơ (inorganic), ngày một khô thêm vì nông dân dùng phân hóa học, vì xứ sở ngày một nhiều độc tố.

    Như một cơ chế tự nhiên trong tâm sinh học, sự ước mơ chờ đợi đã đến với ông để xoa dịu vết thương tâm lý. Ông mơ ước có một quê hương nhân bản, quê hương của đời người và người đời. Nhưng sức người có hạn. Viên thuốc ước mơ đã bào mòn bao tử làm cho bệnh nhân cầm nắm được trong tay sự nghiệt ngã tấy nguyên hình từ những ước mơ nhỏ nhoi không vời đến được, những cơn ác mộng, những hoài niệm đau thương, những tương tác dùi cui chấm mắm nêm. Một chân trong thế giới vô cơ, một chân trong thế giới không hồn có thật trong nội tâm.
    Bao giờ sự nghiệt ngã chấm dứt?
    Khi mình thành tượng đá khác nào thiếu phụ trông chồng thành Hòn Vọng Phu.
    Nghiệt ngã như rứa đã vừa chưa?!
    tôn thất tuệ 30/09/2011

    phụ bản:
    kinh cô đơn
    tôn thất tuệ

    Giọt nước mắt thầm buông
    như suối ngọc
    trôi về xa quá vực cô liêu.
    Ôi suối ngọc hãy về nguyên ủy:
    những ưu tư đau đớn xót chua
    những ước mơ thầm kín sâu xa
    những tin yêu tha thiết mặn mà.

    Nơi khởi thủy của dòng đời có thật
    xin suối ngọc tìm về quê cũ.
    Nước mắt ơi hãy vỡ tung ra
    trả lại ta thương cảm đậm đà
    ta sẽ kết một vòng tràng hạt
    đếm cô đơn từng giọt, tiếng cô đơn.
    Kinh cô đơn ta niệm hằng giờ.----
    Last edited by tonthattue; 02-19-2012 at 07:26 AM.

  6. #6

    nàng tiên trong em

    (Hôm qua 29.10 tôi đọc một bài ngắn trên một blog nói về cái mê. Người viết nêu vài câu hỏi như mê là bẩm sinh hay do xã hội tạo nên; nếu mê là một bệnh thì phải có trị bệnh. Nhưng chưa có triết lý phương cách nào trừ bệnh mê. Nhưng theo ông thế mà hay, trích: bởi sống mà không mê cứ tỉnh rụi thì làm sao chịu nổi khổ đau và cô đơn? Ngưng.
    Nàng tiên trong em
    Bệnh mê trong bài tôi hiểu là mê mệt như mê gái mê tiền. Tuy khác trong mức độ, mê nầy cũng có nguồn gốc từ mê muội, vì mê muội nên mê những chuyện không hay. Nhìn qua thì như bẩm sinh nhưng thật ra là do nghiệp lực dồn nén và dồn dập từ nhiều kiếp và cả kiếp đang sống. Tất cả nằm trong cọng duyên ; xã hội đã chỉ cho người ta mê cái gì. Voltaire, thế kỷ 18 Pháp, đã đưa một nhân vật của mình đi vào một thế giới khác nơi kim cương vàng ngọc như lá rụng, không ai thèm lấy. Có lẽ trong khung trời ấy người ta cũng có cái gì để mê, nhưng khác thôi.
    Nghiệp lực là một cái màn, một écran chỉ tiếp nhận những thứ thích hợp. Đam mê của nhà thơ khác với cái đam mê thu tập vũ khí của một kẻ đi săn. Casey nhà thần bí Mỹ đã thôi miên “chủ thể” để đọc tiền kiếp (rất ngắn so với vô lượng kiếp của nhà Phật) và thấy các sở thích của thân chủ ăn khớp với quá khứ và sau đó ông đưa ra các đề nghị như ngành học, nghề nghiệp.
    Ở điểm khác, các đam mê, hay mê thích, xuất phát từ bản năng. Danh từ nầy ngày nay không còn bị xem là xấu để phân biệt người và thú vật, thể xác và tinh thần. Bản năng có trong cả giới hữu tình và giới vô tình. Đó là sức sống tiềm ẩn. Các loài cỏ đã cố hết sức truyền sinh một cách mãnh liệt và nhờ vậy trái đất của chúng ta không bị xoi mòn, chúng thu hút các chất độc, chuyển hơi nước trong sương xuống rễ, làm cho đất xốp, mở đầu một loạt phản ứng sinh hóa. Cây cỏ quả thật tham sinh úy tử.
    Tác giả nêu lên một vấn đề mới nhìn thì rất đơn giản như mê vàng, mê gái. Nhưng là một vấn đề khó giải quyết từ đông tây kim cổ. Quả vậy, Trang Tử nói đạo có trong phân giải.
    Nếu chấp nhận lòng đam mê (thường hiểu là xấu) là một cọng hưởng của quá khứ vô thủy và hiện tại ngắn hạn, nó không phải là bẩm sinh, mà cấu tạo theo lối trùng trùng duyên khởi, do cơ duyên nầy kia tạo ra.
    Bẩm sinh chỉ có Phật tính, một thuật ngữ có thể hiểu là cái chí thiện, cái trong lành, cái Chúa tính, nếu cần nói.
    Tác giả nêu bệnh và chữa bệnh. Mê là một trong ba mối hại (tam độc: tham sân si). Lý do xuất hiện của Phật (tôi không gạt bỏ các vị linh thiêng khác) là trừ ba mũi tên ấy. Vì vậy Đức Cồ Đàm đã gạt bỏ và không trả lời các câu hỏi siêu hình. Ngài nói khi có ai bị mũi tên độc thì lo mà lấy ra, rịt thuốc; chờ trả lời ai bắn, chất độc gì, vì sao cùng vạn câu hỏi khác thì nạn nhân chết mất tiêu.
    Về cái mê, Đức Phật có sự phân biệt lý thú trong kinh Niết Bàn. Đại để, khi tĩnh, mình mới thấy đời chỗ nào đảo điên, chỗ nào không. Nhưng khi mình mê như say túy lũy thì thấy mọi sự đều đảo điên. Đây cũng là một lối nói trong tinh thần trung đạo.
    Trong cuộc đời, con người không gặp được Phật Chúa Khổng Lão… Trái lại các thế lực chính trị làm cho con người càng mê. Họ dùng các phương thức mới dựa vào các khám phá mới trong tâm lý học. Ví dụ, cùng một cuốn phim, nhưng nếu bạn đi xem ban tối thì thấy hay hơn ban ngày. Việc nầy hoàn toàn đúng với các buổi hòa nhạc cổ điển tây phương. Do đó Hitler lúc nào cũng hô hào dân chúng ban đêm với ánh đuốc bập bùng. Truyền tin trở thành ngụy tin hay tạo tin (information --> misinformation and disinformation, news making). Những di lụy của cuộc chiến tranh lạnh vẫn còn mạnh mẽ trên những xã hội khép kín và bị khống chế. Về kinh tế, kỹ thuật marketing đã tạo ra những lối suy nghĩ có lợi (mind set) ví như khăn giấy lau tay hay giấy vệ sinh phải màu trắng mới hợp sức khỏe. Thật ra điều đó rất có hại. Màu trắng có từ diễn trình bạch hóa (bleaching) bột giấy mang màu gỗ, hóa chất không thể loại bỏ sau khi biến đổi màu mà còn trong sản phẩm; gián tiếp những cặn bã của công việc nầy chảy xuống sông lạch và con người sẽ uống trở vào thân thể.
    Tôi muốn ngưng với một ý nghĩ kỳ cục, trên một truyện ngắn. Trong cái khốn cùng tuyệt vọng vì thời cuộc, chui rúc dưới mái tranh gió lùa qua phên, một cô vợ trẻ hát mấy câu trong Thiên Thai của Văn Cao. Người chồng vừa hóm hỉnh vừa chảy nước mắt như đang diễn một bi hài kịch. Anh nói: trời ơi, vợ tôi đã là một nàng tiên. Khi cho hóa kiếp thành người để trừng phạt cả loài tiên huyên náo thiên đình, Ngọc Hoàng vì chiểng mãn còn để lại trong con người trần tục một chút thần tiên. Có người dùng nó để hiểu Thiên Thai. Nhưng vô số người bị đem cái thần tiên ấy làm bùa mê mà nhữ cái thiên đàng vô tưởng bằng cách hy sinh tất cả hiện tại; con tép nhỏ hôm nay quí hơn con bò mai sau.*
    -----------------------------------------------------------------------------
    *Ngụ ngôn La Fontaine: con cá nhỏ bị mắc câu nói với ngư ông hãy thả ra, nó lớn rồi đến câu sau sẽ được miếng mồi ngon. Ông trả lời không.
    Un tient vaux mieux que deux tu l’auras.
    Last edited by tonthattue; 02-19-2012 at 07:34 AM.

  7. #7

    Chiều chưa có tên

    chiều chưa có tên

    tôn thất tuệ

    Tôi thích có cái chuông lớn như trong các chùa Huế, chiều chiều thỉnh vài chục tiếng ngân khắp thung lũng nầy, để người, núi đồi và thú hoang ... cùng nghe. Rồi tết vừa qua thằng con mua cho cái phong linh rất to, to như mấy ống lồ ồ. Cái chuông gió móc dưới nhà bên bờ hồ; ngồi trên nầy đóng cửa vì gió lạnh đến trễ; cho nên nghe tiếng chuông mơ hồ xa xa, như nghe qua đồng Bò Vá dưới chân đồi của chùa Tường Vân chạy qua phía Cầu Lòn; hoặc là nghe trên những vùng thấp sau Linh Mụ, qua Kim Long, xuống Văn Xá ....
    Nhưng gió đánh, không phải là người đánh. Nó bỏ lửng như chú tiểu ngủ gục tay chống trên cái chày vồ bằng gỗ mít. Nó dồn dập như đánh cho xong 108 tiếng rồi xuống bếp tìm cơm nguội. Nó không tuần tự như tiếng chuông Trấn Vũ; nó cũng không lớp lang như chuông nhà thờ do anh gù điều khiển.
    Nó, tiếng chuông và cái chuông gió; nó hay chúng nó không là gì cả; mà chúng hiện hữu trong một chiều rất cô tịch. Yên lặng như trong một thính đường với khách sành điệu, thà nín thở mà chết còn hơn phát ra một hơi gió độc hại đập nát các nhạc cụ, hay như chiêu cách không đả ngưu, bóp họng ca sĩ soprano.
    Thấp hơn tí nữa, lại có một giao hưởng của loài cầm, symphonie des oiseaux. Một bầy chim đen thủ diễn phần hồ (string), lũ gà nhà chia nhau phần gió (wind and brass) . Nhất là con gà tre trống cầm cây clarinette chỉa lên trời mà thổi. Ba anh ngỗng trời thích chơi cái xủm xẹt, cái thanh la. Những hạt bắp vàng óng ánh trên lớp cỏ mới nhú vì hơi xuân chưa ấm.
    Những nhạc công có cánh ấy sẽ đi ngủ theo mặt trời; nhưng cái chuông gió sẽ tiếp tục. Và buổi chiều vẫn tiếp tục cái cô liêu của nó, vì buổi chiều không cô đơn trong sương núi, trong màu chàm như chiếc áo của một cô Thái đen Thái trắng trên thượng du Bắc Việt nay nhượng cho Tàu.
    Nhưng lại là một buổi chiều đầu tiên, tim mình đập mạnh như bị ai siết lại khi nghĩ đến các bạn ngày xưa tưởng như không dấu vết trong thời gian. Tôi đã viết đâu đây:

    nghĩ tới em ta tìm một vần thơ để gọi
    cho giờ nầy trong triệu phút triền miên.

    Vâng, mỗi lúc có một vần thơ riêng, một suy cảm mới. Như tôi đang hỏi lấy gì làm cái tên cho chiều nay? Châu?, Bàng?, Hiền? hay Bolero của Ravel, hay Serenade của Schubert, có khi là Chiều Về Trên Sông hay một lời kinh xứ Huế: Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại Xá Vệ Quốc ....

    Nhưng tìm tên một người bạn cũ vẫn hay hơn.
    Vẫn còn một buổi chiều chưa sẩm tối, chưa biết gọi tên là gì.
    Đang ở giữa một buổi chiều buồn vô hậu...

    (trích từ một email gởi cho thân hữu)
    Last edited by tonthattue; 12-15-2011 at 04:16 PM.

  8. #8

    Lá Rụng của Khái Hưng

    Lá Rụng
    Khái Hưng

    Trời cuối đông *(thu?),vàng úa nhuộm màu buồn vô hạn. Một làn gió lạnh thổi qua : mấy chiếc lá rụng.
    Mỗi chiếc lá rụng có một linh hồn riêng, một tâm tình riêng, một cảm giác riêng.
    Có chiếc tựa mũi tên nhọn, tự cành cây rơi cắm phập xuống đất như cho xong chuyện, cho xong một đời lạnh lùng thản nhiên, không thương tiếc, không do dự vẩn vơ.
    Có chiếc lá như con chim bị lảo đảo mấy vòng trên không, rồi cố gượng ngoi đầu lên, hay giữ thăng bằng cho chậm tới cái giây nằm phơi trên mặt đất.
    Có chiếc lá nhẹ nhàng, khoan khoái đùa bỡn, múa may với làn gió thoảng, như thầm bảo rằng sự đẹp của vạn vật chỉ ở hiện tại: cả một thời quá khứ dài dằng dặc của chiếc lá trên cành cây không bằng một vài giây bay lượn, nếu sự bay lượn ấy có vẻ đẹp nên thơ.
    Có chiếc lá như sợ hãi ngần ngại rụt rè, rồi như gần tới mặt đất còn cất mình muốn bay trở lên cành.
    Có chiếc lá đầy âu yếm rơi bám vào một bông hoa thơm, hay đến mơn trớn một ngọn cỏ xanh mềm mại.
    Mỗi chiếc lá rụng là một cái biểu hiện cho một cảnh biệt ly.
    Vậy thì sự biệt ly không phải chỉ có nghĩa là buồn rầu, khổ sở . Sao ta không ngắm sự biệt ly theo tâm hồn một chiếc lá nhẹ nhàng rơi ?"

    Theo Khái Hưng báo Phong Hoá số 171 ************************************************** ****

    Ghi chú của người gởi::

    *Tôi không còn giữ được sách Quốc văn thời Trung học trước 1975 nên không rõ là “Trời cuối đông… hay là: Trời cuối thu…” nhưng “vàng úa” thì rõ ràng là hình dung từ tượng trưng cho mùa thu. Tuy nhiên, qua tham khảo một số link khác thì thấy hình như là “Trời cuối đông…” Mong quý vị và các bạn ai nắm chắc được vấn đề này đóng góp ý kiến giùm!

    Phúc đáp:
    Mẹ già tham việc tiếc công
    cầm duyên con lại thu đông mãn rồi. (ca dao)

    Đa số người Việt và ngay cả trong lịch hằng ngày và tử vi, mùa xuân bắt đầu ngày Tết.
    Xuân hạ thu đông có ghi trong các tiết của âm lịch, tính theo các ngày sóc, ngày gì đó như cốc vũ, lập xuân v.v... nhưng không ảnh hưởng. Chữ mùa xuân mà VC dùng cho 30.4 rất đổi ngạc nhiên khó hiểu, cũng như lúa đông xuân, vì dân mình không tính bốn mùa theo lối tây phương (có Nga)
    Mặt khác, người mình cũng quan niệm xuân theo dương lich tính từ đầu tháng giêng.Nếu Khái Hưng hiểu như mọi người, nhất là khi ông làm tờ báo xuân, thì mùa cuối đông, tháng chạp (12) là đầu đông của thời tiết niên sóc quốc tế.
    Ý chính của bài nói về viễc lá rụng. Câu đầu nói lá vàng là một ý phụ.
    Vả lại, lá rụng thực sự sau mùa thu; mùa thu lá chỉ đổi màu, chuẩn bị rụng vào cuối mùa, có khi đã sang đông.
    Hơn nữa việc lá rụng xẩy ra không cùng một lúc trên thế giới. Càng đi xuống phía nam càng thấy khác vì miền nam chỉ có mưa nắng hai mùa.
    Do đó theo thiển ý, chữ cuối đông của Khái Hưng không tạo nên một vấn đề gì.

    Tôi còn nhớ giờ quốc văn có bài Nhặt Lá Bàng, hình như trích từ Đôi Bạn hay Đoạn Tuyệt của Nhất Linh. Trong đó hai chị em cô bé nghèo lượm lá bàng khô làm thuốc nhuộm nâu.

    Khái Hung viết: /Mỗi chiếc lá rụng có một linh hồn riêng, một tâm tình riêng, một cảm giác riêng/
    làm tôi nhớ đến Lamartine: Objet inanimé, avez - vous donc une âme? Hỏi là trả lời.
    Kính,

    sương chiều ngõ vắng

    Miền ngõ hẹp vùng mây
    nắng chen vàng trổ nhụy
    phấn hoa trời
    vùng đất mộng ươm mầm
    chiều xuống chờ sương.
    Sương đã đến mà chiều chưa hay biết
    gió thoảng về đá cuội ngọt vành tai
    mãi theo sương chiều quên tiếng lá
    lá bâng khuâng nằm buồn cuối ngõ
    ngõ chờ ai.-

    tôn thất tuệ

  9. #9

    cây bồ đề

    cây bồ đề
    Tôn Thất Tuệ

    Sống ở Saigon ai cũng thấy rõ ngoài vùng phố xá buôn bán, phần còn lại của đô thị nầy chia làm hai: một bên chen chúc, một bên biệt thự kiểu Pháp trong những vườn lá rậm, những bãi cỏ cắt mịn...Ngoài đường cây xanh um tùm che mát bờ tường cổ kính quét vôi màu vàng. Tôi thường đưa nhà tôi qua vùng nầy. Vợ chồng phân tích từng nét kiến trúc trầm trồ khen ngợi nhà nầy nhà kia; rồi cũng có lúc bực mình vì một nhà mới mọc nửa quê nửa chợ.

    Sau mấy lần vượt biên không thành và mất hộ khẩu ở vùng quê, tôi về sống bất hợp pháp ở Saigon. Những lúc cần tránh công an khu trú mới, tôi thường đi lang thang với đôi dép chiếc đực chiếc cái vào khu kiểu cách ấy nhưng không còn ngắm các biệt thự mà cúi đầu. Phần vì buồn cho kiếp lưu đày trên quê mẹ, phần để tìm các mẫu thuốc lá khá dài như Hoa Mai, Đà Lạt mà người hút bực mình không cháy liệng xuống đất.

    Những bờ tường xi măng còn đó dưới những hàng cây xanh. Vĩa hè rác rưởi khá nhiều. Không ai buồn sơn lại những bức tường kia. Chủ cũ đã đi, chủ mới bận nuôi heo nuôi gà, thèm chi chút thẩm mỹ bên ngoài. Rêu phong ăn dần màu vàng.

    Những cây non xé bờ vôi, mọc ra lởm chởm như hàm râu không cạo. Đó là những cây bồ đề, cây sanh non trước khi thành cổ thụ. Những cây bồ đề vắt vẻo ở bờ tường, mùa nắng chỉ còn vài ngọn lá vàng. Những rễ phụ quá khô không bám nỗi vào vách, buông thả trong gió như sợi tóc lạc lõng. Mới trông như ai nhặt một cây bồ đề đâu đó, dán vào tường cho nó khô nó héo mà chơi.

    Mỗi lần đi trốn công an như vậy, tôi chỉ có một đồng dính túi để đi xe buýt lúc tối về nhà. Một hôm khi đứng nhìn cây bồ đề héo hắt, tôi đánh liều ngồi ở quán cà phê đầu đường, loại quán bỏ túi bán chui bán chạy ở đô thành đổ nát nầy. Vừa pha cà phê cô hàng vừa nhìn đôi dép hai thứ của tôi với con mắt là lạ. Vì thế tôi đứng dậy trả trước một đồng, cái đồng duy nhất. Và để khỏi bị mời, dù mời đưa, mua thuốc Samit hay Ba Số Năm, tôi móc túi để ra bàn mấy mẫu tàn thuốc mới lượm như đánh canh bạc xả láng cuối cùng với người đẹp.

    Tôi đưa cốc cà phê lên uống, mắt mãi nhìn đằng kia. Nếu có ai chú ý, có lẽ nhìn đôi mắt tôi không cú vọ như công an nhìn người. Thật thế, tôi đang nhìn cây bồ đề trên tường nứt màu vàng chen vào rêu héo. Tôi ngồi xuống đánh canh bạc cuối cùng với cô hàng nầy vì cây bồ đề ấy thôi. Nào có thích gì đâu.

    Xin cô hàng lon nước rửa ly, tôi đến cây bồ đề tưới nhẹ. Nước rút vào bức tường khô không còn một giọt rơi xuống đất. Dấu nước chảy dài rồi bé phía dưới, in rõ lên nền vôi như một nét bút lông thủy mạc. Tay trái cầm cái lon, tay phải chống vào tường, tôi nghiêng mình hướng về cây bồ đề đang giành dựt nước với bức tường khô.

    Khi tôi trở về, thấy tôi làm công việc khá kỳ quái, cô hàng tỏ vẽ bớt nghi kỵ. Cô lại đùa khi chỉ vào gốc cây lớn:

    - Khi cây nầy tàn lụi, cây bồ đề kia sẽ lớn lên che phủ khu nầy; tôi sẽ dời cái bàn nầy qua đó.

    - À ra thế, tôi đáp, tôi vừa giúp cô đấy nhé. Sao cô không tưới nước cho nó?

    - Mặc kệ, cô ta trả lời, cây ngô đồng không trồng cũng mọc.

    ***

    Tôi ngồi yên lặng. Tôi nhớ hồi bé khi đi thăm ông bà nội, tôi thích hòn non bộ đặt trên bể cạn, với những tiều phu, những tiên ông, những chiếc cầu nho nhỏ, con cá, con ốc...tất cả đầu bằng sứ tráng men. Những thứ ấy ẩn hiện trong rừng cây nhỏ bé, có thác, có ghềnh, có sơn, có thủy. Những cây bồ đề vóc dáng sần sù thả chùm rễ râu xanh xuống nước để nuôi thân. Cả một cây cổ thụ nay chỉ thu nhỏ bằng gang tay, thân khẳn khiu với thời gian, với sương gió.

    Cây cổ thụ tượng trưng cho sức mạnh vô biên phủ cả một góc trời mà thu lại trong tâm can, trở thành nhỏ bé vừa tầm của mọi người, mọi vật, len lỏi vào con tim của ai ai. Cây bồ đề lá nhỏ như quả tim. Thu rút lại mà không khắc khổ, trổ lá xanh tươi như nụ cười mà không nham nhở. Tuy nhỏ mà cây bồ đề vẫn tung ra cánh tay che con đường cheo leo nơi hòn non bộ hay phủ kín một nhịp cầu ước mơ.

    Dưới khối núi với cỏ cây trùng điệp trong hồn nhiên tự tại, dưới đó là nước mát. Cá đỏ lội tung tăng hay nằm lững lờ như diều ngưng cánh buông thả trong gió chiều. Những con cá đứng yên như cây bồ đề đứng yên bên trên.

    Giây phút bên bờ đường với cây bồ đề khô héo đưa tôi lạc cõi nào, không hiểu nằm đâu trong cung bực của thời gian và không gian, làm tôi quên bẵng cảnh lưu đày trên đất mẹ. Cây bồ đề nhỏ bé lọt lòng tay giờ đây nó an ủi tôi, nó làm bài học của lòng tôi.

    Từ trước đến giờ, tôi chỉ làm việc để tung hoành, để bung ra để bành trướng và mãi mãi thêm lên. Vì thời cuộc đã khựng lại, khựng lại trong khung cửa hẹp của nhà tù, khựng lại trong đôi dép hai thứ, khựng lại trong sự săn đuổi của công an.

    Cây bồ đề cổ thụ ngắn hơn gang tay, tích tụ cả gió sương thu lại thành sức mạnh, sức mạnh của yếu hèn, sức mạnh của con tim, sức mạnh của nguyện cầu. Cây bồ đề tượng trưng cho sự chuyển hoán tư thế trước những cục diện khác nhau mà tâm hồn vẫn là một. Nếu sự vương ra đã là khó thì sự trở về với bản thể con người còn khó hơn nữa.

    Từ hôm ấy tôi nhặt những cây bồ đề mọc ở vách tường mới lớn hay đã có hình thù cổ quái đem về trồng trong những phiến đá nhỏ ghép vào nhau, chưng trong nắp khạp nắp lu. Cứ mỗi sáng ra nhìn rễ trắng chạy trên đá hay thả xuống nước. Tôi uốn cành cong lên cong xuống, uyển chuyển theo mốc đá. Trong số những cây trồng, tôi thích nhất cây có gốc to bằng nắm tay mà chỉ có mầm lưa thưa, lá lại xanh như đôi mắt tinh khôi, khối lòng rộng mở. Tôi khen ngầm cây ấy chỉ biểu lộ bấy nhiêu sức sống.

    Những cây bồ đề không mất tiền nầy là nguồn vui không riêng gì cho tôi mà cho cả gia đình. Mấy đứa con có quyền thêm một hòn sỏi, một viên bi hay một cành rau nước. Một hôm tôi đi về thấy một hình người bằng plastic ngồi dưới gốc cây. Tôi tưởng như một hiền nhân toạ tĩnh, tôi vái chào với tất cả cung kính. Tôi thấy mình nhỏ bé lại.

    Gạt bỏ tính cách triết lý trong cây cảnh Đông phương, những cây bồ đề nhỏ bé trước mắt cho tôi một bài học kiên nhẫn, thu mình để giữ lại sự hiện hữu trước bão táp của cuộc đời. Mỗi cành cây uốn cong tượng trưng cho một u uẩn của lòng tôi. Chuẩn bị một tư thế vươn ra, một vùng đất soạn sẵn để trở về. Tôi chấp nhận sự lắng thinh để cố giữ thành trì cuối cùng làm tư duy thầm kín, một tự tại của cõi lòng. Không để cho nó nát tan.

    Trước một bối cảnh của quê nhà như vậy, làm sao ta cố đừng điên lên mà giữ cho lòng thật yên, cho thật lắng cho dù có lao lung tả tơi. Rất nhiều lần vợ chồng tôi thấy như đang ở trong nhà thương điên. Báo chí Tây phương chỉ trích việc đưa vào dưỡng trí viện những nhà tư tưởng, những nhà khoa học mà họ không biết sau bức màn kia là một nhà thương điên rất lớn. Chỉ khác ở chỗ không có bác sĩ tâm thần.

    Phải tự chữa lấy cho qua cơn khủng hoảng nầy. Chữa bằng những công việc đơn giản. Ở Nhật Bản, khoa xếp giấy thành hoa quả, chim muông là một phương pháp trị liệu tâm thần rất tốt.

    Ngày ở quê, những lúc trời mưa không làm việc được, tôi rất đau buồn nhìn công việc bỏ bê mà khoai củ trong nhà đã hết. Mưa vẫn nhiều; mái tranh dột nát. Một bức bách tâm thần không tránh được. Tôi giải quyết bằng cách chú tâm tuyệt đối vào các thanh tre, những sợi lạt, những đóm thuốc lào tách nhẹ qua cái rựa bén trên tay. Những sợi lạt mềm nhủn dẻo kẹo, những đóm thuốc lào đều đặn xinh xinh xếp trước mắt như những tư tưởng mạch lạc trở về trong trật tự trước bức bách ngoại cảnh, của hiện tại chua xót, của tương lai mờ mịt.

    Khi tôi trở về sống ở Saigon, những cây bồ đề thu hút cả chú tâm của tôi. Tôi đặt vào đấy cả cuộc sống và tìm từ đó sự lắng yên của tâm hồn trước sức công phá của thời cuộc đổi thay. Hình ảnh đạo sĩ bằng plastic nhỏ bé ở gốc bồ đề nhắc tôi một câu nguyện mà tôi xem như một thế liên hoàn chân vạc:

    "Xin cho tôi ba điều: 1. Đủ sáng suốt để phân biệt thiện ác, xấu tốt. 2. Đủ bình thản chấp nhận những gì không thể thay đổi được. 3. Đủ can đảm làm những gì có thể làm được."

    Thưa đạo sĩ, tôi đã bình thản như những cây bồ đề trước mắt. Tôi đủ can đảm chấp nhận mọi thứ để ra đi, ra đi một mình. Và nay nếu quyết định nầy đưa đến kết quả, chắc chắn tôi sẽ để lại sau lưng mấy cây bồ đề nầy và...và...

    Những cây bồ đề được tới mát săn sóc không làm tôi quên cây bồ đề héo hắt nơi bờ tường kia, cái cây cô hàng cà phê mong mỏi sẽ lớn lên che tàng bóng mát. Sau mấy lần xuống miền Tây vượt biên thất bại, tôi trở về Saigon. Một hôm có tin đi, tôi đưa nhà tôi dạo phố theo kiểu nhà nghèo. Chở nhau trên chiếc xe đạp đến góc đường mà tôi đã đánh canh bạc cuối cùng với người đẹp bằng mấy mẫu tàn thuốc lá mới lượm giữa đường. Đến quán tôi chỉ gọi một cốc ca phê đen, nhà tôi không uống gì. Giây lát sau, tôi đưa cô lại cây bồ đề khô héo kia. Tôi đứng trong tư thế như lần trước.

    Đó là ngày cuối cùng trước khi tôi đi. Tôi sờ cây bồ đề như ai mới dán vào tường. Với tất cả ngậm ngùi tôi nói:

    - Hy vọng lần nầy anh đi được. Anh để lại cho em cây bồ đề héo hắt nầy.

    Nhà tôi đứng buồn. Một lúc sau cô nói:

    - Anh còn ngại gì mà không nói thẳng rằng anh để lại đằng sau một người vợ héo hắt. Nói quanh nói co làm gì cho buồn thêm.

    Tôi đáp:

    - Anh không can đảm nói thẳng như vậy. Nhưng thật ra anh còn để em lại với đống rác kia. Cái đống rác mà mỗi ngày con chúng ta đào xới tìm bao nylon bán ký, những mãnh chai sắc nhọn, những vật ngộ nghĩnh mà chúng làm đồ chơi. Anh để lại cho em tất cả, những dòng chữ yêu thương từ hồi em còn mười bốn. Anh để lại tất cả, kể cả cái héo hắt của cây bồ đề nầy.-

    (1982, Thái Lan)

    Last edited by tonthattue; 12-15-2011 at 04:14 PM.

  10. #10

    xuân quên

    xuân quên
    tôn thất tuệ


    Ta mê ngủ không thấy gì trời đất
    không thấy ta một kẻ lưu đày

    những bóng ma lẩn quẩn đọng bờ mi

    như réo gọi tên ta từng nhịp.


    Ta lặng yên làm người xa lạ

    vì tên ta đã để đâu xa

    hồn chan chứa những gì xưa cũ

    xó nào đâu mà đặt để tên ta.


    Ta vẫn ngủ chiều xuân nơi đất lạ

    ý xuân nồng ru ta ngủ thêm say.

    Đừng lay động cho mơ xuân vẫn thắm.

    Ta mơ người quên bẵng cái tên ta

    mà chỉ nhớ một dòng thơ vô nghĩa

    ta viết ra không nói với đời

    cho mối mọt đêm khuya ngâm vịnh

    cho côn trùng nhảy múa với hồn oan.


    Xin quên ta, kẻ điên cuồng vì hư ảo

    xuân đã về và nhện dăng tơ

    ta vẫn ảo, vẫn còn đeo câu thơ vô nghĩa

    chưa dám quên vì còn thương em vô tận

    em sang sông rửa sạch bụi trần

    đời tinh khiết không thơ, không nhạc.-

    Bangkok 1984

 

 

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 04:26 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh