Register
Page 9 of 14 FirstFirst ... 7891011 ... LastLast
Results 81 to 90 of 134
  1. #81
    Biệt Thự HXhuongkhuya's Avatar
    Join Date
    Jan 2015
    Posts
    4,655


    Tưởng Như Còn Người Yêu



    ...Anh lên lon giữa hai hàng nến trong...





    Quote Originally Posted by HaiViet View Post
    Những Cánh Én Giữa Mùa Đông
    Phạm Tín An Ninh

    Hải Việt lại nói thêm một chút về Đại Úy Phạm Vương Thục, anh là Trưởng Phòng Hành Quân của một phi đoàn trực thăng thuộc Sư Đoàn 1 Không Quân. Sau ngày bào huynh của anh là Trung Tá Phạm Văn Thặng bị bắn rớt máy bay trong phi vụ hành quân, vì anh là con trai còn lại trong gia đình nên được Bộ Tư Lệnh Không Quân cứu xét đưa về làm việc tại BTL để tránh những ngày tháng chiến tranh đang nóng bỏng tại Vùng I Chiến Thuật, tự nhiên lại nghĩ đến phim Saving Private Ryan cũng có 3 anh em trai chết trong trận chiến World War II chỉ còn lại người em út đang chiến đấu ngoài mặt trận nên cấp trên muốn cứu anh Ryan để đưa về đoàn tụ với gia đình.
    ...

    "Anh Tiến & Anh Thục không còn nữa, nhưng hình bóng các anh có lẽ sẽ không bao giờ phai mờ trong tâm trí những người bạn đã quen biết, nhất là những cánh chim Song Chùy 213 đã một thời cùng các anh vùng vẫy ngang dọc trên khắp chiến trường của Vùng Trời Hỏa Tuyến!" (Trích Kỷ Niệm Với Hai Niên Trưởng Trần Lê Tiến Và Phạm Vương Thục, link anh Ngọc Hân mang về)

    Làm sao có thể cảm được nỗi đau của người Mẹ, người vợ, người thân trong gia đình khi hay tin người lính tử trận. Trước đây, tình cờ coi cảnh những người vợ trẻ đón chồng trở về bằng chiếc quan tài phủ cờ quốc gia, không cầm được nước mắt. Tự dưng nhớ bài hát Tưởng Như Còn Người Yêu, NS Phạm Duy phổ nhạc từ bài thơ của Lê Thị Ý





    HXhuongkhuya cám ơn các anh chị
    , các bạn ghé thăm .




  2. #82
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,193
    Chuyện Về Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang

    April 26, 2018 | by Ban Tu Thư |





    Bốn mươi năm nhìn lại ngày Phan Rang thất thủ, tôi lại nhớ một khuôn mặt tướng lãnh cựu tư lệnh Sư Đoàn 6 Không Quân (bản doanh đóng tại Pleiku), người đã bị địch bắt tại chiến trường, bị đem ra Bắc và trở thành người tù có thâm niên cao nhất (17 năm).

    Trong số các sĩ quan bị trả thù sau cuộc chiến, ông là người vào tù sớm nhất (16-4-75) và ra trại trễ nhất (11-2-92). Thân tàn lực kiệt ông sống thêm được 10 năm và mất tại Quận Cam năm 2002. Trước khi mất ông dồn sức cố viết một hồi ức về trận đánh Phan Rang và làm một điều chẳng ai bắt ông phải làm là tỏ lời cáo lỗi cùng đồng bào qua mấy dòng bi tráng, Tôi cảm nhận rất có tội với đồng bào, vì làm tướng mà không giữ được thành.
    Nói đến quân chủng Không Quân người ta nhắc nhiều đến những khuôn mặt vừa hào hoa vừa gan dạ, lấy không gian làm nhà, lấy nghiệp bay làm lẽ sống, và trong hàng tư lệnh mang sao đã có hai ông một thời làm tới phó tổng thống và một ông làm tư lệnh cảnh sát đã tự tay bắn chết tên VC trong Tết Mậu Thân (mà sau này hãng CNN đã chọn là một trong số 100 sự kiện nổi bật của… thế kỷ 20!).

    Nhưng dư luận và báo chí ít chú ý đến vị tướng gốc Nam bộ này, tên ông chỉ được nhắc khi được đề bạt làm tư lệnh một sư đoàn sau chót của Không Quân mới thành lập cuối năm 1972 nhằm yểm trợ cho chiến trường cao nguyên và trở thành bại tướng khi Phượng Hoàng (danh xưng chỉ huy của ông) gãy cánh tại Phan Rang hai tuần trước ngày mất nước.

    Ngược dòng tiểu sử ít ai biết Tướng Phạm Ngọc Sang, người đã có gần 25 năm quân vụ, nguyên xuất thân là một sĩ quan Bộ Binh (khóa 1 Thủ Đức), sau được tuyển sang Không Quân du học tại Pháp, trở thành một phi công chuyên lái vận tải. Nhờ tài năng và tác phong gương mẫu, ông được tin cậy và là một trong ba người được chọn lái riêng cho Tổng Thống Diệm. Sau 63 trả về Không Quân ông tiếp tục bay và có thời đã làm chỉ huy trưởng trung tâm đào tạo phi công tại Nha trang. Ông cũng là chánh võ phòng cho Tướng Kỳ khi ông này làm chủ tịch Ùy Ban Hành Pháp Trung Ương.
    Trước khi vào quân ngũ ông cũng từng là nhà giáo, có kiến thức văn hóa, song hành với nghiệp bay, ông là sĩ quan cấp tá duy nhất tốt nghiệp các khóa quân sự về chỉ huy tham mưu và quốc phòng nổi tiếng của Việt nam và Hoa Kỳ, đáng kể là khóa cao đẳng quốc phòng (VN), chỉ huy tham mưu cao cấp tại Leavenworth (Kansas) và quản trị quốc phòng tại trường đào tạo hậu đại học của Hải Quân Mỹ tại Monterey (California).

    Cứ dựa vào thâm niên và tài năng ông xứng đáng trở thành tư lệnh của quân chủng, nhưng vốn không có tham vọng, lại khiêm tốn, không phe cánh, mãi đến 1972 mới lên tư lệnh và được thăng một sao một năm trước ngày gãy cánh. Cũng năm này được tuyên dương trước toàn quân với Anh Dũng Bội Tinh kèm nhành dương liễu về công trạng yểm trợ không lực hữu hiệu cho chiến trường cao nguyên.

    Là người hay viết về chân dung tướng lãnh của Quân Lực VNCH khi các vị nằm xuống, tôi hụt viết về Chuẩn Tướng Sang khi ông từ giã bạn bè và người thân vì ngày ấy tôi chưa quay lại làng văn làng báo. Nhưng cũng may tôi có dịp gặp ông hai lần trớ trêu thay trong cùng cảnh tù của một trại giam hắc ám nhất miền Bắc, trại Nam Hà, rồi khi ra hải ngoại lại có dịp được biết thêm về ông qua các sĩ quan thuộc cấp đã gần gũi ông tại Pleiku và những tháng ngày cuối cùng trước ngày Sài Gòn tắt thở.

    Viết về ông hơi khó vì bản thân ông không thích người khác ca ngợi mình, lại càng kín tiếng vì không thích chuyện chính trị, ông là một mẫu quân nhân thuần túy, dù là một phi công mang tiếng hào hoa nhưng cá nhân lại hết mực nghiêm túc, trọng quân phong quân ký, có thể vì gốc nhà giáo và luôn tỏ ra gương mẫu trong nếp chỉ huy của quân trường, nơi một lần ông đã uốn nắn các sinh viên sĩ quan theo đuổi nghiệp bay cả về kỹ thuật lẫn tác phong.
    Tôi nhớ lần lén gặp ông trong khu biệt giam tướng lãnh, khó ai ngờ ông là tướng một sao, cảm tưởng nhìn ông cặm cụi tưới mảng rau thơm và rau cải để tự cải thiện trong một khu đất khép kín của trại tù, người ta hình dung giống như một ông giáo già người Nam bộ đang chăm sóc mảnh vườn nhà èo uột dưới quê.

    Nhưng bên trong con người này là một nhân cách đáng kính, lầm lì ít nói, ngay cả khi địch bắt cũng chẳng khai thác được gì, bảo lên đài nói để kêu gọi binh sĩ ta đầu hàng buông súng ông không chịu làm, bảo thành khẩn khai báo quá trình bản thân để sớm được tha ông vẫn an nhiên tự tại, ông không dại gì mà chống khi cánh bay đã gãy, nhưng phía cán bộ địch vận ở trung ương và quản lý trại giam nơi nhốt ông, họ biết người này khó mà chiêu hồi, cải tạo, có thể vì vậy mà khi trại giam tù cải tạo cuối cùng trên đất Bắc đóng cửa, người ta đem ông về Nam để nhốt thêm. Ông là người cuối cùng ra khỏi trại giam sau 17 năm, chính thức khai tử cái chính sách khoan hồng mà Cộng Sản rêu rao dành cho những kẻ cựu thù của chúng.

    Trở lại những ngày cao nguyên di tản, ông là nhân chứng đầu tiên ngoài Tướng Nguyễn Văn Phú, người nhận lệnh từ Tổng Thống Thiệu. Ông vẫn hận về cái lệnh quái đản bằng miệng từ người tổng tư lệnh cho một tư lệnh quân đoàn qua đường điện thoại (từ Khánh Hòa Nha Trang), áp đặt một quyết định sinh tử cho việc tháo lui bỏ ngỏ một vùng cao nguyên chiến lược mà chính người thi hành chỉ có không đầy… 72 tiếng đồng hồ để sắp xếp!
    Ông vẫn còn nhớ như in trong cuộc họp tham mưu tại văn phòng Tướng Phú, cú điện thoại gần như độc thoại từ đầu dây bên kia và phía đầu dây bên này chỉ có những độc âm… dạ, dạ, dạ,… rồi ngưng, không kịp để phát thêm một lời xin giải thích và nhu cầu thời gian cho một cuộc di tản chiến thuật vô tiền khoáng hậu. Mặt buồn như người đưa đám, người tư lệnh cấp cao hơn ông ra lệnh các đơn vị tự lo lấy phương tiện chuẩn bị băng qua con lộ 7, mà mấy ngày sau thành tử lộ trên đường rút về Tuy hòa, một thị trấn gần Nha Trang, nơi chưa đầy một tuần trước ông Thiệu và đoàn tùy tùng có cả đại tướng Cao Văn Viên đã có mặt tại đây.

    Chưa đầy một tháng sau, bản đồ miền Nam được vẽ lại, Phan Rang trở thành tuyến đầu của lãnh thổ Cộng Hòa. Tướng Thiệu cho gom góp các đơn vị vừa tản hàng sau cuộc di tản, từ cao nguyên đổ về, từ miền Trung dạt xuống, bằng mọi giá phải bảo vệ thị trấn này cũng là hometown của ông, không để cho Bắc Việt lấn chiếm thêm. Từ đây, Tướng Sang thêm một nhiệm vụ mới, làm phụ tá cho tướng ba sao Nguyễn Vĩnh Nghi, một cựu tư lệnh đồng bằng sông Cửu đang bị thất sủng nên chịu giữ chức tư lệnh tiền phương phòng thủ Phan Rang.

    Có một giai thoại là tại mặt trận tiền phương, Tướng Nghi đã chỉ định tướng Sang đặt bộ chỉ huy trên không để dề bề điều động phối hợp, nhưng ông đã nói đùa, tướng 3 sao dưới đất, tướng 1 sao trên trời coi sao tiện, ông đã xin cùng ngồi ở bộ chỉ huy đóng gần phi trường, để rồi cùng số phận ít ngày sau khi Phan Rang thất thủ cả hai ông trở thành tù binh có cấp bậc cao nhất bị bắt tại chiến trường. Một thuộc cấp cũng là bạn của tôi thuật lại nếu Phượng Hoàng cứ ở trên không thì chiếc vận tải biết đâu đã quay hướng Sài Gòn và số phận của mấy thầy trò đã có ngả rẽ khác.

    Viết lại về ông điều đáng nói không phải muốn đề cao một khuôn mặt từng được kính nể cả về tài năng lẫn phẩm chất, cái đáng phục dù không được nhắc nhớ như năm vị tướng đã chết theo thành, nhưng Phuợng Hoàng khi gãy cánh đã trả giá bằng những tháng năm tù đầy gian khổ qua các trại giam của kẻ thù từ Bắc vào Nam, rồi trước khi về cõi đã dũng cảm nhìn lại bằng tri nhớ của mình và nhờ các thuộc cấp bổ sung, ông đã viết được một tài liệu mang tính hồi ức thuật lại trận đánh Phan Rang mà những chi tiết có thể dùng làm tư liệu cho người viết quân sử.

    Theo dư luận chung ông chẳng có lỗi gì, trái lại đã làm hết sức mình trước tình hình vận nước đã đến hồi mạt vận, dù ông đã tự thân xin lỗi đồng bào vì đã để mất Phan Rang. Các đồng đội vẫn tự hào khi nhìn lại thấy Thầy mình sống chết có nhau, hơn nhiều kẻ chóp bu đã bỏ thành trước giờ tàn cuộc.
    Mọi sự đã thuộc về lịch sử, thắng thua để các người sau phân giải. Bên thắng cuộc họ mới kỷ niệm ầm ỹ 40 năm Sài gòn mất tên, nhưng cảnh đói nghèo tụt hậu vẫn còn là vết thương nhức nhối của một quê hương tan nát.

    Tôi mượn lời của các thuộc cấp trong lễ truy niệm với đầy đủ lễ nghi quân cách trong ngày tiễn ông ra đi, “Thôi thì, ân đất nước đã đền, nghĩa đồng bào đã trả, xin tướng quân thanh thản ra đi”. Chúng tôi, những người lính không cùng quân chủng, với lòng quý mến của các cựu tù xin Phượng Hoàng cứ yên nghỉ ngàn thu.
    Viết tại quận Cam
    Đỗ Xuân Tê


    Mặt Trận Phan Rang
    Nhớ lại suốt hạ tuần tháng 3 năm 1975, sau khi có lệnh bỏ Huế và Đà Nẳng, các đơn vị ta cứ lần lượt tháo lui, làm các tỉnh thành, quận lỵ phải rút theo, tạo ra cảnh đỗ vở tang thương cho không biết nhiêu gia đình quân nhân cũng như dân chính. Tốc độ rút lui nhanh hơn tốc độ truy đuổi. Các đơn vị VC đến tiếp thu, không bị đánh chận, nên cứ ung dung tiến văo thành phố đã bị bỏ ngỏ. Đến khi vào tiếp thu Nha Trang, chúng vẫn cứ tin rằng Phan Rang cũng đã bỏ chạy, nên tiếp tục cho các toán tiền thám cứ tiến vào. Ngạc nhiên, và cũng là lần đầu tiên bị ngăn chận trước khi đến Phan Rang, chúng bèn tháo lui về hướng Bắc, vào ẩn nấp trong vùng Ba Ngòi chờ viện binh. Mãi đến ngày 16.4.1975, khi tung ra toàn lực áp đảo, chúng mới vào được Phan Rang.
    Vào thời điểm các đại đơn vị ta rút lui, mà không có một sự kháng cự đáng kể nào để làm khó khăn và thiệt hại cho đối phương, thì căn cứ Phan Rang đã anh dũng chống cự, và đã làm thiệt hại đáng kể cho quân đội chánh quy Bắc Việt. Chiến trận tại Phan Rang có thể chia ra làm 3 giai đoạn:
    Giai đoạn thứ nhứt: Từ ngày 1 đến 3.4.1975, là giai đoạn hình thành tuyến phòng thủ, với Sư Đoàn 6 Không Quân và Tiểu Đoàn 5 Dù thuộc Lữ Đoàn 3 Dù cùng một số đơn vị Địa Phương Quân còn lại.

    Sư Đoàn 6 Không Quân gồm:
    – 3 Phi Đoàn A-37: 524, 534, 548
    – 1 Phi Đội A-1
    – 2 phi đội tản thuơng: 259 B và 259 C
    – 2 phi đoàn trực thăng: 229 và 235
    Lữ Đoàn 3 Dù gồm:
    – Bộ Chỉ Huy
    – Tiểu Đoàn 5
    Giai đoạn thứ hai: Từ ngày 4 đến 12.4.1975, là giai đoạn củng cố tuyến phòng thủ, với sự thành lập Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn 3, với Lữ Đoàn 2 Dù. Đây là thời gian đem đến ít nhiều lạc quan trong việc ổn định tình hình sau nhiều ngày xáo trộn. Một số đơn vị nhỏ của địch đã hoàn toàn bị đẩy lui khỏi đèo Du Long rút về ém quân tại khu Vườn Dừa, Cam Lâm đợi tăng viện.
    Lữ Đoàn 2 Dù gồm:
    – 3 Tiểu Đoàn 3, 7, 11
    – 1 Tiểu Đoàn Pháo Binh
    – Các đại đội Trinh Sát, Công Binh, Quân Y, Truyền Tin, Yểm Trợ Tiếp Vận
    Giai đoạn thứ ba: Từ 13 đến 16,4.1975, là giai đoạn của trận chiến quyết định, với các đơn vị gồm:
    Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân gồm:
    – 3 Tiểu Đoàn 31, 36 và 52.
    Tăng cường cho Bộ Tư Lệnh Tiền Phương:
    – Toán Thám Sát / Nha Kỹ Thuật
    Sư Đoàn 2 Bộ Binh gồm:
    – 2 Trung Đoàn 4 và 5
    – 2 pháo đội gồm 10 khẩu 105 ly
    – 2 chi đội Thiết Vận Xa gồm 10 chiếc
    Lực lượng Hải Quân gồm:
    – Duyên Đoàn 27
    – 2 khu trục hạm
    – 1 giang pháo hạm
    – 1 hải vận hạm và một số tàu yểm trợ

    Trong 2 ngày 13 và 14, Lữ Đoàn 2 Dù được lịnh rút về Sài Gòn. Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân và Sư Đoàn 2 Bộ Binh ra thay. Vừa thay quân vừa chiến đấu, và phòng tuyến Phan Rang bị tràn ngập vào trưa ngày 16.4.1975, bởi 2 Sư Đoàn VC 325 và 3 Sao vàng, cùng với các đơn vị của Đoàn 968 VC. Trong ngày 14.4.1975, ngoài Duyên Đoàn 27 đã có mặt tại Phan Rang, Hải Quân Sài Gòn tăng cường khẩn cấp 2 khu trục hạm, 1 giang pháo hạm, 1 hải vận hạm cùng một số tàu yểm trợ.

    Lực lượng địch:
    Theo tù binh thuộc Đoàn Hậu Cần 57 địch bị bắt tại đèo Du Long ngày 9.4.1975, các cấp chỉ huy địch ngở Phan Rang đã bỏ chạy, nên tiếp tục cho các bộ phận truy đuổi, cứ yên tâm tiến vào tiếp thu. Bị đánh đuổi, chúng lui về lẫn trốn vùng Vườn Dừa, Ba Ngòi chờ đại quân của 2 Sư Đoàn 3 và 325 VC từ phía Bắc đến. Các nhóm du kích vẫn hoạt động gần phi trường. Đoàn 968 VC vừa ghi nhận có mặt. (xác nhận bởi Đại Tá Nguyễn Thu Lương và Trung Tá Phạm Bá Mạo khi bị đơn vị nầy bắt tại mặt trận).

    I. HÌNH THÀNH TUYẾN PHÒNG THỦ

    Kể từ ngày 1.4.1975, sau khi Nha Trang bỏ ngỏ, căn cứ Phan Rang đương nhiên trở thành căn cứ tiền tuyến của miền Nam. Buổi tối cùng ngày, Trung Tá Lê Văn Phát, lử đoàn trưởng Lử Đoàn 3 Dù cùng Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn và một phần của Tiểu Đoàn 5, trên đường rút từ Khánh Dương xin vào để chờ phi cơ về Sài Gòn. Căn cứ tôi lúc bấy giờ rất là trống trải, vì một số lớn quân nhân Địa Phương Quân canh gác vòng đai đã bỏ nhiệm vụ. Trong căn cứ, một số quân nhân trẻ nổ súng loạn xạ vì lo sợ vu vơ. Ngoài thị xả, tỉnh trưởng đã rời nhiệm sở, dân chúng thì ngơ ngác, phân vân. Trên quốc lộ 1 và 11 hướng về Sài Gòn, từng đoàn xe dân sự và quân sự chật nứt người rầm rộ tiếp nối nhau chạy giặc. Tệ hại hơn nửa là Đà Lạt cũng bỏ chạy, và đoàn xe của Trường Võ Bị Đà Lạt đang theo Quốc Lộ 11 trên đường đi Bình Tuy cũng vừa chạy ngang căn cứ. Lúc nầy thực sự, căn cứ tôi đang trở thành tiền đồn và đang ở trong tình trạng hết sức cô đơn.

    Chuẩn bị tìm phương kế giữ an toàn, tôi chỉ thị hạn chế sự ra vào căn cứ để tránh xáo trộn do toán người tháo chạy mang đến. Vì vậy nên khi nghe có đơn vị Dù xin vào căn cứ, tôi liền hỏi xin lệnh Bộ Tư Lệnh Không Quân. Được biết đó là do Bộ Tư Lệnh Dù yêu cầu để Lử Đoăn III được văo căn cứ như đơn vị tăng phái phối hợp phòng thủ, tôi mới thuận cho đoàn quân của Trung Tá Phát vào phi trường. Thật là đúng lúc cần thiết và tôi rất bằng lòng có thêm người để giử an toàn cho căn cứ hiện trong tình trạng bỏ ngỏ. Tôi phối họp ngay với Trung Tá Phát để phối trí việc phòng thủ căn cứ với Không Đoàn Yểm Cứ của Trung Tá Phạm Bá Mạo và Trung tá Nguyễn Văn Thiệt vì căn cứ mênh mông với vòng đai hình vuông mỗi cạnh 6 km, mà Liên Đoàn Phòng Thủ chỉ có khả năng phụ trách canh gác vòng đai gần mà thôi. Dù muốn dù không, căn cứ Không Quân Phan Rang đã trở thành tiền đồn của miền Nam mà tôi đang là người có nhiệm vụ phải chống giữ. Tôi chỉ thị Trung Tá Diệp Ngọc Châu phụ tá Nhân Huấn phải theo dỏi sát vấn đề nhân viên, để đừng xảy ra tình trạng bung chạy, vì quá hoang mang, giao động trước việc, có thể chiến đấu như bộ binh.
    Trung Tá Phát xử dụng Đại Đội Trinh Sát Dù, bung ra kiểm tra nội vi căn cứ và đánh đuổi một vài tên du kích mon men vào Đồn Đại Hàn gần cổng số 2 của căn cứ. Về phần Không Quân, câc cấp phi hành và kỷ thuật đê am hiểu tình hình mới, chấp nhận thực trạng và hết mình nổ lực chiến đấu vì nhu cầu phòng thủ.

    Vào buổi chiều, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân Đoàn 2 ghé căn cứ thăm hỏi tình hình. Sáng hôm sau, rời căn cứ bay về Sài Gòn.
    Ngày 2.4.1975, Sài Gòn tăng cường một đơn vị Dù. Trung Tá Phát liền xử dụng để kiện toàn an ninh cho phi trường và phối hợp với các đơn vị Địa phương quân trong việc giữ an ninh cho thị xả.

    Lúc 2 giờ chiều, tôi bay xuống Phan Thiết đón Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn tư lệnh Quân Đoàn 3. Khi gặp tôi, ông nói sở dĩ muốn gặp tôi tại Phan Thiết là để xác nhận sự hiện hữu của Phan Rang, mà giờ nầy lẻ ra cũng đã bỏ chạy như Nha Trang và Cam Ranh rồi. Sau khi nghe tôi thuyết trình tình hình, Trung Tướng Toàn nói: ”Kể từ buổi thị sát nầy, Phan Rang sát nhập vào Quân Đoàn III, trở thành cứ điểm cực Bắc của quân đoàn.”
    Cùng ngày tôi nhận được lệnh Bộ Tổng Tham Mưu chỉ định tôi phụ trách bảo vệ Phan Rang.

    Ngày 3.4.1975, TĐ5 Dù để tạm kiểm soát các khu vực cạnh thị xã và nội vi phi trường.. Từ Ba Râu đến Thị xã, dân chúng bớt hoảng sợ mặc dầu sanh hoạt vẫn còn rụt rè. Trong căn cứ Không Đoàn Yểm Cứ đã chấn chỉnh an ninh nội bộ khiến cho căn cứ lần lần lấy lại sanh hoạt bình thường.
    Đại Tá Lê Văn Thảo Không đoàn trưởng Không Đoàn 92 Chiến Thuật với 3 phi đoàn A-37, 524 Thiên Lôi, 534 Kim Ngưu và 548 Ó Đen đã sát cánh cùng đoàn viên xuất kích đêm ngày rất hữu hiệu.

    Trung Tá Lê Văn Bút không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật với 2 phi đoàn trực thăng 229 và 235, 1 Phi Đoàn Quan Sát 118 và một bộ phận của Phi đD9àn 530 A-1 với Phi đội tản thương 259 C, đã bay thi hành nhiều công tác khó khăn nguy hiễm.
    Trung Tá Đổ hữu Sung và đoàn kỹ thuật gan dạ, chu toàn mọi công tác sửa chửa và trang bị dưới làn pháo kích ngày đêm của địch.
    Theo tin tức của các quân nhân ta từ các nơi ghé xin phương tiện về Sài Gòn, thì VC đang xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ngòi. Tôi liền cho phi cơ quan sát bao vùng và chỉ điểm cho phi cơ A-37 đánh phá.

    Cộng thêm các khó khăn, việc tiếp tế nhiên liệu đang gặp trở ngại vì xe bồn không cung cấp như bình thường, bởi cảng Cam Ranh đã bị địch chiếm. Vì vậy hàng ngày, tôi phải nhận tiếp tế từ Saigon bằng phi cơ C-130, một số lượng nhiên liệu tối thiểu cho hành quân mà thôi.
    Để tránh hổn loạn khi bị pháo kích dồn dập, tôi cũng phải cho nửa số phi cơ về trú đêm ở Saigon, để sáng hôm sau trở ra với đầy nhiên liệu.
    Trong ngày, khi biết có tàu Mỹ đang lảng vảng ngoài vịnh Phan Rang để chở một số người, tôi liền cử Trung Tá Lý Văn Bút dùng trực thăng đáp trên một trong những tàu đó để chào hỏi và cho biết hiện tình ở Phan Rang. Tiếp đón và trả lời những điều muốn biết trong lối 1/2 giờ, hạm trưởng thúc giục Trung Tá Bút rời tàu. Xuyên qua lời trình thuật của Trung Tá Bút, tôi đê hiểu rỏ ràng là trong cấp thời, Mỹ không còn có ý định dính líu gì nửa đến cuộc chiến đang diễn tiến hiện nay.

    II – BỘ TƯ LỆNH TIỀN PHƯƠNG

    Phan Rang nằm vào phía Nam của một thung lủng hẹp bao bọc bởi các dải núi về hướng Tây, Bắc và Đông Bắc, có các cao điểm và đèo Du Long rất thuận tiện cho việc phòng ngự. Ngày đêm phi cơ trong căn cứ liên tục quan sát bao vùng và oanh tạc ngay các mục tiêu bị phát hiện. Các đơn vị VC đã tiến quá xa với hậu tuyến của họ. Họ chỉ mới tiếp thu Nha Trang và Cam Ranh. Với mức độ hành quân 10 cây số ngày hoặc gia tăng với phương tiện chiếm được thì không thể tập trung tấn công ngay được. Có thể có những phần tử lẻ tẻ đã xâm nhập và đang ém quân, nhưng ngoài ra Phan Rang chưa có nguy cơ bị tấn công ngay bởi quân chánh quy. Muốn tấn công, có thể chỉ có từ 2 hướng: Một là từ hướng Bắc, theo QL 1 tiến qua đèo Du Long thẳng vào thị xả và hai là từ hướng Tây tấn công từ Khrông Pha qua Tân Mỹ hướng về thị xả Phan Rang. Ngoài ra còn có một ít đường mòn từ Vườn Dừa, Ba Ngòi chạy theo hướng Nam Tây Nam sát căn cứ KQ hướng về Tân Mỹ có thể chọn để xâm nhập được. Trong lần bay quan sát chiều ngày 14.4.75, tôi thấy một vài thiết vận xa địch trên những đường mòn nầy vào hướng Tây Bắc của căn cứ, cách khoảng 8 km. (Đương nhiên, khi bị phát hiện, chúng đều lẫn trốn trước khi bị oanh tạc).

    Thị xã và Phi trường Phan Rang nằm vào phần Nam của cái thung lũng đó. Quốc lộ 1 và đường xe lửa chạy song song xuyên qua đèo Du long về thị xả, tách ra tại Thôn Ba Râu, chạy sát phi trường rồi tiến về Nam không qua thị xã. Từ thị xã đến Du Long khoảng 15 km với Ba Râu khoảng 9 km và với Că Đú khoảng 4 km. Từ Cà Đú đến thị xã, mặt đất bằng phẳng.

    Phi trường Phan Rang rất rộng, hình vuông, mỗi cạnh trên dưới 6 km, nằm giữa QL 1 và QL 11 và sát với đường xe lửa về hướng Đông, cách thị xả 5km và Nha Trang khoảng 80km. Có 2 đường bay song song, 1 bằng xi măng cốt sắt vă 1 bằng vĩ nhôm dài 10.000 bộ, rộng 150 bộ. Có đầy đủ cơ sở cho kỷ thuật, tiếp liệu với các bồn xăng và kho bom theo tiêu chuẩn an ninh tối tân. Việc phòng thủ bao gồm 60 chòi gác, với 2 cổng chung quanh căn cứ do 7 đại đội Địa Phương Quân phụ trâch.

    Ngày 4.4.1975, Trung Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi chánh thức đến Phan Rang cùng với toán truyền tin và chuyên viên, nhận trách nhiệm phòng thủ Phan Rang, và thiết lập Bộ Chỉ Huy Tiền Phương trong căn cứ của Sư Đoàn 6 Không Quân, nằm vào lối 5km Bắc Tây Bắc của thị xã Phan Rang. Ông cho biết là đã được thượng cấp chấp thuận gởi ra một số đơn vị chưa bị ảnh hưởng của việc rút quân để giữ Phan Rang. Bởi tin tưởng vào lời hứa hẹn nầy, nên Ông rất vui lòng đảm nhận chức vụ.

    Vì địa thế của Phan Rang có nhiều thuận lợi cho việc phòng thủ, nên Trung Tướng Nghi quan niệm:
    “Phải chống giữ mặt Bắc từ Quận Du Long, mặt Tây từ Quận Tân Mỹ và phải giữ an toàn cho căn cứ Không quân, cũng như giữ an ninh cho Thị xả phối họp với một số đơn vị Địa Phương Quân còn lại”
    Theo quan niệm đó, Trung Tướng Nghi thảo ra kế hoạch phòng thủ Phan Rang với một lực lượng cở 2 sư đoàn mới có thể trong tạm thời phòng thủ được. Đó là:

    Mặt Bắc, trên Quốc Lộ 1 trấn giữ các điểm cao tại đèo Du long với một dải chiến tuyến hùng hậu tại Du Long cùng các tuyến phụ tại Ba Râu và Ba Tháp để ngăn chận mọi cuộc tấn công hướng vào thị xả hoặc vào căn cứ.
    Mặt phía Tây, trín Quốc Lộ 11, án ngữ tại vùng Tân Mỹ, một chiến tuyến để chận địch và bảo vệ mặt Tây và Nam của phi trường.
    Bảo vệ an ninh cho thị xả và phi trường do các đơn vị chánh quy phối hợp với Địa Phương Quân phụ trách.
    Ngày 5.4.1975. Trong ngày, thỉnh thoảng vẫn có vài quân nhân Không Quân thất lạc trình diện xin phương tiện về Sài Gòn và luôn xác nhận là vẫn có một số VC xuất hiện ở Vườn Dừa, Ba Ngòi. Chúng nói vì có quân Dù của ta ở phía trước nên chúng còn nấp chờ chi viện.
    Ngoài ra Tướng Times, phụ trách an ninh cho Tòa Đại Sứ Mỹ, đến thăm và nói sẽ sắp xếp cho người của ông thường xuyên ở lại đây, để chuyển tin ngay về tòa đại sứ.

    Trong mấy ngày qua, tôi đã điều hành công việc như là cấp có trách nhiệm ở Phan Rang, ngoài trách vụ chuyên môn là phụ trách Sư Đoàn 6 Không Quân. Vô tình tôi đã biến căn cứ Không Quân Phan Rang thành một cứ điểm phòng thủ tiền tiêu của cuộc chiến tranh rất phức tạp nầy.
    Ngày 6.4.1975, trong ngày, sinh hoạt trong căn cứ Không Quân đã có sự bình thường và các phi vụ đều được thi hành như thông lệ. Thêm một số quân nhân của 7 đại đội Địa Phương Quân phụ trách canh gác vòng ngoài phi trường tiếp tục trở về.
    Quân địch sau khi chiếm Nha Trang, liền vội vã đến tiếp thu Cam Ranh. Toán viễn thám của họ theo đă chạy tiếp thu, có thể đã xâm nhập từ Vườn Dừa, Ba Ngòi, qua đồi Du Long, xuống về phía Nam. Các Sư đoăn xâm nhập chưa thấy xuất hiện. Chỉ biết có đơn vị F-10 hoặc 968 đang lẫn núp xâm nhập lẻ tẻ.

    Ngày 7.4.1975 là ngày đáng ghi nhớ.
    ĐạiTtá Trần Văn Tự, tỉnh trưởng Phan Rang, vừa trở về với một số công chức, và đang tập họp các lính Địa Phương Quân và Nghĩa Quân.
    Đại Tá Nguyễn Thu Lương, lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn 2 Dù, với 3 Tiểu Đoàn 3, 7, 11 và 1 tiểu đoăn Pháo Binh cùng các Đại đội Trinh sát, Công binh, Quân y, Truyền tin, Yểm trợ Tiếp vận lần lượt đến căn cứ. Trung Tướng Nghi liền giao cho nhiệm vụ chiếm các cao điểm và tổ chức tuyến phòng thủ tại Du Long mặt Bắc và tại Tân Mỹ mặt Tây. Tập trung lực lượng khi cần để chận không cho địch vượt qua Du Long.. Xử dụng Tiểu Đoàn 5 Dù của Trung Tá Phát hiện có mặt tại căn cứ giữ an ninh cho phi trường.

    Ngày 8.4.1975, khi đơn vị cuối cùng của Lữ Đoàn 2 Dù đến căn cứ, Đại Tá Lương liền điều dộng giải tỏa đoạn Quốc Lộ 1, từ thị xã đến Du Long, qua các Thôn Cá Đú, Ba Tháp, Ba Râu và Du long, với 2 Tiểu Đoàn 11 và Tiểu Đoàn 3. Trên đường tiến quân, Tiểu Đoàn 3 Dù đuổi địch chạy tán loạn khỏi Ba Tháp và Ba Râu. Địch tổn thất khoảng một đại đội với nhiều vũ khí. Tiểu Đoàn 11 được trực thăng của Sư Đoàn 6 Không Quân, đưa đến chiếm Du Long, và các cao địa trọng yếu kiểm soát đường đỉ Du Long.

    Bắt sống tại đèo Du Long, 7 xe tiếp tế thuộc đoàn hậu cần địch cùng một số quân lính VC, vì ngở Phan Rang đã bị chúng chiếm, nên cứ ngang nhiên di chuyển. Đồng thời, tìm thấy bộ đồ bay của Trung Úy Lý Tống, thuộc Không Đoàn 92 Chiến Thuật/ Sư Đoàn 6 Không Quân, còn để tại vùng đèo Du Long, khi phi cơ A-37 của mình vừa bị bắn rơi, lúc cùng phi đội oanh tạc khu Vườn Dừa. (Trung Úy Lý Tống là người đã thả truyền đơn chống Cộng tại Sài Gòn năm 1992, tại Cuba trong năm 2000 và tại Sài Gòn cuối năm 2000, nhân dịp Tổng Thống Bill Clinton đến thăm Việt Nam.)
    Tại phía Tây, phần lớn của Tiểu Đoàn 5 Dù đã trấn ngữ đầu cầu hướng về Tân Mỹ, ngừa được sự tấn chiếm từ hướng nầy. Trong căn cứ, toán Trinh sât Dù cũng lại đuổi khỏi đồn Đại Hàn một số quân nhân địch vừa lén lút xâm nhập. Tiểu Đoàn 7 trừ bị giám sát việc giữ an ninh trong căn cứ Không Quân với Tiểu D8oàn 5 của Lữ Đoàn 3 Dù. Kết quả là trong ngày nầy, Phan Rang đã hoàn toàn kiểm soát được tình hình vốn bị trì trệ từ khi Nha Trang và Cam Ranh tháo chạy.

    Buổi sáng, lúc Trung Úy Nguyễn thành Trung vừa oanh tạc Dinh Độc Lập, thì Bộ Tư Lệnh Không Quân bảo tôi phải cho ngăn cản và bắt đáp, nếu Trung bay qua Phan Rang. Lệnh đã được cấp tốc thi hành, và Trung đã không bay qua đây.
    Đặc biệt cha giáo sứ Hồ Diêm, với niềm phấn khởi, đến thăm Trung Tướng Nghi để hoan nghênh quân Dù đã giải tỏa được Phan Rang. Điểm đáng đề cao là chính Cha, cùng với lực lượng Nghĩa Quân và Nhân Dân Tự Vệ của giáo sứ, đã thành công bảo vệ địa phận mình chống lại các cố gắng len lỏi xâm nhập của địch.

    Ngày 9.4.1975, Trung Tá Lê Văn Bút, không đoàn trưởng Không Đoàn 72 Chiến Thuật, bay chỉ huy 40 trực thăng HU với 12 trực thăng Võ trang cơ hữu cùng 8 trực thăng Chinook từ Biên Hòa biệt phái. Mục đích là để lên Khánh Dương tìm kiếm và chở về các toán còn kẹt lại của Lữ Đoàn 3 Dù, gồm 2 Tiểu Đoàn 2 và 6 cùng một số quân của Tiểu Đoàn 5, lúc Nha Trang rút chạy. Cùng đi có Trung Tá Trần Đăng Khôi, lữ đoàn phó Lữ Đoàn 3 Dù phụ giúp tìm kiếm, chọn bãi đáp để rước toán thất lạc nầy trở về. Bấy giờ khu vực Khánh Dương đa trở thành vùng địch kiểm soât, nên tôi cho bay theo 2 phi đội A-37 yểm trợ. Kết quả là đoàn trực thăng đã mang về đến căn cứ Phan Rang, hơn 600 người mà phần lớn lă quân nhân của các Tiểu Đoàn 2 và 6, cùng một số thất lạc của Tiểu Đoàn 5 với một số ít dân sự chạy loạn đi theo. Toán nầy vào buổi chiều được chở toàn bộ vào Sài Gòn. Cuộc hành quân trực thăng vận thành công tốt đẹp, đem về được số quân nhân thất lạc của Lữ đoàn 3 Dù. Thật đúng là một chuyến bốc quân lịch sử. Đoàn trực thăng 60 chiếc đã phải bay qua vùng địch chiếm với mọi hiểm nguy và bất trắc khôn lường.
    Trong thị xã, Đại Tá Trần Văn Tự tỉnh trưởng tiếp tục chấn chỉnh các phần vụ hành chánh, đồng thời lo chỉnh đốn hàng ngũ các đơn vị Địa Phương Quân. Ngoài thị xã, dân chúng hãy còn e dè ở lại, nhưng không tuôn chạy nhiều như những ngày trước. Cuộc sống có chỉ dấu trở lại bình thường, tạo nhiều phấn khởi.

    Các ngày 10 và 11. 4.1975 có được sự yên tĩnh trong toàn bộ vùng Phan Rang. Bộ Tư Lệnh Tiền Phương đang trù tính kế hoạch chiếm lại Cam Ranh để sau đó lấy lại Nha Trang. Địch sau khi bị đuổi khỏi các địa điểm xâm nhập đang tập trung ém quân tại vùng Vườn Dừa ở Cam Lâm chờ đợi viện quân.
    Ngày 12.4.75 là ngày khởi đầu có bất trắc trong việc phòng thủ Phan Rang.

    Lệnh từ Quân Đoàn III cho biết sẽ rút Lữ Đoàn 2 Dù và Tiểu Đoàn 5 Dù vào ngày 13.4.1975, và thay bằng Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân với 3 tiểu đoàn, và Sư Đoàn 2 Bộ Binh với 2 trung đoàn, cùng 2 chi đội Pháo và chi đội Thiết Vận Xa.
    Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân vừa rút khỏi Chơn Thành, sau nhiều ngày tác chiến gian khổ với nhiều tổn thất, chưa kịp nghĩ dưỡng quân, thì được tung ra tiền tuyến với quân số thiếu thốn trầm trọng.

    Sư Đoàn 2 Bộ Binh cũng vừa tháo chạy từ Quảng Ngải, vừa tập trung tại Bình Tuy và đang được bổ sung quân số thì được lịnh phải ra Phan Rang, trong khi cả đơn vị hảy còn hoang mang, dao động. Vì chưa kịp bổ sung thiết bị, đơn vị nầy phải thu lượm một số pháo và thiết vận xa để mang theo cùng với các trung đoàn ra Phan Rang bằng đường bộ.
    Bộ Tổng Tham Mưu Phòng 7 vừa bổ sung toán thám sát, vì kiểm thính phát hiện rộ lên nhiều liên lạc vô tuyến của các đơn vị địch xung quanh Phan Rang.
    Chuẩn Tướng Lê Quang Lưởng tư lệnh Sư Đoàn Dù và Trung Tướng Trần Văn Minh tư lệnh Không Quân, cùng đến thám sát công cuộc phòng thủ. Cả hai vị đều tỏ ý bất đồng về việc điều quân nầy. Trung Tướng Minh nói để căn cứ Không Auân làm tiền đồn là sai lầm, vì khi hữu sự dưới lằn đạn pháo thì không thể sửa chửa, trang bị cho phi cơ có khả năng hành quân như yêu cầu được. Chuẩn Tướng Lưỡng cũng nói, muốn giữ Phan Rang làm bàn đạp để lấy lại Cam Ranh và Nha Trang, tại sao lại rút đơn vị đang chiến đấu tốt mà thay bằng 2 đơn vị đã từng vội vã rút quân vă còn đang chờ đợi bổ sung quân số.
    Trung Tướng Nghi cũng bất ngờ vì không có được những đơn vị như đã hứa trước lúc ra nhận trách nhiệm phòng thủ Phan Rang.

    III. TRẬN CHIẾN QUYẾT ĐỊNH
    Ngày 13.4.1975 là ngày đánh dấu nhiều việc không may xảy đến cho tuyến phòng thủ Phan Rang.
    Trong ngày, liên tục toán kiểm thính Phòng 7 Tổng Tham mưu cáo có sự hoạt động bất thường của các đơn vị Sư Đoàn 325 và Sư Đoàn 3 Bắc Việt.
    Tướng Times của Tòa Đại Sứ Mỹ hấp tấp bay đến, dẫn theo Ông Lewis, chuyên viên truyền tin, để chuyển về Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ mọi biến chuyển mới nhứt của mặt trận. Ông Lewis ở lại, rất tích cực làm việc và rất bình tĩnh lúc địch dồn dập tấn công.
    Sau mấy ngày ém quân, địch bắt đầu chuyển quân từ khu ém quân và khởi sự pháo kích văo căn cứ Không Quân. Các đơn vị địch đang tìm cách tấn công các điểm cao ở vùng đồ Du Long và phía Đông Ba Râu. Đơn vị địch 968 cũng bắt đầu xâm nhập lẻ tẻ từ phía Tây của căn cứ không quân, phối họp với từng đợt pháo kích.
    Tiếc thay, trong tình thế như vậy mà cơ cấu phòng thủ phải thi hành lệnh thay quân đang chiến đấu tốt, bằng 2 đơn vị vừa mới được bổ sung sau khi bị tổn thất nhiều về trang bị và tinh thần.

    Trong khi bộ phận lớn của Lữ Đoàn 2 Dù, gồm Tiểu Đoàn 7 với các bộ phần nặng và Tiểu Đoàn 5 của Lữ Đoàn 3 Dù rời căn cứ, thì Đại Tá Nguyễn Văn Biết, chỉ huy trưởng Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân và 3 Tiểu Đoàn 31, 36 và 52 cũng vừa từ Biên Hòa tới bằng phi cơ C-130. Quân số liên đoàn gồm khoảng 1.000 người. Các đơn vị liền vội vã đến trám vào các địa điểm đóng quân của Tiểu Đoàn 11 Dù tại Du Long và Ba Râu. Tiểu Đoàn 31 trám tại Du long, Tiểu Đoàn 36 trám từ Ba Râu đến Cá Đú và Tiểu Đoàn 52 làm trừ bị. Đang thay quân thì chạm súng với các toán thăm dò của địch.
    Cùng lúc, Trung Đoàn 4 của Sư Đoàn 2 Bộ Binh, quân số khoảng 450 người, từ Bình Tuy theo đường bộ cũng vừa tới, và được giao trách nhiệm trấn giữ mặt Tây căn cứ và bảo vệ phi trường thay cho Tiểu Đoàn 5 Dù vừa rời căn cứ.

    Theo khuyến cáo của Bộ Tư Lệnh Không Quân, Đại Tá Nguyễn Đình Giao, tham mưu trưởng Sư Đoàn 6 Không Quân được nhiệm vụ cùng các chuyên viên về Tân Sơn Nhất để phụ lo việc quân số và tiếp liệu cho sư đoàn.
    Ngày 14.4.1975, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt, tư lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh, cùng Trung Đoàn 5 vừa đến với khoảng 450 quân, được giao nhiệm vụ bảo vệ mặt Nam căn cứ và phi trường vì Lữ Đoàn 2 Dù đã hết nhiệm vụ và đã bàn giao với Trung Đoàn 4 hôm qua. Lực lượng Pháo Binh chỉ có 1 pháo đội 105 ly hiện diện tăng phái cho tiểu khu trong đó có một trung đội đóng tại An Phước, phía Nam phi trường lối 10 km.
    Thị xả được phòng vệ bởi khoảng 1 tiểu đoàn Địa Phương Quân còn lại. Cùng lúc, Chuẩn Tướng Trần Văn Nhựt, theo lệnh, đề cử Đại Tá Trương Đăng Liêm trung đoàn trưởng Trung Đoàn 4 giử chức vụ tỉnh thưởng thay Đại Tá Trần Văn Tự.
    Cũng để dự phòng cho những ngày tác chiến sắp tới, Bộ Tư Lệnh Không Quân cũng vừa gởi đến, một phi cơ C-47 để tăng cường phương tiện hành quân cho Bộ Tư Lệnh Hành Quân.

    Bên ngoài căn cứ, từ sáng sớm, địch lần lượt tung vài đơn vị cấp đại đội từ khu ém quân, đánh thăm dò cơ cấu phòng thủ tại Du Long và Ba Râu. Một trong các đơn vị nầy đã xâm nhập được vào cổng số 2 phi trường về phía Bắc, lúc mờ sáng. Phi cơ trực thăng tuần tiểu phát hiện, và cùng với trực thăng võ trang, yểm trợ cho một bộ phận của Tiểu Đoàn 11 Dù đang chờ phi cơ về hậu tuyến, được gởi ra tiêu diệt toán xâm nhập nầy. Kết quả địch rút chạy, bỏ lại gần 100 tên bị hạ với khoảng 80 vũ khí đủ loại, trong đó có 2 súng cối 82 ly và 2 khẩu đại bác không giựt 75 ly. Ta chỉ có 6 chiến sĩ hy sinh và 1 thiết vận xa phòng thủ phi trường bị chây. Trung Tướng Nghi tưởng thưởng ngay huy chương Anh Dũng Bội Tinh cho các quân nhân hữu công.
    Khoảng trưa, Tướng Nghi và tôi cùng Đại Tá Lương chạy xe thong thả từ phi trường đến Ba Tháp, Ba Râu và Du Long thị sát công việc phòng thủ. Tại Du Long Tướng Nghi có tập họp và trấn an số Nghĩa Quân có mặt tại đây.

    Tóm lại, mặc dầu hôm nay có các cuộc đánh thăm dò của địch, mặt trận vẫn đứng vững như những ngày qua.
    Ngày 15.4.1975 từ sáng sớm địch liên tục pháo từng chập văo căn cứ. Buổi chiều khoảng 2 giờ, có phái đoàn của Trung tướng Trần Văn Đôn Tổng trưởng Quốc phòng và Trung Tướng Nguyễn Văn Toăn tư lệnh Quân đoàn 3 đến thị sát mặt trận. Sau khi thăm thị xả, nghe Tướng Nghi thuyết trình tình hình và ghi nhận các đề nghị, trung tướng tổng trưởng quốc phòng tỏ vẻ chú trọng đến việc phòng thủ Phan Rang và hứa sẽ tìm mọi cách bổ sung đầy đủ mọi trang thiết bị thiếu hụt.

    Từ chiều trở đi, Trung Tướng Nghi liên tiếp nhận được tin địch sẽ tập trung tấn công đêm nay. Một trong những công điện của Bộ chỉ huy địch với danh hiệu Sông Hồng, đóng tại Ba Râu, cho hay địch sẽ tấn công vào Phan Rang lúc 5 giờ sáng. Tiến quân theo đường rầy xe lửa cùng với 300 chiến xa, theo Quốc Lộ 1 phát xuất từ rừng dừa ở Ba Ngòi. Biết ý định của địch, Trung Tướng Nghi báo động ngay mọi nơi đề phòng, đặc biệt là Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân có nhiệm vụ án ngữ ở Du Long.

    Quả nhiên, sau 8 giờ tối địch gia tăng cường độ pháo vào phi trường, đồng thời cho di chuyển suốt đêm rất nhiều đoàn xe chở bộ binh, thiết giáp, pháo binh v.v…Chúng vượt đồi Du Long, chủ yếu chỉ để tràn qua phòng tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 31 Biệt Động Quân mà tiến nhanh về hướng Nam. Tiểu Đoàn 31 đã ở tại chổ chiến đấu gan dạ mặc dầu đoàn xe địch vượt được qua. Tại Ba Râu, Ba Tháp và Cá Đú, từ địa điểm đóng quân chờ di chuyển về hậu cứ, từ 2 giờ sáng trở đi, Tiểu Đoàn 11 Dù trừ và Tiểu Đoàn 3 Dù, cùng với Tiểu Đoàn 36 Biệt Động Quân vừa trám chổ, chạm địch ác liệt, làm chậm sức tấn công ồ ạt của đoàn cơ giới địch. Liên tục bị oanh kích, chúng tẻ xuống đường, tắt đèn và lại tiến tới. Phi cơ A-37 không ngớt tung xuống đợt oanh tạc ngăn chăn, nhưng vì không đủ phương tiện soi sáng và hỏa long, nên chúng vẫn tràn qua, sau khi bị tổn thất khá nặng nề. Bên ta có 4 A-37 bị bắn bể bình xăng phải về đáp. Trận nầy Không Đoàn 92/Chiến Thuật đã tung toàn lực phi cơ cơ hữu kể cả 4 A-1 của Phi Đoàn 530.
    Tôi cùng Trung Tá Lưu đức Thanh phụ tá hành quân Sư Đoàn 6 Không Quân đích thân theo dỏi trận đánh suốt đêm. Chúng tôi liên tục đốc thúc phần tham gia của Không Quân, kể từ lúc các đơn vị bộ binh chạm súng, liên tục báo cáo địch đang xử dụng hàng đoàn xe để đến sáng chạy từ Du Long tràn xuống. Cuối cùng, đoàn xe tắt đèn vượt qua Ba Râu, vă chiếm thị xả lúc 7 giờ sáng ngày16.4.1975.

    Tại Bộ Chỉ Huy Tiền Phương, Trung Tướng Nghi cũng theo dỏi trận chiến suốt đêm và không nhận được tin gì từ Du Long của Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân sau 3 giờ sáng (sau nầy, Thiếu Tá Đào Kim Minh, tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 36 Biệt Động Quân và Thiếu Tá Nguyễn văn Tú tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 31 Biệt Động Quân có nhiệm vụ trấn giữ Ba Râu và Du Long cho biết không hiểu vì lý do gì mà từ 2 giờ sáng không liên lạc được với Bộ Chỉ Huy. Sở dỉ cần liên lạc khẩn cấp là vì đã 3 ngày, từ lúc thay quân, cứ liên miên đụng địch nên cấp số đạn dược mang theo đã gần cạn. Đến sáng, khu vực trách nhiệm vẫn yên tịnh như sau những lần chạm súng. Trên đường vẫn an toàn nhưng nhìn vào phi trường thấy đang bị pháo kích).
    Ngày 16.4.1975, lúc vừa sáng, địch lại lẻ tẻ xâm nhập vào cổng số 2 của phi trường về hướng Bắc và kho bom ở hướng Tây. Đến khi phòng không chúng, bắn trúng chiếc phi cơ quan sát O-1 vừa cất cánh quan sát hành quân, phải trở lại đâp khẩn cấp, thì đồng thời chúng gia tăng số lượng pháo kích.

    Lúc bấy giờ mới khoảng gần 8 giờ sáng. Đại Tá Biết bổng báo cáo là Du Long bị mất và địch đã vào thị xã khiến cho Trung Tướng Nghi phải tìm phương thế thích nghi. Cùng lúc, Chuẩn Tướng Nhựt vừa đặt văn phòng cạnh văn phòng Trung Tướng Nghi, liền được mời tham gia vào việc duyệt xét tình hình. Sau đó Ông đi thị sát mặt trận tại nơi trách nhiệm của đơn vị mình.
    Trong khi Trung Đoàn 4 Bộ Binh đang án ngữ bên ngoài phía Tây của phi trường và Trung Đoàn 5 đang phòng ngự địch tràn lên từ thị xả, thì bên trong căn cứ tình hình bắt đầu có chiều hướng bất lợi. Địch vẫn giữ mức độ pháo kích quấy rối từng chập. Nhân có các khoảng trống giữa những đợt pháo kích, một số lớn phi cơ đã rời căn cứ. Còn lại chỉ có một số rất ít trực thăng võ trang và tản thương ở lại đến phút chót.
    Khoảng hơn 9 giơ sáng, khi trực thăng võ trang bị hỏa tiển SA.7 bắn tại ngọn đồi gần phi trường thì tình hình đã khá nguy ngập. Trung Đoàn 4 báo cáo đang chạm địch. Toán Dù bảo vệ Bộ Tư Lệnh Tiền Phương đang thanh toán các toán VC lẻ tẻ chạy lạng quạng gần khu vực Bộ Tư Lệnh Tiền Phương. Đến lúc nầy, Trung Tướng Nghi vẫn tin tưởng văo khả năng chiến đấu của Trung Đoàn 4 bảo vệ phi trường và Trung Đoàn 5 án ngữ ngăn chận địch tràn vào cổng số 1 của căn cứ.

    Đến khoảng gần 10 giờ, khi tiếng súng càng lúc càng dồn dập, Tướng Nghi liền họp cùng Chuẩn Tướng Nhựt, Đại Tá Lương và tôi để tái duyệt xét tình hình. Vì lẽ mặt trận đã bị thủng từ Du Long và địch đang hăm dọa căn cứ nên Trung Tướng Nghi dự tính có thể sẽ dời Bộ Tư Lệnh Tiền Phương về Cà Ná để lập tuyến phòng thủ mới tại đó, nếu địch chọc thủng được phòng tuyến bảo vệ phi trường. Dự trù sẽ đi khỏi phi trường từ cổng số 1 và đi cùng Trung đoàn 5.
    Khoảng 10,30 giờ sáng, mãi đến khi các toán quân địch sắp tiến vào Bộ Tư Lệnh Tiền Phương thì Trung Tướng Nghi mới ra lịnh rời căn cứ bằng đường bộ, từng đơn vị theo đơn vị trưởng mình rút theo hướng Nam về Cá Ná để lập phòng tuyến mới. Trung Tướng Nghi, Đại Tá Lương, Ông Lewis chuyên viên Tòa Đại Sứ Mỹ cùng các quân nhân của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương, Sư Đoàn 6 Không Quân, Lữ Đoàn 2 Dù cùng các toán quân lẻ tẻ của Liên Đoàn 3I Biệt Động Quân lối 400 người rời căn cứ tiến ra cổng số 1 về hướng Nam.

    Đoàn quân di chuyển trật tự đến cổng số 1 khoảng 11 giờ, để cùng đi với Trung Đoàn 5 về Cà Ná như dự định. Tại đây, vì không liên lạc được với Chuẩn Tướng Nhựt, nên Trung Tướng Nghi quyết định theo đường rào phía Nam, di chuyển dọc theo đường từ Tour Cham đến ngã ba An Phước. Đoàn quân an toàn đến Thôn Mỹ Đức lúc 12 giờ trưa.
    Trên đường rút khỏi Ba Tháp, Tiểu Đoàn 3 Dù lần xuống bãi biển, tẻ sâu về hướng Nam và không còn thấy Giang Đoàn 27, Chiến Hạm WHEC cùng bất cứ chiếc tău nào khác tại cảng Ninh Chử. Đến một bãi cát xa hơn về hướng Nam của thị xả, đơn vị Dù nầy, gặp và kháng cự với một toán quân địch khác đến bao vây. Sau khi thoát vòng vây với ít nhiều tổn thất, Tiểu Đoàn 3 Dù được một đoàn trực thăng, bốc về an toăn. (Đoàn trực thăng cấp cứu nầy, dự trù đón Bộ Tư Lệnh Tiền Phương, nhưng vì Trung Tướng Nghi không thuận cho đáp vì lý do an toàn bãi đáp, nên trên đường trở về, mới bốc được toán Dù trên).

    Tiểu Đoàn 11 Dù còn lại rút được qua sông, phối hợp với toán quân vừa thoát khỏi trận phục kích ở Thôn Phú Quý về được an toăn.
    Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân và Sư Đoàn 2 Bộ Binh với một ít đơn vị cố gắng di chuyển về Nam lại chịu thêm tổn thất trên đường rút lui. Đại Tá Lê Thương, chỉ huy trưởng Pháo Binh Sư Đoàn 2 Bộ Binh, trên đường rút về An Phước nơi có trung đội pháo binh đang trú đóng, cũng gặp địch đã đóng làm nút chận tại đây rồi.
    Tại phi trường, khi đoàn quân của Trung Tướng Nghi di chuyển khá xa, thì Sư Đoàn 325 VC phối họp với Sư Đoàn 3 VC cùng Đoàn 968 tấn công và chiếm phi trường lúc 11,30 giờ trưa.
    Thiệt hại của Sư Đoàn 6 Không Quân rất đáng kể vì mất toàn bộ kho bom đạn và các trang thiết bị phụ thuộc, với lối 10 phi cơ đủ loại không bay được. Tuy nhiên tổn thất hành quân tương đối là nhẹ: 1 A-37 rớt, 4 A-37 bị bắn về đáp an toàn, 2 trực thăng cháy, 1 phi cơ quan sát cùng khá nhiều trực thăng bị bắn nhưng về đáp được an toàn.

    Hải Quân ta chỉ có một số ít giang thuyền bị chìm và một chiến hạm bị pháo.
    Tại Thôn Mỹ Đức lúc khoảng 4 giờ chiều, Trung tướng Nghi được toán truyền tin của Đại tá Lương cho hay có 1 đoàn phi cơ xin xác nhận vị trí để xuống bốc. Lúc bấy giờ, với số gần 700 quân nhân vă thân nhân nên khó bóc hết được, vả lại khi trực thăng đến, khó lòng mà giữ được trật tự, chắc chắn sẽ tạo hổn loạn làm lộ mục tiêu giúp địch đến vây bắt. Vì vậy Trung Tướng Nghi quyết định vì sự an toàn cho đồng đội, từng khổ cực chiến đấu với nhau mà không vì an toàn cho bản thân, nên ra lịnh toán cứu cấp đó không nên đâp, và chỉ nên đến ngày hôm sau, tại một địa điểm xa hơn về phía Nam.
    Lúc 9 giờ tối, dưới sự hướng dẫn của Đại Tá Lương, đoàn người bắt đầu rời Thôn Mỹ Đức. Chưa đi được bao xa thì bị phục kích. Trung Tướng Nghi, Ông Lewis và tôi cùng một số quân nhân bị địch bắt. Chúng dẫn 3 chúng tôi ngược về Nha Trang sáng hôm sau. Trên đường tôi thấy rất nhiều xe địch nằm la liệt dọc hai bên đường, và từng nhóm đồng bào ngơ ngác, thất thiểu, lang thang đi ngược trở về. Tôi bổng cảm nhận rất có tội đối với đồng bào, vì làm tướng mà không giữ được thành. Ở tại Đồn Điền Yersin 2 ngày, chúng đưa chúng tôi ra Đà Nẳng bằng đường bộ. Tại đây, ngày 22.4..1975 chúng đem phi cơ chở chúng tôi ra Bắc, giam tại nhà giam Sơn Tây nơi từng giam giữ tù binh Mỹ. Chúng thả Ông Lewis vào tháng 8.1975, Trung Tướng Nghi vào năm 1988 và tôi năm 1992.

    IV. KẾT LUẬN
    Sư Đoàn 6 Không Quân rời Pleiku ngày 16.3.1975 đến tạm trú tại Nha Trang. Ngày 22.3.1975 được lịnh đến căn cứ Phan Rang đồn trú. Chưa kịp thích nghi với sanh hoạt địa phương thì phải đương đầu với nhiều nổi ưu lự kể từ lúc Nha Trang rút bỏ. Liên tiếp trong 16 ngày, toàn thể quân nhân Sư Đòan 6 Không Quân đã khắc phục bao khó khăn, trong một hoàn cảnh khác thường của một căn cứ Không Quân bổng trở thành một tiền đồn, vừa thi hành các phi vụ, vừa tham gia chiến đấu như bộ binh.
    Địa Phương Quân và Nghĩa Quân Phan Rang có những đơn vị hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ đáng khen, như việc bảo vệ giáo xứ Hồ Diêm được an toàn là một thí dụ.
    Sư Đoàn 2 Bộ Binh với 2 Trung Đoàn 4 và 5, tuy có một số lớn quân nhân hãy còn hoang mang, dao động vì lo lắng cho thân nhân còn kẹt lại khi đơn vị vội vả rút lui, nhưng cũng đã cố gắng tham dự.
    Liên Đoàn 31 Biệt Động Quân với 3 Tiểu Đoàn 31, 36 và 52, chứng minh được cái tinh thần của người chiến sĩ mũ nâu, mặc dầu sau những trận đánh ác liệt tại Chơn Thành được điều động thẳng ra Phan Rang, không có một ngày nghĩ dưỡng quân, cũng như không được bổ sung quân số, tái trang bị đầy đủ.
    Lữ Đoàn 2 Dù với các Tiểu Đoàn 3, 7 và 11 cùng Tiểu Đoàn 5 của Lữ Đoàn 3 Dù đã chiến đấu rất tích cực và tạo được sự tin tưởng của nhiều người, quả xứng đáng là những đơn vị thiện chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
    Với những đơn vị như trên cộng thêm Phan Rang có vị trí rất thuận lợi cho việc phòng thủ, đáng lý Phan Rang không thể bị chiếm quá nhanh như thế được.

    Chiếm được Phan Rang, địch mới có lý do tung ra kế hoạch Tổng Công Kích, mà đáng lý ra theo dự trù, chúng chỉ có thể tung ra vào năm 1976 thay vì năm 1975. Tướng VC Văn Tiến Dũng, sau chiến thắng, đê tuyên bố tại Cuba: ”Khi chiếm được Phan Rang thì coi như chiếm được miền Nam”. Lời tuyên bố nầy chứng minh được việc chọn phòng tuyến Phan Rang là một quyết định đứng đắn của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Việc mất Phan Rang quả đúng là một tổn thất quá lớn cho công cuộc bảo vệ Miền Nam vậy.
    Đã hơn 25 năm, chắc chắn tôi không thể còn nhớ đầy đủ các diễn biến liên quan đến việc phòng thủ Phan Rang. Tôi đã tham khảo một vài tài liệu và tiếp xúc một vài thân hữu. Cộng với ký ức, tôi đã cố gắng ghi lại trong bài viết nầy mọi hiểu biết có thể có và đương nhiên chắc phải có nhiều thiếu sót.

    Viết xong ngày 15 tháng 1 năm 2002
    Chuẩn Tướng Phạm Ngọc Sang

  3. #83
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,193

    MỘT MÃNH TÌNH CHUNG THỦY -- Ngô viết Trọng







    “Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự,
    Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương
    Quê người đành gởi thân trăm tuổi
    Cuộc thế mong gì nợ bốn phương!”
    (Thượng Tân Thị)

    Mùa hè năm 1914 vua Duy Tân lại ra nghỉ mát ở Cửa Tùng. Lần này triều đình chỉ định quan thượng thư Bộ Học kiêm Cơ Mật Viện đại thần Hồ Đắc Trung theo hầu ngự. Năm này vua cũng vừa bước lên tuổi mười bốn. Hai hôm trước khi đi, vua nói với ông Trung:

    - Năm nào đi nghỉ mát tôi cũng tắm, cũng bơi, cũng nằm phơi nắng trên cát một mình thật buồn tẻ quá. Nghe nói thầy có mấy người con trai cũng đang nghỉ hè, bảo họ đi chơi với tôi cho có bạn được không?

    Ông Trung ngập ngừng:

    - Đa tạ hoàng thượng đã chiếu cố đến đám trẻ của hạ thần. Chỉ sợ chúng quê mùa dốt nát chưa thông lễ nghĩa lỡ xúc phạm oai trời hạ thần lại mang tội.

    - Thầy ngại cho con ra tắm biển có thể gặp chuyện nguy hiểm chứ gì? Chắc thầy chưa rõ Cửa Tùng là một bãi biển đẹp, mát mẻ và yên bình nhất ở Trung Kỳ? Người Pháp vẫn mệnh danh Cửa Tùng là Nữ hoàng của những bãi tắm (La Reine des plages) mà! Tắm và nghỉ ngơi ở đó tốt cho sức khỏe lắm. Thầy yên chí đi!

    - Vậy xin phép hoàng thượng cho hai con trai của hạ thần là Hồ Đắc Điềm và Hồ Đắc Di cùng đi cho vui. Nếu chúng vụng về sơ sót điều gì xin hoàng thượng lượng thứ.

    - Không sao. Điềm với Di chắc xuýt soát tuổi tôi?

    - Tâu vâng, chúng chỉ trội hơn hoàng thượng một hai tuổi!

    - Quá tốt! Kế Điềm với Di còn người nào nữa không?

    - Tâu, còn hai đứa. Nhưng lại đều là con gái.

    - Chắc các em đều còn nhỏ?

    - Tâu vâng. Một lên mười, một mười hai.

    - Như vậy đâu còn nhỏ lắm? Thầy nên cho hai em đi chơi luôn để hai em vui chứ! Mọi thứ cần thiết tôi sẽ cho người lo giúp, thầy khỏi bận tâm.

    - Tạ ơn hoàng thượng!

    Khi nghe ông Trung thuật lại ý muốn của vua, mấy người con của ông đều vui mừng hớn hở. Chỉ có bà Trung lộ vẻ lo lắng nói với chồng:

    - Đám con mình chưa bao giờ đi tắm biển. Ra đó lỡ gặp sóng gió bất thường hoặc rủi ro sa chân hụt cẳng ai lo cho?

    Hồ Đắc Điềm trấn an mẹ:

    - Mẹ khỏi lo chuyện đó. Con biết biển tắm Cửa Tùng không sâu và không bao giờ bị ảnh hưởng bởi các dòng hải lưu nguy hiểm. Nó như nằm trong một cái vịnh nhỏ được hai rặng đá ngầm thọc sâu ra biển là Mũi Si và Mũi Lai che chắn nên rất an toàn. Những khi biển có gió bão các tàu thuyền đánh cá còn có thể ghé vào neo ở đây để núp nữa mà! Bãi biển này cũng mát mẻ hơn các bãi biển khác ngay cả thời gian những cơn gió Lào gay gắt quạt lửa vào Quảng Trị hằng năm. Chính cánh rừng Rú Lịnh ở cách đó không xa đã giúp nguồn khí mát ở đây luôn được điều hòa. Mẹ cho anh em con đi một chuyến khi trở về mẹ sẽ thấy đứa nào đứa nấy hồng hào khỏe mạnh lên hết cho coi!

    Cả Hồ Đắc Di lẫn hai cô em đồng loạt nói:

    - Anh Điềm nói phải đó mẹ. Khí hậu ở Cửa Tùng rất tốt. Đi chuyến này trở về chúng con khỏe mạnh lên hết cho coi.

    Thấy các con đều tha thiết muốn đi chơi, ông Trung quyết định:

    - Thôi, được rồi, thầy mẹ bằng lòng cho cả bốn đứa đi. Nhưng đi với ngài ngự thì phải luôn giữ lễ, phải nói năng từ tốn, không được ham vui mà ồn ào. Dù cho ngài ngự có vui vẻ, dễ dãi các con cũng không được thừa dịp mà lơ đi khoảng cách giữa vua tôi. Nếu không nghe lời thầy dặn, không phải chỉ các con mang lỗi phạm thượng mà thầy mẹ cũng mang tội không biết dạy con. Phải nhớ kỹ lời thầy dặn đấy nhé.

    - Chúng con xin tuân lời thầy dặn!


    oOo


    Lúc bấy giờ vua Duy Tân đã có sẵn một hành cung ở Cửa Tùng, nơi người ta vẫn quen gọi là “tòa Thừa Lương”, nôm na là tòa nhà để hóng mát. Tòa nhà này do viên Khâm sứ Trung Kỳ Brière cho xây dựng từ năm 1896 để làm nhà nghỉ mát cho nhân viên tòa Khâm. Năm 1907, người Pháp nghi ngờ vua Thành Thái không trung thành với chính phủ Bảo hộ nên tìm cách để truất phế ngài. Kế đó họ lập người con của ngài là Vĩnh San mới 7 tuổi lên ngôi tức là vua Duy Tân. Về sau, nhận thấy vua Duy Tân càng lớn càng lộ vẻ ưu thời mẫn thế như vua cha, người Pháp lại đâm ra lo lắng. Họ tìm cách để dẫn dụ vị vua trẻ này đi dần vào con đường vui chơi, hưởng thụ. Nhắm mục đích ấy, người Pháp nhường lại tòa nhà nghỉ mát trên cho vua Duy Tân làm một hành cung. Từ đó nhà nghỉ mát ấy được vua cho sắp xếp lại, trở thành tòa Thừa Lương. Cứ mỗi mùa hè vua lại ra đó nghỉ mát một thời gian.

    Lần đó vua Duy Tân cùng quan thượng thư Hồ Đắc Trung đi Cửa Tùng bằng “xe điện”. Các thành phần khác thì đi bằng ngựa hoặc xe ngựa. Khi bốn anh em Hồ Đắc Điềm đến hành cung thì ông Trung đã có mặt sẵn để dẫn họ vào lạy chào vua.

    - Muôn tâu, hạ thần xin dẫn đám tiện tử vào lạy chào hoàng thượng!

    Anh em Hồ Đắc Điềm toan quì xuống lạy thì vua Duy Tân khoát tay:

    - Cho miễn lạy. Vái chào là đủ rồi. Các anh em là những người tôi mời đi chơi cho có bạn chứ không phải người đi theo để phục dịch hầu hạ. Nếu việc gì cũng giữ lễ thì còn gì là vui!

    Vua lại tươi cười nhìn lướt qua bốn người:

    - Tôi mong chuyến đi chơi này sẽ làm mọi người hài lòng. Hai anh tôi đã biết tên là anh Điềm và anh Di. Riêng hai cô thì tôi chưa rõ!

    Cô chị còn ngập ngừng thì cô em đã chỉ vào cô chị đáp:

    - Chị của em tên Hồ Thị Chỉ, em tên Hồ Thị Hạnh!

    - Xin chào mừng hai em. Chúc hai em sẽ có những ngày rất vui.

    Mọi người đều hớn hở lên tiếng cảm ơn vị vua trẻ. Riêng Hồ Thị Chỉ đã tỏ ra xúc động hơn ai hết. Đôi mắt nàng long lanh mở lớn nhưng lời cám ơn của nàng chỉ lí nhí nghe không được rõ.

    Hồ Thị Chỉ là con gái áp út của ông Trung. Vốn bẩm thụ tính thông minh trời cho, lại sinh ra trong một gia đình có truyền thống học vấn, được cha và các anh chăm sóc việc học hành từ bé, mới hơn mười tuổi nàng đã khá rành cả chữ Hán lẫn chữ Pháp. Năm ấy tuy mới mười hai tuổi nàng đã bắt đầu trổ nét xuân thì, trông xinh xắn, dịu dàng rất dễ thương. Có lẽ vua Duy Tân cũng cảm nhận điều đó ngay phút gặp gỡ đầu tiên.

    Từ đó buổi sáng nào vua cũng cho mời anh em Hồ Đắc Điềm cùng ra bãi biển chơi. Ngài vẫn gọi Điềm và Di bằng anh, gọi Thị Chỉ và Thị Hạnh bằng em. Họ cùng nhau bơi lội, cùng nhau nằm trên cát nhìn mây trời, cùng ngắm những đàn còng ùa chạy lung tung trên bãi cát hoặc bơi dưới nước... Lúc nào vua cũng chuyện trò thân mật, vui vẻ với anh em Điềm, Di. Thị Hạnh cũng hay nói chuyện với vua. Riêng Thị Chỉ không được tự nhiên, rất ít khi nói chuyện với vua. Nàng luôn tỏ ra rụt rè, ít tham gia vào các cuộc vui chơi chung đó. Có lẽ vua cũng hiểu lý do nên cũng không ép, không mời.

    Một hôm Hồ Đắc Di hào hứng đề nghị:

    - Muôn tâu, hôm nay mình chơi thi bắt còng xem ai bắt giỏi hơn cho vui, ngài ngự bằng lòng không?

    Vua tươi cười nói:

    - Ừ, thi thì thi, như vậy càng thêm vui! Tôi sẽ có thưởng cho ai bắt giỏi nhất.

    Thế rồi mỗi người tự kiếm một vật dụng để đựng còng. Khi cuộc thi đang nhộn nhịp, mọi người dần để ý thấy vua bắt được con nào lại thả con nấy. Thị Hạnh ngạc nhiên hỏi vua:

    - Sao ngài ngự bắt được con nào lại thả con nấy vậy?

    - Bắt được con nào đếm xong thả ngay chứ giữ lâu khô nước chúng có thể chết mất. Chúng vô tội, mình không nên để chúng chết oan. Thấy con nào thoát thân được cũng tất tả chạy trốn phóng xuống nước bơi tung tăng như thế cũng đủ vui rồi.

    Thế là mọi người bắt chước vua thả hết số còng đã bắt được. Vua lại quay sang nói với Điềm và Di:

    - Ai bắt bỏ tù chúng ta, chắc chúng ta cũng sẽ khổ sở vì khi mất tự do là mất tất cả!

    Nói xong vua thở dài, nét mặt ngài bỗng trở nên ủ dột. Anh em Điềm, Di phải nói chuyện khỏa lấp một hồi vua mới vui vẻ trở lại với cuộc chơi.

    Tối hôm đó anh em Điềm kể lại chuyện ấy cho cha nghe. Ông Trung nói:

    - Tinh thần yêu nước của ngài ngự rất cao. Ngài muốn thoát khỏi sự kềm kẹp của chính phủ Bảo hộ. Đã nhiều lần ngài hỏi thầy “Thầy nghĩ sao về việc người Pháp đô hộ ta?”. Thầy chỉ biết nói với ngài “Mình đang bị trị biết làm sao được! Xin hoàng thượng thận trọng, cố gắng học hành, đường còn dài, còn nhiều vận hội mới”. Ngài không phản đối nhưng có vẻ không hài lòng. Một viên thị vệ kể với thầy, có một lần vua tự ra vườn cuốc đất trồng hoa, tay chân vua lấm đất cả. Khi ngài trồng xong, y bưng chậu nước đến cho ngài rửa tay. Bất ngờ ngài hỏi y “Tay nhớp lấy nước để rửa, thế nước nhớp lấy gì để rửa đây?” . Viên thị vệ ngẩn ngơ chưa biết trả lời sao thì ngài tiếp “Nước nhớp phải lấy máu mà rửa! Biết chưa?”. Lại một lần ngài đi câu, có quan thượng thư Nguyễn Hữu Bài theo hầu, ngài bỗng cảm thán đọc “Ngồi trên nước khôn ngăn được nước, Trót buông câu đã lỡ phải lần”, rồi ngài bảo ông Bài đối lại. Qua một lát suy nghĩ, ông Bài đối: “Ngẫm việc đời mà ngán cho đời, Đành nhắm mắt tới đâu hay đó!”. Ngài lắc đầu tỏ vẻ không bằng lòng. Ngài luôn bị ray rứt về số phận của đất nước. Thỉnh thoảng ngài đem tâm sự dò ý các quan nhưng chẳng có ai dám biểu lộ đồng tình với ngài. Ai cũng biết, trong số quan lại của Nam triều không thiếu gì tay chân của chính phủ Bảo hộ Pháp, họ lúc nào cũng sẵn sàng lập công để được thăng tiến! Vì cảm thấy mình quá cô đơn, ngài hay nổi nóng bất thường. Có lần ngài hét lớn “Các quan không có ai chịu nghe lời tôi cả. Tôi chỉ là một ông vua làm vì!”.

    Hồ Đắc Di nghe đến đó bất giác thốt lên:

    - Thật tội nghiệp cho ngài quá. Không ngờ nỗi khổ tâm của ngài to lớn đến thế! Có khi nào bức chí quá ngài lại nổi điên như vua cha Thành Thái không thầy?

    Ông Trung hơi cau mày:

    - Con cũng nghĩ là vua Thành Thái nổi điên ư? Chuyện đó rất khó nói. Sau này lớn lên các con sẽ dần hiểu được sự thật. Thầy cũng mong cái gương của vua Thành Thái sẽ giúp Đức Kim Thượng gắng nhẫn nhục để giữ mình. Chính phủ Bảo hộ lúc nào cũng dòm ngó các hành vi của ngài chứ họ chẳng bỏ sót đâu!

    Hồ Đắc Di lại hỏi:

    - Thầy nghĩ những lời ngài nói trong khi tức giận lại lọt đến tai chính phủ Bảo hô?

    - Biết đâu được! Quan hay lính cũng có hạng này hạng khác... Ngài ngự còn quá trẻ nên dễ có lúc không kiềm chế được tánh nóng nảy của mình. Vì tánh khí đó, ngài đã phải chịu ngậm cay nuốt đắng một lần rồi!

    - Chuyện ra sao thầy kể luôn cho tụi con nghe đi!

    - Cách đây một hai năm thôi, một hôm nghe tin Khâm sứ Mahé đem người lên đào lăng vua Tự Đức để tìm vàng ngọc, ngài liền thân hành lên đó để ngăn chận hành vi ngang ngược ấy. Nhưng ngài lên tới nơi thì đã muộn, việc đã xong xuôi. Ngài vô cùng phẫn nộ. Khi đi ra cửa Vụ Khiêm Môn, ngài gặp vị thầy dạy ngài là ông Cao Xuân Dục từ Đại Nội mới lên, ngài kêu: “Thầy ơi, hồi cha tôi còn tại vị thì người ta không dám làm như vậy. Nay họ đặt tôi lên làm ấu chúa để đào mả, phá nhà!”. Ông Cao Xuân Dục chỉ biết khuyên: “Biết vậy thì Đức Kim Thượng nên gắng học!”. “Thầy nói tôi nghe cũng phải. Nay cha tôi đã ở xa. Tôi nguyện gắng học và xin thầy giúp cho!”. Sau đó vua tự mình viết một lá thư cho chính phủ Pháp. Ngài trình bày rõ sự kiện đã xảy ra và đề nghị chính phủ Pháp khiển trách, hạch tội mấy viên quan Bảo hộ ở Việt Nam. Ngài lại nhờ viên Toàn quyền Đông Dương chuyển thư giúp. Nhưng khi đọc thư xong, thay vì chuyển giúp, viên Toàn quyền lại thân hành đem lá thư này vào cung Diên Thọ trao cho bà Đích xem. Bà Đích liền đòi ngài vào cung Diên Thọ, bắt ngài phải xin lỗi viên Toàn quyền trước mặt ông ta và đại thần Nguyễn Thân. Không thể cãi lệnh mẹ đích, ngài phải cắn răng mà thi hành!

    Thị Chỉ vẫn chăm chú lắng nghe cha kể chuyện từ đầu, giờ bỗng thở dài:

    - Không ngờ ngài ngự lại khổ sở đến thế!

    Thị Hạnh cũng lên tiếng:

    - Bà Đích là mẹ của ngài ngự hở thầy?

    - Bà Đích tên Nguyễn Gia Thị Anh, con gái ông Nguyền Thân, vị đại thần nổi tiếng đánh dẹp các cuộc nổi dậy trong nước, là mẹ đích chứ không phải là mẹ đẻ của ngài ngự. Gọi là mẹ đích vì bà là Hoàng quí phi tức là vợ chính của vua Thành Thái. Tất cả những người con khác của vua Thành Thái đều phải gọi bà là mẹ đích. Còn mẹ đẻ của ngài ngự là bà Tài nhân Nguyễn Thị Định, vợ thứ của vua Thành Thái. Cả hai bà này ở trong cung, đều có quyền quyết định mọi việc trong gia đình nhà vua, người ta vẫn quen gọi là “Lưỡng tôn cung”.

    Hồ Đắc Điềm cũng thở dài:

    - Hóa ra làm vua một nước bị lệ thuộc cũng khổ quá!

    - Thầy rất thông cảm cho hoàn cảnh của ngài nhưng biết làm sao bây giờ? Vậy, khi chuyện vãn với ngài, nếu ngài có bắt qua chuyện quốc sự, các con phải tìm cách nói lảng sang chuyện khác ngay để ngài khỏi buồn khỏi ức. Phẫn chí quá ngài có thể nói lỡ lời. Giữ gìn cho ngài cũng là giữ gìn cho chính mình! Các con phải nhớ đấy!

    Cuộc đi nghỉ mát mùa hè ở Cửa Tùng rồi cũng qua nhanh. Khi sắp giã từ, vua Duy Tân với anh em họ Hồ đều lộ vẻ bịn rịn nhau lắm. Nhất là Thị Chỉ, nàng không nói gì mà cứ rưng rưng nước mắt. Vua thấy thế nói khẽ với Thị Hạnh:

    - Dỗ chị đi em. Sang năm chúng ta sẽ gặp lại!


    oOo


    Sau thời gian cho các con đi nghỉ mát với chồng về, bà Trung để ý thấy Thị Chỉ có vẻ hơi khác thường. Nàng ít nói, ít đùa giỡn với cô em Thị Hạnh như trước mà hay ngồi trầm ngâm một mình. Thỉnh thoảng nàng lại ngâm nho nhỏ vài câu thơ, giọng rất buồn. Một hôm bà Trung gọi nàng lại hỏi:

    - Đi chơi về mệt lắm sao mà thấy con cứ thẫn thờ ra thế? Có gì vui kể mẹ nghe với nào.

    - Dạ đâu có mệt, vui lắm chứ mẹ. Ngày nào cũng bắt còng, bơi lội, phơi nắng...

    - Vua cũng chơi vậy sao? Ngài có hay nói chuyện với anh em con không?

    - Dạ có. Nhưng ngài chỉ nói chuyện với anh Điềm, anh Di và Hạnh chứ rất ít khi nói chuyện với con.

    Bà Trung cười:

    -Ngài không thèm nói chuyện với con à? Sao vậy?

    Hồ Thị Chỉ tỏ vẻ bẽn lẽn:

    - Đâu phải vậy. Nhưng con đâu có chuyện gì để nói?

    - Vậy con có nhận xét gì đặc biệt về ngài ngự không?

    - Điểm đặc biệt ư? Nếu nói về điểm đặc biệt của một ông vua thì con thấy ngài có mấy điểm rất khác thường, hoàn toàn không giống ở bất cứ một ông vua nào khác mà con đã được đọc qua trong sách sử ký.

    Bà Trung trố mắt ngạc nhiên:

    - Ủa, con đã đọc về nhiều vị vua trong sách sử ký? Con thấy ngài khác biệt với những vị vua ấy ở những điểm nào?

    - Điểm con thấy rõ nhất ở ngài là đức tính rất giản dị, khiêm tốn. Mẹ biết không? Ngài luôn gọi anh Điềm, anh Di bằng anh, gọi con và Hạnh bằng em như dân thường gọi nhau. Trong một lần khi đi chơi ngài đã thành thật tâm sự: “Thời gian này đi chơi có mấy anh em tôi thấy vui vẻ thoải mái quá! Gần gũi mãi với mấy cụ đại thần tuy học được nhiều điều hay nhưng cũng có lúc ngột quá chừng, nhiều thắc mắc của mình khó bày tỏ với các cụ quá! Các anh thấy thế nào?”. Anh Điềm anh Di đều nói: “Chúng tôi còn dại, chỉ biết lo học, chưa dám bàn đến chuyện người lớn”. “Vậy các anh cho tôi là người lớn rồi sao?”. “Muôn tâu, Ngài Ngự tuy tuổi nhỏ nhưng địa vị và tâm tư đều lớn quá có ai dám sánh? Chúng tôi đâu dám luận bàn!”. Vua cười: “Các anh đừng lầm, người có thực tài không cần có địa vị, người có địa vị chưa chắc có tài. Như tôi vì con vua nên lại làm vua chứ tài gì?”. Mẹ thấy đó, các ông vua khác nghe lời tâng bốc thì vui mừng, họ còn tìm cách khiến người khác thần thánh hóa mình lên nữa. Còn ngài thì không, lại tự nhận mình chưa chắc có tài, chỉ nhờ gốc là con vua nên được làm vua! Chưa tin mình có thực tài tất nhiên ngài phải luôn cố gắng học hỏi. Không nghe lời tán tụng, tâng bốc tất nhiên không ai có thể dùng lối mê hoặc, dua mị để lung lạc được. Một ông vua như thế chắc hẳn không phải là một ông vua tầm thường! Đó là những điểm khác thường của ngài vậy!

    Nghe Thị Chỉ nhận xét về vua Duy Tân như vậy bà Trung rất mừng. Bà không ngờ lối suy nghĩ của đứa con gái mình lại có vẻ trưởng thành đến thế. Vậy đối với nàng bà đâu có gì đáng lo nữa! Chắc hẳn là nàng có phần si tình đấy, nhưng không sao. Nghĩ đến đó bà chợt thốt lên:

    - Đáng tiếc!

    - Mẹ nói cái gì đáng tiếc?

    - Ngài ngự hẳn là một minh quân đấy. Đáng tiếc là ngài đã không gặp được thời. Cái gương của vua cha còn sờ sờ ra đó. E rằng chính phủ Bảo hộ khó để cho ngài toại chí. Mẹ nghĩ rồi đây ngài sẽ phải gặp nhiều gian truân...

    Ngay hôm ấy bà thăm dò ý chồng:

    - Này ông, từ sau cuộc đi chơi ở Cửa Tùng về, hình như con Chỉ nó thay đổi khá nhiều đó. Nó hay thở dài và cũng hay ngâm truyện Kiều nữa. Tôi cảm thấy lo lo về những dấu hiệu ấy.

    - Ồ, có gì lạ đâu mà lo! Nó đang ở tuổi dậy thì, gái thở dài trai nằm sấp vẫn là chuyện thường. Bà hay gần gũi nó, khuyên nhủ khéo khéo sao cho nó khỏi lơ là việc học hành là được!

    - Theo ông có phải nó phải lòng với nhà vua không?

    - Bà căn cứ vào đâu để nói như thế?

    - Thỉnh thoảng tôi lại nghe nó ngâm thơ Kiều. Tiêu biểu là hai câu “Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không?”, hoặc “Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?”. Đó không phải cái giọng tương tư thì còn là gì nữa? Thời gian này nó có gặp ai đâu ngoài ngài ngự?

    - Cũng có lý! Ngài ngự cư xử với đám con mình rất thân mật, nếu con Chỉ phải lòng ngài thì cũng đúng thôi. Theo tôi biết thì ngài cũng mến nó lắm. Xứng đôi quá đi chứ. Bà gắng khuyên răn thúc đẩy nó cứ lo học hành đi đã rồi chuyện tốt lành sẽ đến thôi.

    - Ông thương con gái mà nghĩ vậy nhưng hình như ông chẳng để ý đến một điều...

    - Điều gì?

    - Ngài ngự là người rất có lòng với đất nước nhưng còn quá trẻ, liệu ngài có tự kiềm chế để giữ mình được không? Ông thấy cái gương vua Thành Thái chứ? Nếu để con mình vướng vô chuyện đó tôi nghĩ sớm muộn nó cũng sẽ khổ theo...

    - Nhưng biết làm sao bây giờ?


    oOo


    Thấm thoắt kỳ nghỉ hè 1915 đã gần tới. Theo thư thăm gia đình mới nhất, anh em Điềm, Di đang học ở Hà Nội cho biết chỉ trong vòng một tháng nữa họ sẽ về sum họp với gia đình. Điềm, Di cũng cho biết họ cũng sẽ có một món quà rất đặc biệt dành cho hai em gái. Vì vậy, Thị Chỉ và Thị Hạnh luôn ngóng chờ hai anh. Đối với Thị Chỉ, thật ra nàng không hẳn nôn nóng vì thương nhớ hay muốn biết “món quà rất đặc biệt” hai ông anh đã hứa tặng mà là nôn nóng đợi một kỳ đi nghỉ mát như năm ngoái. Thị Chỉ đã cẩn thận ngầm chuẩn bị những đồ trang sức cá nhân dành cho thời gian đi chơi sắp đến. Đã nhiều lần nàng rụt rè hỏi nhỏ Thị Hạnh:

    - Ngài ngự có dặn em năm sau chúng ta sẽ gặp lại phải không?

    Thị Hạnh hiểu ý, cười nguýt yêu cô chị:

    - Đúng rồi, không lẽ em phịa ra thế sao. Ngài ngự còn bảo em dỗ chị đừng khóc nữa mà. Sao chị cứ hỏi hoài chuyện đó vậy?

    - Có khi nào ngài ngự quên đi không? Hoặc ngài ngự bận công việc gì mà không đi nghỉ mát nữa? Cũng có thể ngài ngự gọi vị thượng thư khác theo chầu hầu thay thế thân phụ mình.

    Thị Hạnh nhí nhảnh:

    - Chị sao hay lo hảo quá! Quân bất hí ngôn mà! Ngài ngự đã hứa lẽ nào lại quên!

    Thị Chỉ cười bẽn lẽn:

    - Chị cũng nói chừng chừng vậy thôi.

    Mấy ngày sau thì anh em Hồ Đắc Điềm từ Hà Nội về. Thị Hạnh mừng quá, hỏi ngay đến món quà đặc biệt. Khi Điềm và Di mở quà ra, Thị Hạnh mừng rỡ reo ầm lên, Thị Chỉ cũng sung sướng đến lặng người. Món quà đặc biệt của hai cô chính là hai bộ đồ tắm tân thời! Trước vẻ sung sướng của hai cô em gái, anh em Điềm, Di cũng hỉ hả nói cười.

    Bà Trung lúc ấy đang bận tay nhưng thấy các con vui vẻ quá cũng tạm bỏ việc đến xem:

    - Quà gì mà các con vui sướng đến thế?

    Cả bốn anh em đều hướng về mẹ, Điềm khoe:

    - Mẹ thấy hai bộ đồ tắm này có nhất không? Tây cũng phải hạng sang chứ hạng xoàng cũng không dám sắm đâu!

    Bà Trung cầm từng bộ lên xem rồi nói:

    - Đồ này thấy sang trọng, tân thời thật, hai con thương em sắm cho em như vậy quả thật có lòng! Nhưng có điều mẹ quên dặn các con, mình là người Việt phải gắng mà giữ lấy nề nếp văn hóa Việt, không nên đua đòi với Tây làm chi để người ta coi thường. Mẹ nghĩ năm nay con Chỉ cũng đã lớn rồi, không nên theo mấy anh đi nghỉ ở Cửa Tùng nữa.

    Nói xong, bà lại tiếp tục đi lo công việc. Thị Chỉ nghe mẹ nói vậy đâm hoảng. Vẻ hớn hở trên gương mặt nàng phút chốc tan biến hết. Đôi mắt nàng bỗng rưng rưng lệ. Anh em Điềm, Di thấy vậy vội an ủi em:

    - Mẹ nói rứa thôi chứ không chi đâu. Bọn anh sẽ xin mẹ cho em.

    - Em cũng sẽ xin mẹ cho chị đi – Thị Hạnh tiếp lời.

    Lời hứa sẽ xin với mẹ của hai anh và đứa em gái không làm cho Thị Chỉ yên lòng mấy. Nàng vốn biết mẹ mình tuy rất thương con nhưng cũng rất nghiêm khắc trong vấn đề giáo dục. Hình như đã mất hết cả hứng thú, nàng cám ơn hai anh rồi tiu nghỉu mang gói “món quà đặc biệt” đem cất.


    oOo


    Hôm ấy, trong bữa cơm tối, ông Trung nói:

    - Hoàng thượng vừa cho biết tuần sau sẽ đi nghỉ mát ở Cửa Tùng. Thầy cũng được cử theo hầu ngài. Các con cũng được ngài cho phép cùng đi nghỉ như năm ngoái. Khác một điều là con Chỉ năm nay đã lớn, đi chơi không tiện. Ý mẹ muốn con Chỉ phải ở nhà với mẹ.

    Thị Chỉ nghe thế liền gục mặt xuống bàn khóc ấm ức. Mấy anh em đều quay lại nhỏ to năn nỉ với bà Trung. Ông Trung cũng nhìn con gái thông cảm nhưng bà Trung lắc đầu nói:

    - Ông cũng muốn cho nó đi hả? Không chịu nghe tôi sau này có chuyện gì ông đừng bảo tại tôi không biết dạy con đó nghe!

    Ông Trung nói với Thị Chỉ:

    - Được rồi Chỉ! Con không nên trái ý khiến mẹ buồn!

    Thị Chỉ liền bưng mặt đứng dậy bỏ chạy vào phòng riêng...

    Liên tiếp mấy ngày sau đó Thị Chỉ đã bỏ ăn bỏ ngủ và khóc sưng cả mắt. Anh em Điềm, Di cũng hết sức năn nỉ với bà Trung. Nhưng bà vẫn nhất định không đổi ý.

    Hôm gặp lại ba anh em họ Hồ ở Cửa Tùng, vua ngạc nhiên hỏi:

    - Sao thiếu mất một người?

    Thị Hạnh liều tâu:

    - Mẹ chúng tôi bắt chị ấy ở nhà. Chị ấy khóc quá.

    Vua có vẻ buồn:

    - Tội nghiệp chị ấy quá.


    oOo


    Sau kỳ nghỉ mát không bao lâu vua cho thị vệ đến tư dinh Hồ thượng thư xin hai tấm hình của tiểu thư Thị Chỉ đem vào Nội để “Lưỡng tôn cung” xem mặt. Cả nhà ông Trung rộn lên kẻ vui mừng người lo âu. Ông Trung cười mà trấn an vợ:

    - Đó là cái diễm phúc to lớn cả vạn nhà mơ ước không được, bà còn suy nghĩ gì nữa?

    - Biết vậy, nhưng tôi thương con Chỉ quá. Hình như linh tính báo cho tôi biết có điều gì không hay trong cuộc tình duyên của nó...

    Ông Trung cau mặt:

    - Sao nói gở vậy? Bà không nên nghĩ như thế nữa.

    Một tuần sau “Lưỡng tôn cung” cho đòi vợ chồng ông Trung vào chầu để bàn định sắp xếp về lễ hỏi và lễ nạp phi. Sau đó sứ vua đệ ra nhà Hồ thượng thư một đôi bông tai và một đôi vòng vàng để làm lễ hỏi. Vợ chồng Hồ thượng thư ra quì làm lễ bái nhận. Thị Chỉ cũng ra quì lạy tạ ơn vua đã chiếu cố.

    Gần cuối năm 1915, khi chỉ còn hai tháng nữa là đến ngày làm lễ nạp phi, vua Duy Tân đột ngột triệu ông Trung vào gặp riêng để cho biết ngài đã quyết định từ hôn. Quá kinh ngạc, ông Trung xin ngài cho biết lý do nhưng ngài chỉ nói “Thầy cứ về đi, rồi thầy sẽ rõ”. Không biết làm sao hơn, ông Trung đành trở về báo tin không hay cho gia đình.

    Tiểu thư Thị Chỉ đã bỏ ăn bỏ ngủ, khóc ngày khóc đêm cả một thời gian khá dài. Cả nhà ông Trung phải thay nhau an ủi, khuyên nhủ để giúp nàng giảm bớt nỗi đau buồn. Họ phải luôn canh chừng nàng vì sợ dại khi thất vọng quá nàng có thể nghĩ quấy làm liều...

    Hai tháng sau triều đình vẫn tổ chức lễ nạp phi cho vua Duy Tân như đã dự định, nhưng bà phi này là tiểu thư Mai Thị Vàng, con gái trưởng của quan Phụ đạo Mai Khắc Đôn, thầy học của vua. Sự việc này đã khiến một số người biết chuyện ngầm cười nhà vua cũng kén cá chọn canh, không trọng chữ “quân bất hí ngôn”. Một số khác suy đoán có thể gia đình ông Trung có vấn đề gì khiến vua không bằng lòng. Riêng tiểu thư Thị Chỉ cũng bắt đầu nẩy sinh ý định gởi thân vào cửa thiền.


    oOo


    Đêm mồng 3 rạng mồng 4 tháng 5 năm 1916 ở Huế đã xảy ra một biến cố quan trọng: vua Duy Tân bí mật rời hoàng cung để tham gia một cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Nhưng việc lớn không thành, ngày mồng 6 tháng 5 vua Duy Tân bị bắt đưa về giữ ở Tam Tòa một thời gian rồi sau đó đưa qua đồn Mang Cá. Những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa như Thái Phiên, Trần Cao Vân cũng bị bắt đem nhốt vào lao Thừa Thiên. Hai ông này biết chắc cuộc đời mình coi như đã yên, không một chút băn khoăn hối tiếc. Hai ông chỉ còn ưu tư về số phận của vị vua thiếu niên anh hùng! Họ muốn tìm cách để cứu sinh mạng vị vua yêu nước ấy. Với tinh thần đó, hai ông đã viết tờ tự thú nhận hết mọi trách nhiệm về âm mưu tổ chức cuộc khởi nghĩa về mình. Ông Trần Cao Vân còn nghĩ thêm cách cầu cứu với một viên quan có thế lực trong triều. Đó là ông Hồ Đắc Trung, đương chức thượng thư Bộ Học kiêm Cơ Mật Viện đại thần. Ông Vân đã dùng cuốn giấy quyến viết một lá thư bày tỏ nguyện vọng tha thiết muốn cứu vua lén gởi cho ông Trung. Trong thư có hai câu đối:
    Trung là ai? Nghĩa là ai? Cân đai võng lọng là ai? Thà để cô thần tử biệt!
    Trời còn đó! Đất còn đó! Xã tắc sơn hà còn đó! Mong cho Thánh thượng sinh toàn.

    Nhưng không hiểu người chuyển thư giúp lớ ngớ làm sao đó đã khiến lá thư lọt vào tay người Pháp. Thế là ông Hồ Đắc Trung bị người Pháp bắt giữ ở tòa Khâm để điều tra. May người Pháp không tìm được bằng chứng nào về sự liên hệ giữa đám khởi loạn với ông Trung nên mấy hôm sau họ thả ông ra. Khi ông Trung trở về, cả nhà xiết bao vui mừng, xúm lại hỏi han ríu rít.

    Bà Trung nói:

    - Thật phước đức ông bà, mấy ngày cả nhà ăn ngủ không yên!

    Ông Trung cười ra vẻ tự tin:

    - Mình cứ ngay thẳng mà sống tự nhiên gặp chuyện lành!

    Thị Chỉ sau mấy phút vui mừng lại lộ vẻ lo lắng:

    - Thưa thầy, còn tình trạng ngài ngự ra sao? Liệu người Pháp đối xử với ngài thế nào?

    Bà Trung cũng tỏ vẻ băn khoăn:

    - Nghe chính phủ Bảo hộ rất giận dữ vì chuyện này. Trước đây vua Thành Thái chỉ bị ghép tội “dở hơi” thôi mà còn bị đưa đi an trí ở Vũng Tàu, nay vua Duy Tân phạm tội “nổi loạn” chắc khó thoát khỏi án tử.

    Thị Chỉ nghe mẹ nói thế bỗng khóc oà:

    - Nếu ngài có mệnh hệ nào e con cũng không sống nổi...

    Ông Trung sầm mặt suy tư. Bà Trung dỗ con gái:

    - Con chớ nghĩ vậy. Việc đó ngoài tầm tay của người Việt mình. Dù sao ngài cũng đã từ hôn, con đâu có lỗi gì với ngài. Con phải quên chuyện đó đi mà sống mới được.

    Thị Chỉ sụt sùi nói:

    - Làm sao con có thể vô tình với ngài được? Chính vì thương, vì nghĩ đến gia đình mình ngài mới từ hôn chứ đâu phải ngài ruồng rẫy con! Chuyện xảy ra vừa qua đã làm sáng tỏ tấm lòng cao cả của ngài, gia đình mình phải biết ơn ngài mới phải chứ!

    Ông Trung an ủi Thị Chỉ:

    - Con có lòng với ngài như thế là đúng. Rõ ràng ngài đã ăn ở rất có hậu với gia đình ta. Thầy cũng không thể làm ngơ trước cơn hoạn nạn của ngài đâu. Ở Trung Kỳ, những vụ án liên hệ đến người Việt chính phủ Bảo hộ thường giao cho Nam triều xử trước. Sau đó chính phủ Bảo hộ sẽ quyết định y án hay xử lại. Bình thường, với chức vụ của thầy, thầy sẽ được giữ một chân trong hội đồng xét xử. Vì nghĩ vậy nên ông Trần Cao Vân đã lén gởi một lá thư nhờ thầy tìm cách cứu mạng vua. Ông ấy từng quen biết và tin tưởng thầy nên mới dám làm liều như thế. Không ngờ lá thư đó đã gây nên chuyện rắc rối cho thầy. Bây giờ chưa chắc thầy đã được dự vào hội đồng nghị án. Nếu không bị cho ra rìa, thầy nguyện sẽ hết lòng che chở cho ngài.

    - Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, kính xin ngài phù hộ cho thầy con không gặp trở ngại để cứu giúp nhà vua.

    Hôm sau ông Trung trở lại Cơ Mật Viện. Ông vui mừng biết mình không bị tước quyền nhưng khi biết tin viên tân Khâm sứ Pháp Le Marchant de Trigon buộc Nam triều phải lên án vua Duy Tân thật nặng ông không khỏi giật mình. Viên Khâm sứ này muốn xử tử vua Duy Tân để làm gương cho các vị vua kế tiếp. Thế là toàn bộ Cơ Mật Viện phải họp ba ngày liên tiếp để thảo luận vấn đề. Nhờ đa số thành viên Cơ Mật Viện đều là trung thần nên họ cố viện mọi lý lẽ thuận lợi bào chữa để cứu vua. Cuối cùng Cơ Mật Viện đã ủy nhiệm ông Trung soạn thảo một bản án với nội dung như sau:

    “Vua Duy Tân còn vị thành niên, tuy rất mực thông minh song còn cạn nghĩ, nên dễ bị bọn phiến loạn lắm mưu mô quỷ quyệt lung lạc bằng cách kích thích lòng ái quốc mà nghe theo chúng. Nếu ở vào tuổi trưởng thành thì tội ấy rất nặng, song ở tuổi vị thành niên, thiếu quân không đáng trách mà là đáng thương tình.

    “Vả lại, cuộc khởi loạn chưa bùng nổ thực sự nên chưa gây một mảy may thiệt hại cho tài sản và tánh mạng của người Pháp ở kinh đô Huế cũng như ở các tỉnh khác ở miền Trung. Mặt khác, nhân dân Việt Nam rất mến thương nhà vua, thì nay, nếu lên án “tử hình” ngài, e không khỏi gây ra mầm mống rối loạn trong dân chúng, một điều mà cả Bảo hộ lẫn Nam triều chúng ta nên hết sức tránh trong lúc này – lúc mà mẫu quốc đang gặp khó khăn trong cuộc đương đầu với quân xâm lăng Đức ở trời Âu.

    “Luận về tội thì quả thật thiếu quân có tội đối với chính phủ Bảo hộ, nhưng đối với Nam triều, nhất là đối với nhân dân Việt Nam mà xưa nay ngài vẫn tỏ lòng thương yêu, ngài không có tội gì hết.

    “Vì các lẽ trên, tưởng cần tỏ ra khoan hồng đối với vị thiếu quân mà để cho ngài được tự do trở về với danh vị “hoàng tử” như trước. Như vậy, chẳng những đã hợp tình hợp lý mà chính phủ Bảo hộ còn được tiếng khoan dung và đại lượng, dân chúng ắt sẽ khâm phục và thỏa mãn.

    “Còn đối với bọn phiến loạn chủ mưu và chúc sử nhà vua thì nên lên án nặng tối đa để làm gương”.

    Chính phủ Bảo hộ đã đồng ý với tinh thần bản án. Nhân dịp Toàn quyền Eugène Charles vào Huế, Tôn Nhơn Phủ và Cơ Mật Viện đề nghị truất phế vua Duy Tân và tôn hoàng thân Bửu Đảo, con trưởng vua Đồng Khánh lên ngôi. Ba ngày sau chính phủ Pháp chuẩn y đề nghị đó và quyết định đày “Hoàng tử Vĩnh San” cùng Phụ hoàng Thành Thái sang đảo Réunion ở châu Phi.

    Ngày 17/5/1916 hoàng thân Bửu Đảo lên ngôi lấy niên hiệu là Khải Định. Cũng ngày này, các lãnh tụ cuộc khởi nghĩa là Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu bị đem chém ở Cống Chém (làng An Hòa).


    oOo


    Ngày 2/7/1916 “Hoàng tử Vĩnh San” biệt ly xứ Huế đi Vũng Tàu để rồi ngày 3/11/1916 ngài vĩnh viễn xa rời tổ quốc sống cuộc sống lưu đày trong sự thương tiếc, kính nể của toàn dân Việt Nam. Hai mươi chín năm sau ngài qua đời ở quê người vì một tai nạn.


    oOo


    Sau khi vua Duy Tân đã bị lưu đày, tiểu thư Thị Chỉ ngày càng khô héo. Có một ông bác sĩ trẻ muốn hỏi nàng làm vợ, gia đình cũng muốn gả, nhưng nàng một mực từ chối. Nàng thề không lấy ai nữa mà chỉ muốn đi tu. Sau cùng ông bà Trung khuyên:

    - Được rồi, thầy mẹ sẽ giúp con toại nguyện. Tu hành trước để giác ngộ bản thân, sau để cứu độ chúng sinh cũng là việc rất tốt. Nhưng trước khi đi tu, thầy mẹ muốn con có được một mớ kiến thức vững vàng để việc tu học chóng tiến bộ hơn. Vậy, con nên tiếp tục học hành một thời gian nữa. Khi con lên mười tám, thầy mẹ sẽ chính thức đưa con vào chùa.

    Nghe thầy mẹ khẩn khoản đề nghị như vậy, Thị Chỉ hết sức áy náy. Hóa ra nàng đã làm phiền thầy mẹ mình nhiều đến thế. Nàng rưng rưng nước mắt thưa:

    - Con xin lỗi đã làm thầy mẹ buồn. Nay con xin tuân lời thầy mẹ dạy bảo. Chỉ mong thầy mẹ thương con mà cho con được toại nguyện như thầy mẹ đã hứa.

    Vợ chồng ông Trung vui vẻ:

    - Ừ, Thầy mẹ đã hứa thì thầy mẹ giữ lời chứ!

    Thế rồi nàng cố gắng gạt bỏ mọi ưu phiền để chuyên tâm tiếp tục học hành. Mọi sinh hoạt của nàng cũng dần trở lại bình thường. Tuổi con gái vừa đến độ mãn khai đã khiến nàng trở nên xinh đẹp mặn mà lạ lùng.


    oOo


    Sau khi lên ngôi, vua Khải Định thi hành chính sách đẩy lùi ảnh hưởng Hán học trong công cuộc trị dân như ý muốn của người Pháp. Khoa thi Hương năm 1915 đã là khoa thi chữ Hán cuối cùng ở Bắc kỳ. Ở Trung kỳ cũng đã được ấn định khoa thi Hương cuối cùng sẽ tổ chức năm 1918 và khoa thi Hội cuối cùng sẽ tổ chức năm 1919. Muốn đẩy lùi Hán học thì phải phát triển Tây học và Quốc học để thay thế.
    Lúc bấy giờ ở Huế, bậc trung học chỉ mới có một trường Quốc Học nhưng lại chỉ dành cho nam sinh. Nữ giới vẫn chưa có môi trường thuận tiện để phát triển học vấn, tài năng. Đó cũng là một nỗi trăn trở lớn của những người có lòng. Về sau, với sự đồng ý của toàn quyền Albert Sarraut, vua Khải Định đã quyết định thành lập một trường nữ trung học ở Huế. Trường được lấy chính niên hiệu của Phụ vương ngài để đặt tên: Trường Nữ Trung Học Đồng Khánh.

    Lễ đặt viên đá đầu tiên được ấn định vào ngày 15/7/1917. Hôm đó cả vua Khải Định lẫn viên Toàn quyền Albert Sarraut đều đến dự. Khi vua Khải Định cắt băng mở màn việc xây dựng ngôi trường, ngài đã sững sờ trước vẻ đẹp hút hồn của cô nữ sinh dâng chiếc kéo cho ngài. Khi xong việc, ngài hỏi đám tùy tùng:

    - Người dâng chiếc kéo cắt băng là con nhà ai mà khéo quá như rứa hè?

    Một cận thần tâu:

    - Muôn tâu, đó là con gái của Thượng thư Bộ Học Hồ Đắc Trung tên là Hồ Thị Chỉ.

    - Ả có chồng chưa?

    - Muôn tâu, chắc là chưa. Trước đây phế vương Duy Tân đã đi hỏi nhưng sau lại thoái hôn.

    - Được, không cần, rồi trẫm sẽ biết thôi.

    Sau khi cho điều tra lý lịch của Hồ Thị Chỉ xong, vua Khải Định triệu Hồ Đắc Trung vào cung để hỏi ý. Vua thành thật nói:

    - Hôm nay trẫm triệu khanh vào đây để bàn cùng khanh một chuyện rất quan trọng. Trẫm nghe tiếng khanh có một ái nữ là Thị Chỉ rất giỏi chữ Hán lẫn chữ Pháp. Trong lần cắt băng khai mạc công trình xây dựng trường Nữ Trung Học Đồng Khánh, trẫm đã hân hạnh thấy được dung nhan nàng. Đúng là một mỹ nhân sắc nước hương trời, rất xứng ở địa vị mẫu nghi thiên hạ. Nay trẫm cũng rất cần một người vợ nói giỏi tiếng Pháp để tiện bàn các việc cơ mật. Trước đây trẫm đã có một người vợ là con gái của thượng thư kiêm Cơ Mật Viện đại thần Trương Như Cương. Nhưng bà ấy đã xin về nhà ba năm rồi. Nay cưới ái nữ của khanh về trẫm sẽ phong làm hoàng phi. Trẫm cũng đã có một người con trai với một cung nữ nay đã lên bốn, cậu bé này sẽ là con của hoàng phi. Trẫm nghĩ đây là một việc tốt cho khanh nên báo trước để khanh hay.

    Ông Trung nghe vua nói thì tá hỏa tam tinh vì ông biết chắc Thị Chỉ khó mà chấp nhận cuộc hôn nhân này. Và dẫu Thị Chỉ chấp nhận đi nữa thì nàng sẽ đau khổ vô cùng. Nhưng mệnh vua làm sao dám cãi. Bất đắc dĩ ông phải quì xuống lạy tạ ơn:

    - Đa tạ hoàng thượng.

    Vua Khải Định nói:

    - Trẫm sẽ triệu vợ chồng khanh một lần nữa để bàn định về lễ hỏi, lễ nạp phi. Giờ cho phép khanh trở về.

    Vừa về tới dinh, ông Trung lật đật gọi vợ vào phòng riêng thuật lại câu chuyện. Bà Trung khóc thút thít:

    - Bây giờ làm sao? Tôi đã linh cảm biết cái số con Chỉ nó khốn đốn như thế. Nó đã chịu khổ quá nhiều rồi! Tôi làm sao dám mở miệng để khuyên ép nó nữa?

    Ông Trung thở dài:

    - Lệnh vua không tuân có khác chi làm phản. Không khuyên ép nổi nó thì cuộc sống của cả nhà mình lâm cảnh nguy hiểm bấp bênh ngay. Bà thử gọi con Hạnh nói rõ chuyện với nó may ra nó khuyên giải chị nó được. Con Hạnh khôn ngoan, lý lẽ sắc bén, chị em nó lại thân thiết nhau, hi vọng nó có thể thành công.

    Thế là bà Trung gọi Thị Hạnh vào nói chuyện...

    Quả đúng khi biết yêu cầu của vua Khải Định, Hồ Thị Chỉ đã đay đảy không chịu, một mực đòi đi tu. Khi ấy Thị Hạnh mới ra tay thuyết phục:

    - Chị nghe em nói đây. Chị là người có hiếu, chị lại rất thông suốt truyện Kiều, sao chị lại để chữ hiếu của chị thua sút nàng Kiều như thế? Lệnh của vua ra mà không tuân thì có khác chi làm phản? Mà người chịu trận trước hết là thân phụ chứ còn ai nữa? Chị có tưởng tượng nổi nỗi khổ của thân phụ không? Mà dù thân phụ được tha đi nữa thì cũng chẳng còn được dùng. Các anh sẽ phải bãi chức hoặc nghỉ học hết. Thầy và các anh mình đều là hạng văn nhân yếu đuối liệu có thể về đi cày để nuôi thân được không? Nàng Kiều dám hi sinh tình yêu đôi lứa, bán mình chuộc cha sao chị lại không chịu hi sinh để cứu cha và cứu cả gia đình đang rơi vào vòng hoạn nạn? Nếu chị đã phát nguyện đi tu, em xin kế tục thực hiện ý nguyện đó giúp chị.

    Nhờ Thị Hạnh kiên nhẫn ỉ ôi thuyết phục mấy đêm, cuối cùng Thị Chỉ đành nghe lời.

    Triều đình đã tổ chức lễ nạp phi rất long trọng vào ngày 3/12/1917. Hồ Thị Chỉ đã được phong Nhất giai Ân phi, ngôi vị cao nhất trong hàng thê thiếp của nhà vua dưới triều Nguyễn (trừ hai đời Gia Long và Bảo Đại).

    Từ đó, Hồ Ân phi luôn xuất hiện bên cạnh vua trong những buổi tiếp tân, yến tiệc với người ngoại quốc. Nhờ vẻ xinh đẹp, hiểu biết rộng rãi, thông thạo tiếng Pháp, lại ăn nói khôn khéo nên bà đã giúp vua Khải Định gây được nhiều cảm tình với khách.

    Tuy vậy, đó chỉ là bề mặt của cuộc sống mà vua Khải Định cần thiết. Bên trong hẳn ai cũng đoán ra cái cảnh đồng sàng dị mộng. Vua Khải Định thì bất kham với đàn bà, Ân phi lại luôn bị hình bóng người xưa khuấy động...

    Chín năm sống với vua Khải Định, Ân phi chẳng sinh được mụn con nào.

    Năm 1925, vua Khải Định qua đời. Cậu bé bốn tuổi thời Ân phi mới vào cung giờ là Đông cung Thái tử Vĩnh Thụy lên kế vị tức vua Bảo Đại. Vua Bảo Đại đã làm một cuộc thay đổi lớn về nghi thức nội cung: phong cho mẹ đẻ ngài là Hoàng Thị Cúc làm Đoan Huy Hoàng thái hậu (tức bà Từ Cung). Theo nghi thức cũ thì bà Ân phi Hồ Thị Chỉ chính là mẹ đích của vua Bảo Đại và ở bậc trên của cung nữ Hoàng Thị Cúc - mẹ đẻ vua Bảo Đại. Thế mà nay bà đã bị gạt ra ngoài một cách phũ phàng. Chắc hẳn sự thay bậc đổi ngôi này đã gây xáo trộn tâm tư bà không ít. Bà không được tôn phong, phải về sống ở cung An Định bên bờ sông An Cựu. Về sau bà dời về trú ngụ ở một ngôi biệt thự trên đường Phan Đình Phùng.

    Ra khỏi nội cung, Ân phi không còn bận rộn công việc như trước. Càng rảnh rang bà càng dễ dàng thả hồn trôi về quá khứ. Càng hồi tưởng những kỷ niệm xa xưa bà càng thương nhớ vị vua thiếu niên một lòng vì nước vì dân. Ngày kia, trong một lần ghé về thăm thân phụ, tình cờ thấy mấy tờ báo Nam Phong, bà lấy một tờ lật ra xem và hết sức xúc động khi đọc chùm thơ liên hoàn mười bài Khuê Phụ Thán của tác giả Thượng Tân Thị. Bà đã bật khóc khi đọc đến đoạn:


    “Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự,
    Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương
    Quê người đành gởi thân trăm tuổi
    Cuộc thế mong gì nợ bốn phương!”


    Khi từ giã thân phụ bà đã xin số báo đó đem về. Bà đã nâng niu, giữ gìn nó như một bảo vật, lâu lâu lại đem ra đọc lại.

    Có lẽ vì nội tâm chịu đựng quá nhiều áp lực, bà dần trở nên lẩn thẩn. Bà quên đi cả việc chăm sóc cho chính mình. Bà thường ăn mặc lôi thôi, không đoái hoài đến chuyện trang điểm. Nhiều lần bà tự làm bánh bột lọc hoặc bánh nậm đem ra chợ An Cựu bán. Một thời gian sau bà thật sự lâm vào cơn bệnh tâm thần...


    Ngô Viết Trọng

  4. #84
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,193

    Cổ Thành Quảng Trị...Trị Thiên Vùng Dậy
    -
    Năng Văn Lê


    48 giờ nghỉ dưỡng quân tại hậu cứ, ở ngã tư An Sương, Hốc Môn, đối với tôi, ra Sài Gòn làm một chầu cà phê ở quán Mai Hương, Pagode thế là đủ.
    Khi chưa kết hôn, 7 ngày phép với tôi là… quá dài, tới ngày thứ tư, tôi đã thấy bồn chồn, ngày thứ năm, tôi nhớ đồng đội, nhớ đơn vị… Rồi tôi không thể nghỉ phép hết ngày thứ sáu. Tôi về đơn vị, không khí ở đó mặn nồng hơn, vui vẻ hơn, so với những ngày phép ở ngoài, sao nó lạt lẽo, đôi khi vô vị. Đúng vậy, chẳng có mùi vị gì hết. Vì vậy, khi người bạn học cũ hỏi tôi:

    “Mày mới từ tử địa An Lộc về, giờ lại ra miền Trung, bộ không ngán súng đạn sao?”
    “Bây chừ thì chưa, bây chừ tao thấy đi hành quân với đơn vị, anh em, mà lại còn về Huế nữa, là… vui lắm.”






    Với cái vui ấy, tôi cùng anh em 81 Biệt Cách Nhảy Dù lên mấy chiếc C-130 của quân đội Mỹ, bay ra phi trường Phú Bài ngày 28 tháng Sáu, năm 1972.
    Chúng tôi phải đi gấp vì lệnh của tổng thống đấy.

    Hôm đại lễ kỷ niệm Ngày Quân Lực 19 tháng Sáu năm 1972, tổng thống đọc diễn văn và ra lệnh cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, trong vòng 3 tháng, phải chiếm lại Cổ Thành Quảng Trị. Kể từ hôm tổng thống ra lệnh, đến ngày chúng tôi lên máy bay chỉ mới 9 ngày. Ngoài ấy, Tướng Ngô Quang Trưởng đang là tư lệnh chiến trường, ngoài các đơn vị của Quân Đoàn I, thì các Sư Đoàn Dù, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến cũng đã có mặt rồi. Không những quân đội chúng ta giữ được phòng tuyến sông Mỹ Chánh, mà lại còn đang phản công ra phía Bắc con sông nầy.

    Xuống ở phi trường Phú Bài, chúng tôi được quân xa đưa thẳng ra PK.17, tức là Đồn Cây Số 17, như dân chúng thường gọi. Đây là căn cứ của Trung Đoàn 3, Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Trung đoàn đã ra trận, chỉ còn một ít binh sĩ ở lại phòng thủ doanh trại.

    Đêm đó, như thường lệ, trước mỗi cuộc hành quân, chúng tôi nhận 7 ngày lương khô và được Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn chỉ thị nhiệm vụ cho từng đại đội. Ông đã được vinh thăng đặc cách đại tá tại mặt trận Bình Long, An Lộc, cũng như về sau này tất cả quân nhân khác trong đơn vị có tham dự tại chiến trường An Lộc, mỗi người đều được thăng một cấp.

    Tôi, đại đội trưởng Đại Đội 4, cùng Đại Úy Nguyễn Ích Đoan, đại đội trưởng Đại Đội 1, được lệnh đưa hai đại đội ngày mai lên đường tăng phái cho Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù của Thiếu Tá Lê Văn Mễ. Đơn vị nầy mới từ Charlie về, vừa bổ sung tái huấn luyện, ra Quảng Trị hồi đầu tháng 5, ngay sau khi thành phố Quảng Trị bị mất, nay đang hành quân từ phòng tuyến Mỹ Chánh, tiến dọc theo các ngọn đồi sát chân núi Trường Sơn, phía Tây Quốc Lộ 1. Mục tiêu của Tiểu Đoàn 11 Dù là Nhà Thờ La Vang. Tiểu Đoàn 11 Dù đã hoàn thành nhiệm vụ.

    Đại đội tôi được quân xa chuyển đến gần ngã ba đường vào xã Ưu Điềm, từ đây chúng tôi men theo hai bên Hương Lộ, để di chuyển về hướng Mỹ Chánh, vượt qua cầu Mỹ Chánh vào khoảng trưa, Đại Đội phân làm 2 cánh, tiến ra hướng Bắc, ở hai bên Quốc Lộ mới do Công Binh Mỹ vừa xây xong. Đường nầy không đi qua Diên Sanh, Phủ Lỵ Hải Lăng cũ. Trong một ngày đường là chúng tôi tới khu vực Đại Lộ Kinh Hoàng.

    Một khung cảnh quá khủng khiếp hiện ra trước mắt, đã làm cho máu tôi ứa trào lên. Tại sao Việt Cộng tàn ác đến như vậy?
    Đó là câu hỏi đầu tiên hiện ra trong trí tôi. Những cái ác mà tôi không thể tưởng tượng nỗi, không thể chịu đựng nỗi, không thể chấp nhận được. Tôi vốn là một Phật tử mà. Nhưng dù là một Phật tử, máu tôi không thể không sôi sục dâng trào trước cảnh tượng bất nhân, tàn ác đó.

    Trên mặt đường nhựa, xác người dân nằm la liệt, ngổn ngang. Thây người chết ở mọi tư thế khác nhau, nằm sấp, nằm ngửa, nghiêng. Xác thì chân tay dang ra, xác thì chân hay tay co lại. Xác nầy chồng lên xác kia, dồn đống, có xác một mình co quắp bên lề đường… Cái mất đầu, cái mất tay, mất chân.

    Có xác đàn ông, có xác đàn bà, có xác trẻ em, có xác không còn nhìn ra là đàn ông hay đàn bà nữa. Không thể nào tả hết được!!!
    Đoạn đường Việt Cộng giết người nầy, xảy ra ngay ngày Việt Cộng chiếm thành phố Quảng Trị, ngày 1 tháng Năm, năm 1972 và những ngày tiếp sau đó.

    Vậy là đồng bào nằm đây đã gần hai tháng, da thịt đã rữa. Có nơi xương trắng đã bày ra, sọ, tay chân hay xương sườn. Dù quân nhân mặc đồ trận hay thường dân, thì đồ trận, áo quần cũng đã phai màu, mục nát. Mái tóc dài của mấy mẹ, mấy chị, mấy cháu đã tróc khỏi sọ não, bay là đà theo từng cơn gió thoảng, trên mặt cát còn xông đầy mùi tử khí.
    Họ là những người trốn chạy, dù họ là dân sự hay quân nhân. Họ trốn chạy Cộng Sản. Họ trốn chạy chiến tranh. Họ trốn chạy tên bay đạn lạc, dù không biết rõ của phe bên nào. Giết chết những người trốn chạy! Vậy là vô nhân đạo, là vô lương tri, là kẻ giết người dã man, họ đã đi tới chỗ tận cùng của lương tâm.

    Trên mặt đường và cả hai bên vệ đường, bên cạnh xác người là lỗ chỗ các hố sâu của đạn súng cối, đại bác, hỏa tiễn mà giặc cộng đã nhẫn tâm rót xuống để giết hại đồng bào và những trẻ thơ vô tội.





    (Tấm hình quá nhậy cảm nên phải làm mờ đi - HV)

    Xe cộ nằm dọc theo đường đi, mũi xe hướng về Nam, xe quân đội, xe dân sự, xe hàng, xe đò chở khách, xe lớn nhỏ đủ các loại. Nhiều chiếc bị cháy sạm đen, nhiều chiếc bị đạn pháo bắn hư hại một phần hay hoàn toàn. Rải rác đây đó là các loại xe gắn máy, Vespa, Lambretta, Honda, Mobylette và khá nhiều xe đạp, hầu hết, bị hư, cong vành bể lốp chỉ còn là đồ phế thải.

    Dù là một người lính trận, từng vào sinh ra tử, tôi không dám nhìn kỹ những cái xác ấy. Kinh hoàng quá! Kinh hoàng quá! Tàn ác quá! Tàn ác vô cùng tận!!!
    Chúng tôi lặng yên di chuyển trong đau buồn và tức giận, vừa sẵn sàng súng đạn để phản công nếu địch phục kích, lại cũng vừa để tránh địch phát hiện. Chúng sẽ pháo, pháo dồn dập nếu thấy chúng tôi.

    Đêm mùa Hè, trời tối chậm, chúng tôi được lệnh dừng quân nghỉ qua đêm. Tôi cho lệnh các trung đội đào hố cá nhân phòng thủ ở cả bốn hướng, trải rộng dọc theo hai bên Quốc Lộ 1, để tránh tổn thất khi bị địch pháo kích, đồng thời là để phản ứng ngay nếu bị địch tấn công. Tôi và Ban Chỉ Huy Đại Đội đóng cạnh một chiếc xe GMC của phe ta bỏ lại.
    Đêm trôi đi trong bóng tối tĩnh mịch, thỉnh thoảng có ngọn gió thổi qua, tôi thấy dễ chịu đôi chút. Nhưng suốt cả đêm, tôi chỉ chợp mắt từng chặp. Tôi không sợ chết, nếu thần chết có đến, tôi sẽ chống lại, như cái bản năng sinh tồn của muôn loài muôn vật.

    Chính tôi đã viết trên tường Đài Tử Sĩ ở An Lộc: “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Nói câu đó, và khắc viết lại câu nói đó của người xưa, tức là tôi đã chấp nhận cái kỷ kiến ấy rồi, có chi mà tôi phải thắc mắc.
    Nhưng những thây người nằm ngổn ngang đang rửa mục, trên đoạn đường đi qua hồi chiều ám ảnh tôi, làm tôi không ngủ được. Chiến tranh là tàn ác. Những người đi đánh trận như tôi, vì Tổ Quốc, vì đồng bào, tôi chấp nhận nó. Nhưng với những người nằm chết kia, tôi thấy tội nghiệp cho họ, hay như câu Mạ tôi thường nói: “Tội vô cùng”. Tội cho họ quá, không làm sao một con người còn có lương tâm, có thể chấp nhận được.

    Sáng hôm sau thức dậy, nhìn vô thùng xe, nhìn chung quanh lại đầy rẫy xác người chết khô, nằm co quắp, nằm dọc dài trên thảm cát, bên vệ đường.
    Thật là quá thương tâm, não ruột. Tôi không kềm chế được nỗi xúc động, hai dòng nước mắt ứa trào.

    Đại đội tiếp tục tiến ra hướng Bắc, tới một cây cầu, có phải là Cầu Dài như tên dân chúng thường gọi, đã bị sụp đổ, chúng tôi phải trầm mình lội nước vượt qua sông.
    Tôi xem lại bản đồ, bên cạnh Quốc Lộ 1, về phía trái hướng Tây, song song với Quốc Lộ là đường xe lửa Saigon-Đông Hà. Bên kia đường xe lửa là khu đồi hoang, lúp xúp cây dại, cây mua và cây sim. Có lẽ vùng nầy tới mùa hoa nở, hoa mua và hoa sim phủ kín ngọn đồi. Nó giống như những ngọn đồi miền Trung, Bình Trị Thiên hay Thanh Nghệ Tĩnh vậy. Đây là “Những đồi hoa sim, màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt.” Tiếc rằng, tôi cũng là người chiến binh, không có thì giờ lang thang qua những đồi sim nầy để thấy màu tím của quê hương.

    Di chuyển thêm chừng cây số nữa, bên trái là một căn cứ pháo binh của Sư Đoàn Dù, tình cờ tôi gặp Chuẩn Úy Hoàng Công Thức, Khóa 25 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, là em một người bạn học cùng xóm, con trai Thầy Hoàng Văn Ngũ, giáo sư Sinh Ngữ Trường Trung Học Công Lập Nguyễn Tri Phương, Huế. Anh là Tiền Sát Viên Pháo Binh của Sư Đoàn Nhảy Dù, đang hoạt động vùng nầy.

    Sau cùng, đại đội tôi cũng đã tiếp cận tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù, tôi trình diện Mê Linh, tức là Thiếu Tá Lê Văn Mễ, tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 11 Dù. Cùng gặp Mê Linh với tôi sau đó là Đại Úy Nguyễn Ích Đoan, đại đội trưởng Đại Đội 1 Biệt Cách Nhảy Dù.






    Mê Linh giao nhiệm vụ cho hai đại đội Biệt Cách Dù là tái chiếm Nhà Thờ La Vang, tên mới là Vương Cung Thánh Đường La Vang: “Đại đội các anh phải chiếm lại nhà thờ nầy và giữ nó, không cho địch chiếm lại.” Có nghĩa là Dù đã chiếm nó. Đó là công lao của “Hùng Móm,” nhưng Hùng phải bỏ nó lại đi tiếp xuống để đánh vào thành phố Quảng Trị, thừa cơ hội đó, VC chiếm lại mục tiêu nầy.

    Con đường tiến quân của Cộng Sản đánh vào Quảng Trị là con đường từ Ba Lòng xuống Như Lệ, Phước Môn, bên hữu ngạn Sông Thạch Hãn, theo một con đường bỏ hoang đã lâu, có cái tên cũ là đường Bảo Đại. Nó không giống như con đường Trần Lệ Xuân ở Phước Long, con đường đi lấy gỗ rừng của dân xe be khai thác gỗ.
    Ở đây, đường Bảo Đại là con đường đi săn của nhà vua trước năm 1945, khi ông vua ham săn bắn nầy còn ngồi trên ngai vàng. Quân Cộng Sản đã theo con đường này, đưa quân chiếm lại Nhà Thờ La Vang. Nó cũng có nghĩa là khi Tiểu Đoàn 11 Dù từ hướng Tây đánh vào thành phố, thì coi như Tiểu Đoàn đưa lưng ra cho địch từ sau đánh tới. Trong ý nghĩa đó, hai đại đội Biệt Cách Dù có nhiệm vụ lấy lại Nhà Thờ La Vang, và giữ nó là nhằm mục đích bẻ gãy ý đồ của địch.

    Bây giờ chúng tôi lại phải áp dụng chiến thuật sở trường: Đánh đêm.
    Vị trí giữa địch và ta đã thay đổi. Trước kia, chúng ta ở trong đồn, VC công đồn, chúng phải đánh ta vào ban đêm, chúng ta khó phát hiện địch. Bây giờ thì chúng ta phải công đồn, chúng ta cũng đánh đêm, địch không thể phát hiện được ta.

    Nhà Thờ La Vang mặt quay về hướng Đông. Đại Đội 1 đánh từ hướng Tây Tây Nam, phía có Hang Đá Đức Mẹ. Đại Đội 4 tôi cũng đánh từ hướng Tây, Tây Bắc, phía có con đường đi lên Nhà Thờ Phước Môn ở phía Tây Nhà Thờ La Vang, gần chân núi Trường Sơn hơn.

    Vào nửa đêm, chúng tôi âm thầm hai cánh quân tiến sát vòng đai Nhà Thờ La Vang, vừa dàn quân lại gặp một trận mưa lớn, chúng tôi án binh bất động.
    Trời vừa sáng, dứt cơn mưa, quan sát các bố phòng của địch, tôi điện báo cho Đại Úy Đoan để phối hợp tác chiến, rồi bắt đầu phát lệnh xung phong, tấn công chớp nhoáng, ào ạt, địch quá bất ngờ, nên một số đã bị tiêu diệt, một số vất súng đầu hàng, vài ba tên tháo chạy vào bên trong nhà thờ, dùng B.40, AK.47 tác xạ chống trả, nhưng đã bị cánh quân hướng Tây Bắc của Đại Đội 4 chúng tôi ném lựu đạn triệt hạ 20 tên và bắt sống 5 tên. Chúng tôi 03 tử thương và 12 bị thương. Thu dọn chiến trường xong, Đại Đội 1 được lệnh ở lại bố phòng Nhà Thờ La Vang. Đại Đội tôi tiếp tục tiến về hướng Đông Đông Bắc để thanh toán mục tiêu kế cận là Chi Khu Mai Lĩnh.

    Chi Khu Mai Lĩnh, thuộc Quận Mai Lĩnh, tọa lạc trên đoạn đường rẽ, tên thường gọi là Ngã Ba Long Hưng, là con đường cũ đi vào thành phố, phía ngoài sân vận động Quảng Trị cũ, kế cận trường Trung Học Nguyễn Hoàng.

    Trên con đường tiến quân từ Nhà Thờ La Vang đến Chi Khu Mai Lĩnh, đại đội tôi bị tử thương một khinh binh và một tiểu đội trưởng vì đụng chốt VC tại ngã ba đường La Vang và Quốc Lộ 1. Nhổ chốt là sở trường của Biệt Cách Nhảy Dù, theo chiến thuật của Đại Tá Huấn. Pháo Binh cho nổ một tràng vào vị trí địch, buộc địch phải lụt đầu xuống, núp trong các hố cá nhân. Các viên đạn cuối là đạn lép. Trong khi, nghe tiếng đạn đi, VC còn núp, thì chúng tôi biết đó là đạn lép, không có gì nguy hiểm, liền nhanh chóng áp sát chỗ chúng ẩn núp, nhờ đó, chúng tôi thanh toán bọn chúng không mấy khó khăn.

    Đại đội tôi cũng áp dụng chiến thuật đánh đêm để tiến chiếm Chi Khu Mai Lĩnh. Đơn vị VC chốt lại đây không đông, khoảng 15 hay 20 tên, chúng nằm trong các công sự có sẵn trong Chi Khu để chống trả, và vì thế mà chúng đã không ngờ binh sĩ của đại đội tôi, một nửa ém quân bên ngoài, thỉnh thoảng tác xạ súng phóng lựu M.79 vào bên trong Chi Khu, một nửa lợi dụng trời tối đen như mực đã bò vào nằm sát bên ngoài công sự, khi chúng tác xạ chống trả đã để lộ mục tiêu, nên bị chúng tôi ném lựu đạn giết chết và làm trọng thương hầu hết.

    Ở lại trấn thủ Chi Khu Mai Lĩnh được hai hôm, đại đội tôi được lệnh tăng phái cho Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, tiểu đoàn trưởng là Thiếu Tá Bùi Quyền, Thủ Khoa Khóa 16 Võ Bị Đà Lạt, đang hành quân ở phía Đông Thành Cổ. Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn đang đóng tại khu vực Thôn An Thái cách Cổ Thành khoảng 3 km về hướng Đông Nam. Trình diện danh tánh, cấp bậc, chức vụ với tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 5, Thiếu Tá Bùi Quyền nhìn tôi nói đùa:

    “Tôi thì nhỏ con, Trung Úy Lực thì to con, vậy tôi gọi ông là Lực Đô nhé, à… à… mà Lực Đô nói lái là Lộ Đức, vậy thì Lộ Đức là ám danh đàm thoại vô tuyến tôi đặt cho trung úy trong cuộc hành quân này, trung úy, có chịu không?”

    Nói xong, Thiếu Tá Quyền cười vui vẻ vì cái sáng kiến độc đáo của ông. Nhờ ông, mà cái biệt danh Lộ Đức đã đeo đẳng theo tôi từ đó cho tới bây giờ.
    Hôm sau Đại Đội 3 của Đại Úy Phạm Châu Tài cũng được điều động đến tăng cường cho Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù.

    Thiếu Tá Bùi Quyền họp các đại đội trưởng Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù và Biệt Cách Dù để ban lệnh hành quân. Ông giao cho tôi nhiệm vụ tấn công chiếm cứ nhà thờ Hạnh Hoa Thôn, thuộc làng Cổ Thành, quận Triệu Phong. Đai Đội 3 là lực lượng trừ bị. Thôn nầy ở bên sông, đẹp như cái tên của nó, nằm trên con đường đất hẹp, từ phía Đông Thành Cổ ra tới bờ sông Vĩnh Định, Thôn Hạnh Hoa có những ngôi nhà cổ, vườn rộng, cây lá xanh tươi, nhiều gốc mai lưu niên, có thể là trồng từ lâu lắm, đã mấy chục đời.
    Nhà thờ Hạnh Hoa nhỏ, đối diện với bên kia đám ruộng nhỏ là nhà thờ Tri Bưu cao lớn, có tháp chuông vươn khỏi những ngọn tre làng.
    Địch đang chiếm cứ trong nhà thờ.

    Đánh trận ở đây, khi thấy địch chiếm đóng nhà thờ, tôi thường nhớ lại một câu trong bài hát: “Hoa trắng thôi cài trên áo tím”:

    “Từ khi giặc tràn qua Xóm Đạo,
    Anh làm chiến sĩ giữ quê hương”.

    Vâng, tôi là người chiến sĩ giữ quê hương và tôi đang đuổi giặc ra khỏi xóm quê nầy, mặc dù tôi chẳng có một em nhỏ nào cả “để nghe khe khẽ lời em nguyện” mà chỉ có “luyến thương chan chứa Tình Quê Mẹ” mà thôi.

    Hình như quân Cộng Sản chỉ quen với chiến thuật tấn công hơn là chiến thuật phòng thủ. Nhờ vậy chúng tôi lần nữa sử dụng kỹ thuật đánh đêm. Tôi bung bốn trung đội men theo các nhà dân bị đổ nát, song hành tiến sát nhà thờ Hạnh Hoa Thôn. Lại một trận mưa rào đổ xuống đã giúp xóa bớt tiếng động di hành của chúng tôi, và nhờ đó mà đại đội đã vào chiếm cứ nhà thờ không một tiếng súng nổ. Đáng buồn là khi trời hừng sáng, địch đã nổ súng phản công và trong lần đụng độ này, tôi mất người hiệu thính viên mà tôi rất thương mến: Hạ Sĩ Chấn. Anh đã hy sinh ngay khi đang cầm ống nghe liên lạc báo cáo với Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù, thì bị một viên đạn địch bắn trúng đầu.

    Vào ngày hôm sau, từ tờ mờ sáng đại bác của VC tác xạ liên hồi từ hướng Tây vào các vị trí phòng thủ của các đơn vị Nhảy Dù, đại đội tôi và rải rác quanh khu vực phía Đông của Cổ Thành. Vừa ngưng pháo thì VC bắt đầu mở cuộc tấn công quy mô với một đơn vị Cộng quân đông hơn quân số đại đội tôi tới khoảng 5 lần.

    Bọn chúng từ một ngôi làng ở hướng Bắc Thôn Hạnh Hoa, ồ ạt xung phong biển người tấn công vào nhà thờ Tri Bưu và nhà thờ Hạnh Hoa. Chúng tôi sử dụng hết hỏa lực của mình để ngăn giặc. Nhưng kỳ lạ chưa? Bọn chúng như điên cuồng, như rồ dại, như uống bùa mê thuốc lú, hết lớp nầy ngã xuống, lớp sau tiến lên. Lớp sau ngã xuống, lớp sau nữa tiến lên. Không những chúng tôi ngạc nhiên, thấy kỳ lạ mà còn kinh hoảng nữa, tự hỏi: “Sao bọn chúng ngu xuẩn, điên rồ vậy?”. Cứ tình trạng nầy, đại đội tôi, với quân số ít ỏi, chưa kịp bổ sung sau trận An Lộc, sẽ bị chúng tràn ngập mất thôi.

    Nhưng cuối cùng, trước hỏa tập TOT của Pháo Binh Dù và Sư Đoàn 1, cùng sự chiến đấu dũng cảm của các Đại Đội Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù và Đại Đội 4 chúng tôi. Bọn chúng quay đầu tháo chạy như lũ chuột, bỏ lại trên bãi chiến trường la liệt xác chết của đồng bọn, của những tên giặc cộng cuồng tín, vô thần, mất hết cả lương tri, nhân tính.
    Tôi ngồi nghỉ mệt, lật tấm bản đồ ra xem lại vị trí của mình, tôi bỗng chợt nhớ câu chuyện của một người bạn cũ kể lại. Tết năm Mậu Thân, VC dùng con đường nầy để tiến quân đánh vào Thị Xã Quảng Trị, ngay tại điểm nầy, chỗ tôi đang ngồi, Thôn Hạnh Hoa, VC đụng phải một Tiểu Đoàn Nhảy Dù và thiệt hại không ít. Nhờ đó mà Quảng Trị được yên hơn Huế là vì vậy.

    Hèn chi, VC cố chiếm lại nhà thờ Hạnh Hoa Thôn, là vì nó nằm trên con đường chiến thuật. Mất nhà thờ Hạnh Hoa Thôn, là chúng mất con đường tiếp cận với binh lính của chúng đang cố thủ trong Cổ Thành. Giữ được nhà thờ Hạnh Hoa Thôn là đại đội tôi đã đóng góp sức mình cho công việc tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị.
    Tình hình chiến sự ở khu vực cận Cổ Thành vẫn còn sôi động, súng đạn từ trong bắn ra từ ngoài bắn vào nổ liên tục. Tiểu Đoàn 5 Dù được tăng cường thêm Đại Đội 1 và Đại Đội 2 Trinh Sát Dù, đang nỗ lực tấn công chiếm Cổ Thành. Thiếu Tá Bùi Quyền ra lệnh cho Đại Đội 3 và Đại Đội 4 Biệt Cách Dù, cùng tiến lên chiếm lĩnh phòng thủ tại Nhà Thờ Tri Bưu, để phụ trách sườn cánh phải, hướng Bắc của Cổ Thành.

    Tôi dẫn đại đội thi hành nhiệm vụ. Chẳng còn thằng cùi hủi nào trong nhà thờ Tri Bưu cả. Bọn chúng đã bị Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù triệt hạ hầu hết trong lần tập kích trước, nên rút chạy cả rồi.
    Ngay cả nhà dân chúng chung quanh nhà thờ, dân thì đã di tản đã lâu, từ đầu trận đánh, bây giờ chẳng còn thằng nào bén mảng đến đây.

    Tôi vẫn cho binh sĩ lục soát kỹ ở nhà thờ, không có gì hết, ngoài một số xác chết của đám “sinh Bắc tử Nam” bị sình thối, nằm vương vãi một vài nơi, trong và ngoài khuôn viên nhà thờ. Nhưng tôi rất buồn khi nhìn lên Bàn Thờ Thánh, tượng Chúa Giê Su còn đó, một mình trên Thập Giá. Cha xứ và con chiên chạy trốn giặc Cộng hết cả rồi. Cảnh tượng ấy làm cho tôi thấy đau lòng hơn cả câu thơ của Phạm Văn Bình: “Chúa buồn trên Thánh Giá. Mắt nhạt nhòa mưa qua!” Tôi không khóc, vốn dĩ từ nhỏ tôi ít khi khóc. Nhưng xúc động thì tình cảm của tôi không thua kém ai, nhất là khi tôi nhìn lên gác chuông nhà thờ. Gác chuông đã bị đổ sập, chỉ còn một nửa. Là một Phật tử, không mấy khi tôi vào quì lạy trong nhà thờ để nhìn lên tượng Chúa, nhưng gác chuông nhà thờ là một hình ảnh không xa lạ gì với số đông người Việt Nam. Vì vậy, khi nhìn cái gác chuông bị gãy đổ, lòng tôi xúc động hơn. Nơi đây không còn tiếng chuông nhà thờ nữa, tiếng chuông rộn rã mà tôi đã từng nghe khi tôi còn tuổi ấu thơ.

    Đại đội được lệnh nằm án ngữ tại nhà thờ Tri Bưu, ban đêm bung quân ra bên ngoài, để ngăn chặn địch có thể trở lại quấy phá. Trong một lần kích đêm, tiểu đội tiền đồn của Trung Sĩ Khưu Công Quí đã bắn tử thương 02 giặc cộng đang mò mẫm đi vào hướng khu nhà đổ nát của dân, tôi nghĩ chắc để tìm kiếm lương thực (?). Không lâu sau đó, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù ra lệnh Đại Đội 3 và 4 chúng tôi đưa quân về hướng Đông, tiếp cận Cổ Thành. Có đơn vị Nhảy Dù đang chờ ở đó.

    Từ nhà thờ Trí Bưu, đại đội đi lom khom, lẩn khuất trong các khu vườn nhà dân, từ vườn nầy qua vườn khác, để tránh địch phát hiện. Tới phía ngoài Cổ Thành, trong vị trí bố phòng của các đại đội Nhảy Dù, tôi nhìn thấy có một số binh sĩ Nhảy Dù tử thương, bị thương, đang nằm trên các băng ca, chưa kịp di tản. Cũng vào lúc đó hàng loạt trái đạn do Pháo Binh tác xạ, rồi tiếp theo sau là các chiến đấu cơ A.37, Skyraider của Không Quân Việt Nam đang thay nhau oanh tạc, nổ dồn dập, inh ỏi trên Kỳ Đài Cổ Thành Quảng Trị. Nhưng, bỗng dưng, không rõ từ đâu có hai chiến đấu cơ loại F.5 của Mỹ, bay vào khu vực giội bom, nổ lạc hướng về phía phòng thủ của Nhảy Dù, gây nên tổn thất nặng nề về nhân mạng cho Đại Đội 51 và 52 của Tiểu Đoàn 5 Nhảy Dù và một ít cho hai Đại Đội 3 và 4 Biệt Cách Nhảy Dù đang bố phòng kế cận. Sự kiện nầy làm cho quân số của Nhảy Dù hao hụt nhiều hơn. Họ tham gia cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị kể từ đầu Tháng Năm cho đến giờ, vậy là đã hơn 2 tháng. Hai tháng đánh trận liên miên, ngày đêm không ngơi nghỉ, sức voi cũng không chịu nổi. Tôi nghĩ thầm mà thấy thương cho các chiến hữu của tôi.

    Ngày 27 tháng Bảy, năm 1972, ba lữ đoàn Nhảy Dù và hai Đại Đội 3 và 4 Biệt Cách Dù có lệnh triệt thối để bàn giao chiến trường cho Thủy Quân Lục Chiến. Vì là lực lượng tăng phái, Đại Đội 3 và 4 Biệt Cách Dù được rút trước. Nhảy Dù còn ở lại, chờ quân bạn tiến lên tiếp nhận phòng tuyến.

    Barbara và Helène là hai cao điểm nằm ở thượng nguồn, giữa sông Ba Lòng và sông Nhùng về phía Tây Tỉnh Quảng Trị, gần Trường Sơn. Đỉnh Helène cao hơn, thường bị mây mù bao phủ sớm chiều, nhất là về mùa mưa, mây che mờ mịt. Còn Barbara thì thấp hơn một chút, ít mây mù hơn, thuận tiện công việc quan sát đường chuyển quân của Cộng Sản quanh mật khu Ba Lòng.

    Rút khỏi Quảng Trị, mấy chiếc Chinook bốc thả Đại Đội 1 và Đại Đội 4 Biệt Cách Nhảy Dù xuống căn cứ Barbara, với nhiệm vụ là từ cao điểm này, tung các toán thám sát của đại đội, thâm nhập vào phía Nam mật khu Ba Lòng để theo dõi, phát hiện sự chuyển, rút quân của địch, mà hướng dẫn pháo binh tác xạ và khu trục oanh kích.
    Căn cứ nầy trước kia là của quân đội Mỹ trú đóng. Họ đã rút đi, nay chỉ còn lại những công sự ngầm và hàng rào phòng thủ bao quanh phòng tuyến.
    Chiến trường Quảng Trị vẫn còn tiếp diễn, nhưng có lẽ địch đã núng thế rồi, không còn hy vọng gì giữ Cổ Thành lâu hơn được nữa, do đó, các toán thám sát đã báo cáo thấy địch rút quân ra nhiều hơn là đưa quân vào tăng cường cho quân phòng thủ trong thị xã. Các toán thám sát nhận lệnh theo dõi và định vị chính xác đường mòn, căn cứ địch. Từ đó, tôi thông báo về Bộ Chỉ Huy để xin pháo binh và phi cơ tiêu diệt.

    Công việc cứ tuần tự như thế cho đến khi nghe tin chiến thắng. Sư Đoàn Thủy Quân Lục chiến đã giương cao ngọn Cờ Vàng ba sọc đỏ của Tổ Quốc Việt Nam trên Cổ Thành Quảng Trị, hôm ấy là ngày 16 Tháng Chín, năm 1972, trước kỳ hạn ba tháng của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tổng tư lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
    Có một điều, trong suốt gần ba tháng dài cùng phối hợp chiến đấu bên cạnh các tiểu đoàn Dù, tôi vẫn không hiểu tại sao Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù là một đơn vị tinh nhuệ, chiến đấu can trường, đã mang lại nhiều chiến công hiển hách, mà gần nhất là An Lộc điển hình, nhưng khi đưa vào chiến trường Quảng Trị lại không là một nỗ lực chính, giao phó riêng một vùng trách nhiệm như hồi Mậu Thân ở Ngã Ba Cây Quéo, Cây Thị, hay vừa qua tại An Lộc, mà lại xé lẻ, riêng rẽ từng đại đội, để tăng cường cho các tiểu đoàn Dù và đặt dưới quyền điều động, sinh sát của họ mà thôi.

    Phải chi với sở trường đánh địch trong thành phố, với chiến thuật du kích, đánh đêm tài tình, điêu luyện, với tài chỉ huy mưu lược của Đại Tá Phan Văn Huấn, khi tham chiến tại Quảng Trị mà được hoạt động riêng rẽ, chắc chắn Liên Đoàn sẽ lại tái diễn thêm một kỳ công, chiến tích lẫy lừng, để sớm mang lại chiến thắng, rút ngắn thời gian tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị mà Sư Đoàn Dù đã đổ máu không phải là ít.

    Thế là tàn một trận chiến. Lòng tôi vui mừng vì chúng ta đã chiến thắng, nhưng không khỏi bâng khuâng tự hỏi: “Tại sao họ không ở yên ngoài kia mà đem quân xâm lăng chúng ta, tạo ra hàng vạn, hàng vạn người sinh Bắc tử Nam.” Câu hỏi không dễ trả lời, nhưng có bao nhiêu người khi gây ra một cuộc chiến, nghĩ đến câu: “Nhất tướng công thành, vạn cốt khô!”
    Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù trong đó có Đại Đội 4 Biệt Cách Nhảy Dù do tôi chỉ huy, một lần nữa đã góp một phần công lao, xương máu, để viết viết lên thêm một chiến thắng oai hùng, lừng lẫy trong trang Sử Chiến Tích của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, để mãi mãi lưu truyền cho Hậu Thế.


    ***
    Cùng Chung Chiến Hào
    “Mình ba đứa hôm nay gặp nhau….
    Xuất thân khác quân trường
    Thủ Đức hay Võ Bị,
    Đều chung một con đường.
    Xông pha khắp chiến trường,
    Vẫy vùng nơi trận địa,
    Hy sinh vì lý tưởng.
    Quyết bảo vệ quê hương.
    Tay buông súng đầu hàng,
    Nhục hờn căm lính trận,
    Tha hương chung phận số,
    Kiếp lưu đày vong nô.
    Bốn phương về hạnh ngộ,
    Áo trận dẫu mờ phai,
    Vẫn kiêu hùng phong độ.
    Bất tử mãi thiên thu.

    April 11, 2018
    Nang Van Le
    Last edited by HaiViet; 06-11-2021 at 01:02 PM.

  5. #85
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,193

    Mừng ngày Quân Lực VNCH 19 tháng 6












  6. #86
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,193

    Nhắc lại ba vị đại tá VNCH là những nhạc sĩ tên tuổi







    Lịch sử âm nhạc của hai nền Cộng hòa miền Nam Việt Nam có nhiều người nhạc sĩ là quân nhân rất thành công và được nhiều người biết đến. Họ là những sĩ quan cấp đại tá. Những bài hát của các vị vẫn còn được vang lên ở bất kỳ nơi đâu có người Việt, thậm chí ở ngay trong nước, nơi vẫn có nhiều định kiến với “văn hóa chế độ cũ”. Dưới đây là tiểu sử tóm tắt của ba nhạc sĩ đại tá của quân lực VNCH.

    Nhạc sĩ / Đại tá Nguyễn Văn Đông (1932-2018)

    Ông là một nhạc sĩ lừng danh của di sản văn hóa VNCH. Nhắc đến ông là nhắc đến một kho tàng những bài hát về đời lính và tình ca thân phận trong cuộc chiến. Xuất thân từ Trường Võ bị Địa phương do Quân đội Pháp đào tạo, ông trải qua nhiều hoạt động. Đến Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 Tháng Mười Một 1972, ông được thăng Đại tá, chuyển sang làm Chánh Văn phòng cho Tổng Tham mưu phó. Ông giữ chức vụ này cho đến ngày 30 Tháng Tư 1975.





    Nhạc sĩ / Đại tá Nguyễn Văn ĐôngĐại tá Nguyễn Văn Đông được nhiều người biết đến với tư cách là một nhạc sĩ nổi tiếng qua các ca khúc như Chiều mưa biên giới, Sắc hoa màu nhớ… Một số bút danh khác của ông là Phượng Linh, Phương Hà, Hoài Phương, Vì Dân và Đông Phương Tử. Lý do là thời đó, do ông là chủ hai hãng băng đĩa nhạc Continental và Sơn Ca, nên đôi khi để làm liên tục các dĩa nhạc mới, ông muốn đặt nhiều bút danh để đa dạng và dàn trải không đơn điệu trên danh mục các bài hát.

    Vì những hoạt động đầy thành tích về hoạt động binh nghiệp cũng như văn hóa tâm lý chiến, sau năm 1975, ông bị đưa đi tù ở trại Suối Máu (Biên Hòa), sau đó được trả về nhà năm 1985 khi tình hình sức khỏe tồi tệ và cũng được cho là không còn sống bao lâu nữa. Thế nhưng khi được gia đình chạy chữa, ông qua khỏi và sống cuộc đời im lặng cho đến khi mất vào năm 2018.
    Ngày ông mất, Sài Gòn diễn ra một sự kiện đặc biệt, khi những người từng làm việc trong quân đội VNCH, dù không quen biết, đã đến tiễn đưa ông và đứng chào theo tư thế của một quân nhân. Báo chí ở Sài Gòn đã phải né tránh tường trình về tang lễ đặc biệt và gây xúc động cho nhiều người như vậy



    Chiều Mưa Biên Giới - Giao Linh (thâu trước 75)



    Nhạc sĩ / Đại tá Anh Việt (1927-2008)

    Ông tên thật là Trần Văn Trọng, sinh năm 1927 tại Rạch Giá, Kiên Giang, xuất thân trong một gia đình công chức, song thân sành cổ nhạc và làm thơ. Ông bắt đầu viết nhạc khá sớm, từ những năm đầu thập niên 1940. Lúc bấy giờ truyền hình chưa có và hệ thống phát thanh còn thô sơ nhưng nhạc của Anh Việt cũng đã được phổ biến sâu rộng qua các đĩa 33 vòng, máy hát quay tay. Năm 1945, ông tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1950, ông bỏ chiến khu Việt Minh về thành; và năm 1951, ông tham gia Quân đội Quốc gia Việt Nam, theo học ngành quân cụ, tham gia binh nghiệp, thăng dần lên cấp bậc Đại tá Quân lực Việt Nam Cộng hòa.




    Nhạc sĩ / Đại tá Anh ViệtSau 30 Tháng Tư 1975, ông tị nạn tại California, được nhà thờ Saratoga Federated bảo lãnh, mời dạy ở trường Naval Post Graduate tại Monterey. Sau này ông mở Chợ Mekong cung cấp cho đồng hương các loại thực phẩm mang hương vị quê nhà. Đây là cửa hàng tạp hóa và hàng ăn đầu tiên của người Việt tại địa phương. Ông qua đời ngày 14 Tháng Ba 2008 tại California, thọ 81 tuổi.

    Trong vườn âm nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Anh Việt được coi là đại thụ với các bài trải dài từ thời chống Pháp đến chiến tranh Quốc-Cộng. Từ thành thị đến nông thôn, khắp các nơi đều vang lên nhạc của ông. Ông cũng dùng nhạc để ca ngợi quân ngũ và quê hương, như các bài Quân Cụ hành khúc vào năm 1956, Nhảy Dù hành khúc năm 1968; và theo tài liệu của Trần Ngọc thì năm 1972, nhạc sĩ Anh Việt phổ một bài thơ hào hùng về cuộc hành quân Hạ Lào, do ông Phan Nhật Nam viết. Ngoài ra, Anh Việt vẫn viết nhạc tình và đóng góp những chương trình nhạc cho Đài Phát thanh Pháp Á, Đài Phát thanh Quân đội, Đài Phát thanh và Đài Truyền hình Sài Gòn. Ông từng là Chủ tịch Hội Văn Nghệ sĩ Quân đội.

    https://youtu.be/SIMJWRdWM9A
    SƯ ĐOÀN NHẢY DÙ HÀNH KHÚC



    Nhạc sĩ / Đại tá Nguyễn Thành Trí (1935-)

    Ít ai biết Trang Thủy với những bài hát dịu dàng là bút danh của Đại tá Nguyễn Thành Trí (sinh năm 1935), người mà trong quân lực gọi ông với biệt danh Tango. Trong phần Lời Mở Đầu trong tác phẩm Can Trường Trong Chiến Bại, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại có viết về Đại tá Thủy quân lục chiến Nguyễn Thành Trí như sau:

    “Đúng một năm sau, anh hùng Nguyễn Thành Trí, cấp bậc Đại Tá, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến cùng bộ chỉ huy nhẹ trên một tàu đổ bộ LCM8, chuyện chỉ huy cuộc rút quân của các lực lượng trực thuộc tại mặt trận phía Bắc An Lỗ gồm Lữ Đoàn 147/TQLC, Liên Đoàn 14/BĐQ, lực lượng Địa Phương Quân Quảng Trị và Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh. Khi về tới Đà Nẵng, chiều ngày 27 Tháng Ba, điều hợp cuộc rút quân của 3 Lữ Đoàn 468, 369 và 258 Thủy Quân Lục Chiến phía Nam đèo Hải Vân để rồi sáng ngày 29 Tháng Ba, không tới 48 tiếng đồng hồ sau, ông phải bơi ra biển cùng Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn I để lên hải vận hạm Hương Giang (HQ 404).


    Nhạc sĩ / Đại tá Nguyễn Thành TríVề trong Nam, Đại Tá Trí được lệnh chỉ huy hai Lữ Đoàn 258 và 468/TQLC cùng các chi đoàn Thiết Giáp tăng phái lập một phòng tuyến phía Đông Biên Hòa để bảo vệ thành phố này. Sáng ngày 30 Tháng Tư 1975, thi hành lệnh buông súng và chuẩn bị bàn giao cho địch theo lệnh Tổng thống Dương Văn Minh, Đại Tá Trí cùng hai Lữ Đoàn dưới quyền di chuyển về căn cứ Sóng Thần Thủ Đức. Đại Tá Trí chỉ thị quân sĩ trả súng vào kho và cho họ tự do về với gia đình. Đại Tá Trí đã làm tròn bổn phận của một cấp chỉ huy cho tới giờ phút cuối cùng” (Can Trường Trong Chiến Bại, trang 17).

    Sau năm 1975, Đại Tá Nguyễn Thành Trí đi tù cải tạo 13 năm, và sau đó định cư ở Texas vào năm 1992. Trong thời gian ở tù, anh em trong trại biết ông là một cây văn nghệ nên hay hát các bài quen thuộc của ông. Nhạc sĩ Trang Thủy được biết đến với những bài hát như như Buồn Tím, Chiều Vương Tóc Mây, Sài Gòn Nắng Nhớ Mưa Thương, Trả Lại Em Thành Phố Này, Xuân Bên Này Biển Nhớ…

    https://youtu.be/K873EBVWmV0
    Chiều Vương Tóc Mây










  7. #87
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,193
    An Lộc - Một Chiến Thắng Khó Quên
    27/05/2022



    Ngày thứ Bảy, 14 tháng 5, 2022, Nam Cali rộn ràng trong nắng ấm. Cả 2 tuần trước đó, tôi đã “bị” rộn ràng nhận và trả lời texts của BS. Ngô Thế Khanh, 1 đàn anh đẹp trai trong Quân Y của Sư Đoàn 6 KQ, từng đóng đô tại Pleiku. Theo lời khuyên của BS. Khanh, người mời vợ chồng chúng tôi tham dự ngày mừng “50 NĂM BÌNH LONG ANH DŨNG”, tôi cần phải trang phục với bộ áo quần trận hoa dù mũ đỏ, với dây nịt quân đội có búp nịt màu vàng của sĩ quan, bottes de saut kèm theo lời khuyến cáo phải nhớ đánh bóng thật láng, phải có thêm cả thẻ bài - dù dấu kín bên trong áo trận… Tôi quắn cả người tìm cho được số quân đưa cho BS. Khanh nhờ anh đăt làm cho tôi thẻ bài và mua giùm dây nịt quân đội. Thật là nhiêu khê. Nhất là gần cả 3 năm vừa qua, tôi không có dịp “chưng diện” bộ đồ quân phục của mình, phải trèo lên attic lục tìm.

    Dù sao, chuyện mặc quân phục Nhảy Dù cũng là một bắt buộc, nhất là trong những họp mặt có nhiều anh em Nhảy Dù tham dự. Huống hồ đây lại là một kỷ niệm khó quên của Chiến Thắng An Lộc vào hè 1972, khi nguyên cả 2 Lữ Đoàn Nhảy Dù được tung vào trận chiến, để cùng với các lực lượng cơ hữu của sư đoàn 5 Bộ Binh, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân, Trung Đoàn 33 thuộc sư Đoàn 21 và Trung Đoàn 15 của Sư Đoàn 18, các đơn vị Thiết Giáp và Pháo Binh, các phi đoàn thuộc Sư Đoàn 3 Không Quân, đã anh dũng chiến đấu, quyết chí bảo vệ một phần đất của tổ quốc, chận đứng sự tấn công của phía địch gồm 4 sư đoàn Bộ Binh, các trung đoàn pháo, thiết giáp, phòng không, đặc công, với tổng số lên đến cả 50 ngàn quân. Cuộc chiến đã xẩy ra từ ngày 13, tháng 4, 1972 đến ngày 12 tháng 6, 1972, là ngày thị xã An Lôc hoàn toàn được giải tỏa sau 7 lần bị địch tấn công tới tấp chỉ sau đó chém vè, để lại hàng ngàn tử thi và hàng chục và hàng chục xác xe tăng ngổn ngang trong thành phố và bên ngoài thị xả.

    Lịch sử cho thấy cuộc chiến An Lộc là một mặt trận mang nặng tính cách chính trị vì phía địch có dã tâm chiếm nguyên tình Bình Long cùng An Lộc để gây áp lực, làm thủ phủ cho MTGPMN trong hoà đàm Paris. Đây là một trận chiến khốc liệt khi địch quân tung ra một lực lượng bộ binh rất lớn với sự xuất hiện lần đầu của thiết giáp tại vùng 3. Đồng thời chúng đã sử dụng pháo binh nhiều đến mức độ khiến thị xả trở thành bình địa.

    Tôi tham dự 50 Năm Chiến Thắng An Lộc, không những vì lòng biết ơn và ngưỡng mộ các chiến sĩ VNCH trong cuộc chiến, mà cũng vì muốn chia sẻ, vinh danh, qua sắc phục quân đội và màu áo của binh chủng mình, những gian truân, những hy sinh thân xác của bao đồng đội từng có mặt tại An Lộc, và lòng cảm thương những cái chết bất nhẫn của bao thường dân vô tội.

    Vào đầu tháng 4, 1972, tôi đang là sinh viên năm thứ 5 tại ĐH YK Huế. Do nhu cầu trận chiến, trường YK Huế có tổ chức một toán y tế với 7 tình nguyện viên, gồm 2 bác sĩ giải phẫu và 5 sinh viên, ra Quảng Trị phục vụ bệnh viện Quân Dân Y. Đó là lần đầu tiên tôi thực sự nhìn thấy những thương binh với những vết thương nghiêm trọng, cần hồi sinh cấp cứu và giải phẫu. Nhìn thấy người lính chết trước mắt mình khi chờ được lên bàn mổ. Để cảm thông sự đau đớn hằn lên trong ánh mắt của những đồng đội bên cạnh.

    Từ đó, những tin tức nóng sốt, với chiến cuộc đang diễn ra tại Pleiku-Kontum, Bình Long –An Lộc, rồi Quảng Trị, đã mở rộng tầm hiểu biết của tôi về một cuộc chiến tàn khốc và kinh hoàng, một địa ngục trần gian. Một mùa hè khô nóng của máu và máu, của bão lửa và sắc thép, của bao cái chết không toàn thây do hỏa pháo cường tập. Của tử khí từ cả ngàn thây người ngổn ngang trên Đại Lộ Kinh Hoàng hay trong thị xã An Lộc và trên đường di tản. Của bao hy sinh để quyết bảo vệ một cuộc sống đúng nghĩa và xứng đáng với 2 chữ Tự Do. Của bao cái chết oai hùng của những chiến sĩ vô danh trong nhiệm vụ trai thời chiến. Làm nổi bật khí thế và tinh thần chiến đấu anh dũng của người lính Miền Nam. Miền Nam Việt Nam đã chiến đấu, giữ vững và kiêu hùng chiến thắng. Tôi đã hiểu như vậy. Tôi đã cảm kích những người lính đang chiến đấu. Tôi cám ơn đất nước tôi. Bấy giờ, với lòng yêu nước dâng trào, tôi tự hiểu rồi cũng sẽ đến phiên mình nhảy vào cuộc chiến trong nay mai.



    Ngay trước mặt bàn tiếp tân gần cửa ra vào, BS. Thân Trọng An và tôi cùng lúc nhìn thấy nhau khi vợ chồng chúng tôi bước vào với BS. Khanh bên cạnh. BS. An từ Montreal, Canada, bay về Nam Cali chỉ để tham dự buổi tiệc mừng chiến thắng này. Trưng tập ngay sau khi tốt nghiệp, BS. Thân Trọng An tình nguyện đến phục vụ đơn vị Quân Y tại An Lộc năm 1973 cho đến ngày mất nước. Đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau dù trước đây có liên lạc qua Tập San Y Sĩ Canada mà BS. An đảm nhận chức vụ trưởng khối báo chí. Nhờ anh, tôi được biết thêm, sau trận An Lộc 1972, VC vẫn tiếp tục lai rai pháo kích vào thị xả này. Một mặt trận không hề được yên nghỉ…cho đến tận cuối con đường.


    BS. Thân Trọng An chụp chung với vợ chồng
    BS. Nguyễn Văn Quí, với bên dưới là cuốn sách
    Nhật Ký An Lộc, nằm ngay trước mặt tôi,
    với bài tôi đang viết trong PC.


    Ngồi cũng bàn, ngoài BS. Thân Trọng An và BS. Ngô Thế Khanh, còn có BS. Hoàng Xuân Trường, tác giả của “Sau Bức Màn Đỏ”, “Cõi Trời, Cõi Ta” và…; vợ chồng BS. Phạm Quang Trọng, em trai của anh rể của tôi, từng phục vụ trong TĐ Quân Y Sư Đoàn 5 BB; anh Lê Hưng, một Thiếu Úy thuộc Sư Đoàn 3 KQ VNCH từng bay nhiều phi vụ trên vòm trời An Lộc, nay trong bộ quân phục màu trắng của một cựu Trung Tá Hải Quân Hoa Kỳ - phải viết lại cho rõ, cựu Trung Tá Lê Hưng là một phi công của Hàng Không Mẫu Hạm của Hải Quân Hoa Kỳ, một thành viên kỳ cựu của Tail Hook Association. Thật đáng nể - và vợ chồng BS. Nguyễn Văn Quí, tốt nghiệp 1968, trưng tập khóa 10, đã nằm ngay tại thị xả An Lộc trong suốt 86 ngày của chiến trận, là tác giả của cuốn sách quý báu “Nhật Ký An Lộc” mà cá nhân tôi rất ngưỡng mộ và thúc đẩy tôi có tham vọng, trong một ngày nào đó, sẽ đóng góp một tài liệu quân sử so sánh trận chiến Điện Biên Phủ và An Lộc

    Tôi có ý mong gặp BS Nguyễn Nam Hùng, thuộc Tiểu Đoàn Quân Y của Sư Đoàn 5 BB, là người có nhiệm vụ săn sóc sức khỏe cho Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5 trong đó có cả vị Chỉ Huy Trưởng Sư Đoàn 5 BB, để mong anh kể cho nghe vài câu chuyện mà anh từng là chứng nhân, nhưng anh quá bận rộn trong ban tổ chức Ngày Kỷ Niệm 50 Năm Bình Long Anh Dũng. Tôi cũng biết một đàn anh trong YK Huế, BS Nguyễn Bội Giang, trưng tập khóa 13, cũng có mặt tại Bộ Chỉ Huy SĐ 5 BB trong cùng thời gian. Nhưng rất tiếc anh ở hơi xa, không đến được.




    *Hình: Vĩnh Chánh, BS Thân Trọng An, BS Hoàng Xuân Trường



    BS Mũ Đỏ Phạm Gia Cổn

    Tại hiện trường, tôi nhìn thấy rất nhiều những cựu chiến binh thuộc mọi binh chủng từng có mặt trong trận chiến An Lộc; về phía Quân Y Nhảy Dù, tôi hãnh diện thấy BS. Phạm Gia Cổn, bấy giờ là y sĩ trưởng của TĐ1ND với Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá La Trịnh Tường, đại diện phát biểu vừa cho Nhảy Dù, vừa cho Quân Y. Trong những quan khách danh dự, tôi được giới thiệu và nghe lời phát biểu của một sĩ quan trẻ tuổi của QĐ Hoa Kỳ, là cháu nội của cố Chuẩn Tướng Richard Tallman, tư lệnh một Lữ Đoàn Không Kỵ 101, tử trận ngày 9 tháng 7, 1972 khi trực thăng đưa Ông đến bị trúng pháo địch tại sân bay An Lộc. Tôi liên tưởng đến Sư Đoàn 101 từng cố thủ tại Bastogne, vào mùa Đông năm 1944, trong trận The Battle of The Bulge nổi tiếng nhất của Quân Đội Mỹ tại Âu Châu trong Thế Chiến thứ 2, không hề đầu hàng trước sự tấn công ồ ạt của nhiều quân đoàn Đức, nhiều sư đoàn Panzers và pháo binh, đã chống trả kịch liệt, chận đứng được quân địch cho đến khi tiếp viện đến nơi. Xuyên qua cái chết của Tướng Tallman, có nên chăng ghi nhận chiến thắng của Mỹ ở Bastogne, tại vùng Ardenne năm xưa và bây giờ chiến thắng của VNCH ở An Lộc, tại Bình Long, như một trùng hợp quân sử theo kiểu của history repeats.

    Giờ đây, trong phòng hội lớn của sáu, bảy trăm người, tôi còn biết thêm những địa danh chưa mấy quen thuộc như Chơn Thành,Lộc Ninh, Hớn Quảng, Quốc Lộ 13, Lai Khê, hay còn xa lạ như Tân Khai, Đồn Điền Xa Trạch, Xa Cam, Quản Lợi, Minh Thạnh, Đồi Gió, Đồi 169, Srok Ton Cui, đồi Đồng Long, …Là những tên xa lạ khó cho người dân thị thành biết đến, nhưng tại đó có hàng trăm chiến binh hai bên lẫn lộn nằm chết bên nhau, chưa kể cả vạn thường dân vô tội bị kẹt giữa làn đạn.

    Những không ảnh phóng lớn cho thấy cảnh bình địa của thị xả An Lộc, kèm theo là xác của quá nhiều tăng địch ngổn ngang, hình ảnh của các quân nhân phe ta vẩy tay chiến thắng trên xác tăng địch. Hay hình ảnh của lá cờ Tổ Quốc VNCH vẫn hiên ngang bay trong gió dù với nhiều chỗ rách do mảnh đạn. Và bao nhiêu hình ảnh oai hùng khác nói lên sự kiên cường chiến đấu và hy sinh của quân ta. Hình ảnh bia mộ Nghĩa Trang Biệt Cách Dù 81 kèm theo An Lộc Địa Sử Lưu Chiến Tích – Biệt Cách Dù Vị Quốc Vong Thân -

    Khi chiến trận tại Kontum, Vùng 2, vừa tạm yên, Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù, với các Tiểu Đoàn 1 (với BS Phạm Gia Cổn, #18 Hiện Dịch, Y Sĩ Trưởng), Tiểu Đoàn 3 ND (với BS Đặng Vũ Báy, #18 Hiện Dịch, Y Sĩ Trưởng) và Tiểu Đoàn 2 ND (với với BS Lê Minh Tâm, #17 Hiện Dịch, Y Sĩ Trưởng) - thế cho TĐ 11 ND về thẳng hậu cứ bổ sung quân số sau trận Charlie - cả 3 tiểu đoàn được không vận về Biên Hòa; rồi từ Lai Khê, TĐ1 ND và TĐ3 ND được trực thăng bốc vào Tân Khai, và từ đó hành quân đường bộ tiến vào chiến trận. Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, với Lữ Đoàn Trưởng là Đại Tá Lê Quang Lưỡng, gồm các Tiểu Đoàn 5 ND (với Y Sĩ Trưởng là BS Nguyễn Hữu Tâm, #17 Hiện Dịch), Tiểu Đoàn 6 ND (với Y Sĩ trưởng là BS Lê Trung Hiếu, #17 Hiện Dịch) và Tiểu Đoàn 8 ND (với Y Sĩ Trưởng là BS Dương Văn Đức, #18 Hiện Dịch) cùng liên hiệp nhảy vào vùng. Chưa đến 1 tuần sau, Lữ Đoàn 2 ND được lệnh ra khỏi vùng, không vận về Huế, để nhận một nhiệm vụ mới không kém quan trọng: chuẩn bị vượt sông Mỹ Chánh trong chiến dịch tái chiếm Quảng Trị.

    Trở về lại với An Lộc, các tiểu đoàn ND liên tục đụng địch trong nhiều trận đánh nẩy lửa. Với những người từng tham chiến tại mặt trận An Lộc, hay những vị chưa có cơ hội có mặt tại chỗ, hoặc sinh sau đẻ muộn như cá nhân tôi, và để quý vị hiểu rõ sự hy sinh tuyệt đối của chiến binh Nhảy Dù qua tinh thần Nhảy Dù Cố Gắng, mời quý bạn đọc một bản dịch ngắn dưới đây của Mike Mc Dermott, Thiếu Tá cố vấn Mỹ của Tiểu Đoàn 5 ND, viết về một trong những trận chiến mà TĐ 5 ND gặp phải trên cuộc tiến quân vào An Lộc:

    “Thiếu Tá Hiếu ra lệnh cho người đại đội trưởng Đại Đội 51 đang phòng thủ mặt trước của tiểu đoàn: Đại Đội sẽ phải nằm lại, cố thủ và làm thành phần chận hậu cho tiểu đoàn rút lui và di chuyển đến một vị trí mới. Nhiều phi cơ chiến đấu đang ở trên vùng và tôi nói với Thiếu Tá Hiếu rằng Trung Sĩ McCauley sẽ đi với ông; tôi muốn điều khiển cuộc dội bom và kiên quyết ở lại để làm cho xong công việc ấy. Sau khi vừa chỉ tay ra hiệu cho biết hướng phải đi, Thiếu Tá Hiếu nắm lấy áo tôi, kéo tôi lại sát người ông, nhìn thẳng vào mắt tôi và la lớn trong tiếng nổ vang của súng đạn: “Anh không ở đây lâu được. Ngày hôm nay, ngay tại nơi đây, Đại Đội 51 Dù sẽ Vị Quốc Vong Thân.”

    Tôi có được cái nhìn rất rõ về những người lính của Đại Đội 51 đang chạy ngược về từ những vị trí trước mặt. Trong một ít giây, tôi nghĩ họ sẽ chạy dạt về phía sau, tìm đường bỏ trốn, nhưng mắt tôi nhìn thấy một màu sắc chói sáng trên đầu họ. Họ đã liệng bỏ nón sắt, đội chiếc mũ bê-rê đỏ trên đầu và nhảy vào những hố chiến đấu đang bỏ trống, sẵn sàng cho một trận đánh mà họ biết không thể thắng được. Những chiến binh Dù nầy hiểu rõ trách nhiệm của họ và quyết định sẽ chạm địch với chiếc nón bê-rê đỏ, một chiếc nón và màu sắc luôn biểu tượng cho lòng dũng cảm và sự can trường mà họ rất hãnh diện được mang trên đầu. Tôi nhận thức rõ là họ sẵn sàng hy sinh ngay lúc ấy, ngay tại đó và ngay trên khu rừng cao su đang bị cày nát bởi súng đạn”.

    Tôi xin tạm dừng nơi đây, mời bạn đọc thắp vài nén hương lòng, tưởng nhớ đến anh linh của bao chiến sĩ vô danh nằm xuống trên vạn nẻo đường của đất nước, không riêng tại An Lộc:


    “…Gươm anh linh đã bao lần vấy máu
    Còn xác xây thành, thời gian luống vô tình
    Rừng trầm phai sắc – thấp thoáng tàn canh
    Hỡi người chiến sĩ vô danh

    https://youtu.be/P2xt1D6SUXM

    Sau nhiều đỗ máu trên bước tiến quân, cuối cùng TĐ 6 ND của Thiếu Tá Nguyễn Văn Đỉnh cũng đưa con em mình vào bên trong thị xã An Lộc. Để sau đó, cùng với Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù và các quân nhân của Sư Đoàn 5 BB, sát cánh bên nhau, anh hùng bắn cháy mấy chục chiến xa địch, bẻ gãy tất cả các đợt tấn công vũ bão của chúng dưới làn mưa đạn không thương tiếc của pháo binh địch.

    Nay mời quý bạn thưởng thức bản nhạc “Đã Một Lần” của BS Mũ Đỏ Phạm Gia Cổn, được trình bày trong Ngày Hội này do phu nhân của tác giả, song ca với một đồng đạo trong nhóm Thể Dục Khí Công Hoàng Hạc và với tiếng thổi kèn ai oán của chính MĐ Phạm Gia Cổn. Một bản nhạc tôi rất mến chuộng vì lời rất chí khí diễn tả sự chia lìa của đôi chinh phu chinh phụ vì chiến tranh“Trách chi người ai lỗi ai -Trách chi người mi ướt cay - Trách chi người thôi đã xa nhau kiếp này.
    Mong “Mùi thơm khăn áo ngây ngất đi vào cổ tích tôi.”




    Cũng như cuộc chiến An Lộc – Một thời binh lửa đã qua - 50 năm. Rồi cũng sẽ đi vào cổ tích thôi!

    Dù bên cạnh họ vẫn còn nghìn người mang những thương tật nặng nhẹ trên cơ thể, cả vạn người với thương tích không chảy máu dấu sâu trong lòng, những người chết trận chính thức giã từ vũ khí. Họ thật sự là những anh hùng đã đi vào huyết sử của dân tộc, là hồn thiêng của sông núi, là huyền thoại của đất nước. Không có gì cao quý hơn khi chết trận. Chết trận là chết không một than vãn. Không một ai oán. Không có lấy một lời trăn trối cho người yêu, không kịp một lời xin lỗi với vợ dại con thơ ở nhà. Nhưng khi người lính nhắm mắt buông xuôi, tình yêu vẫn luôn hiện hữu trong ánh sáng vĩnh cửu của tin yêu, trong tình thương nhớ vô vàn của đồng đội và gia đình. Họ vĩnh viễn là cánh gió tung bay trên vạn nẻo đường đất nước.



    Cho phần kết, nếu tin vào truyện “cổ tích tôi” như trong bản nhạc “Đã Một Lần”, xin hãy cho nhau một lời nguyện cầu rằng chỉ sự yêu thương và lòng độ lượng sẽ hóa giải cái hung bạo của chiến tranh và đem con người ra khỏi hận thù. Như trong mấy vấn thơ của nhà văn Nhảy Dù Trang Châu từng viết khiến lòng tôi mênh mang cảm phục.

    “Trong cuộc chiến hôm nay
    Cho tôi xin chiến đấu không hận thù
    Xin những vết thương bình đẳng
    Cho tôi đổi một trăm chiến thắng
    Lấy một giọt nước mắt kẻ thù”.

    Tháng 5, 2022

    Vĩnh Chánh

  8. #88
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,193

    TÔI ĐÀO NGŨ và BỎ CHẠY KHỎI ĐÀ NẴNG THÁNG 3-75

    April 25, 2023

    Nguyễn Tường Tâm

    Cali Today News – Người ta thường dùng chữ di tản, một từ tương đối đẹp để mô tả một hành động không đẹp: bỏ chạy, hay chạy làng. Tôi dùng nguyên chữ “Đào Ngũ và Bỏ Chạy” chỉ hành động hèn hạ của tôi, một sĩ quan trước đó đã từng cùng thuộc cấp và đồng đội lao vào tử địa, coi cái chết nhẹ tựa lông-hồng.

    Khi Ban Mê Thuột thất thủ (11-3-1975) tôi đang là sĩ quan quân đội biệt phái làm trưởng toán trực Trung tâm hành quân Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Khu I –phụ trách 6 tỉnh, thị: tính từ cực bắc là Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế; Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Tín, và Quảng Ngãi. Dư luận xôn xao không biết Vùng I có an toàn không, khiến Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân đoàn I kiêm Quân Khu 1, phải lên tiếng trấn an, cho biết ông quyết tử thủ Huế. Những ai sinh trưởng hay sinh sống tại miền Trung đều hiểu rằng, mặc dù Đà Nẵng là Trung tâm Quân sự, Hành Chánh, và Kinh Tế nhưng Huế là biểu tượng tinh thần. Mất Huế là mất cả miền Trung. Cho nên bảo vệ Huế là lẽ sống còn của chính quyền. Với uy tín của một vị tướng chiến trận, liêm khiết, thương yêu thuộc cấp và thương dân, tuyên bố tử thủ Huế của Tướng Trưởng đã từng trấn an được dân Huế trong mùa Hè Đỏ Lửa 1972, và lần này cũng vậy.

    Nhưng tình hình cao nguyên biến chuyển từng ngày theo chiều bất lợi cho nên lần này uy tín của Tướng Trưởng cũng không duy trì nổi tình trạng ổn định được lâu. Tôi liên lạc với Trung Tâm Hành Quân Bộ Chỉ huy Cảnh sát Vùng 2 (TTHQ/BCH/CS/V 2) được họ cho biết Bắc quân hàng đêm di chuyển từng đoàn xe vận tải thắp đèn sáng choang trên các sườn núi nhưng không có phi cơ oanh tạc. Sau hiệp định hòa bình 1973, không bên nào được tấn công khu vực do bên kia kiểm soát. Tôi hỏi TTHQ Ty cảnh sát Quảng Đức được họ cho biết tình hình yên tĩnh nhưng một khi bị bao vây thì sẽ không biết chạy lối nào.

    Khi toàn bộ quân dân Quân đoàn II bỏ chạy khỏi Pleiku và Kontum ngày 17/3 thì tình hình hoảng loạn tại Vùng 1 không ai có thể kềm hãm được. Dân Quảng Trị đã bỏ chạy vào Đà Nẵng. Nhiều người gồng gánh đi bộ vượt qua Huế, vượt đèo Hải Vân, đoạn đường dài hơn 150 cây số. Tại Đà Nẵng chính quyền không còn khả năng tiếp đón đồng bào. Tất cả những người không có thân nhân, bạn bè tràn vào ở trong các trường học và phải tự túc. Tôi nhận thấy chỉ riêng vấn đề dân chúng di tản lúc đó đã là một gánh nặng mà chính quyền không gánh vác nổi, chưa kể tới các đoàn quân rã ngũ. Chỉ riêng vấn đề dân tị nạn cộng sản cũng đủ khiến Đà Nẵng rối loạn.

    Tôi gọi TTHQ Ty cảnh sát Đà lạt, họ cho biết tình hình yên tĩnh, chính quyền còn nguyên nhưng dân chúng đã bỏ đi hết, thành phố vắng hoe. Trừ chính quyền Quảng trị chạy vào tạm trú tại Huế, chính quyền các tỉnh khác trong Vùng 1 vẫn yên tại chỗ trong khi mọi người dân đều lo lắng. Nhiều gia đình tại Đà Nẵng chen nhau mua vé máy bay về Saigon. Vé máy bay chợ đen lên giá $100 ngàn 1 vé (lương tôi, trung úy, một vợ 3 con chỉ có $32 ngàn/ tháng; gạo $10 ngàn/1 tạ). Một anh bạn thân từ hồi ở Trung đoàn 2 Bến Hải, bác sĩ Nguyễn Văn H., luôn theo sát tôi hỏi tình hình. Tôi trấn anh một cách chân tình “Huế vẫn tử thủ”. Anh tin tôi bởi vì anh biết tôi thân tình với bà vợ Tướng Trưởng.

    Bà vợ Trung tướng Trưởng là em họ tôi (bà là trưởng nữ của chú ruột tôi, nhà văn Thạch Lam), nhưng chị hơn tôi 9 tuổi lại sống với nhau từ nhỏ nên tôi vẫn gọi bà là chị. Hai chị em tôi thân nhau (cho tới tận bây giờ –2023 tại Hoa Kỳ– mỗi tuần hai chị em đều điện thoại cho nhau ít nhất một lần). Thời đó (tại Đà Nẵng) mỗi tuần tôi tới ăn cơm với chị một buổi trưa. Tuần nào không tới thì chị điện thoại hỏi. Tướng Trưởng đi hành quân tối mới về, các cháu đi học, hai chị em thường ngồi ăn, nói chuyện gẫu ở cái bàn trong bếp. Nhưng trong thời gian sôi động đó tôi quyết định trưa nào cũng ghé chị ăn cơm, mục đích để xem Tướng Trưởng còn tử thủ Huế không. Dĩ nhiên tôi không hỏi chị câu đó, vì chuyện nhà binh chị cũng không thể biết. Nhưng khi nào Tướng Trưởng bỏ Huế thì chị và các con phải ra đi; chắc chắn tôi phải là người đầu tiên chị cho biết. Tôi đã có hai năm chiến đấu dưới quyền chồng chị khi ông là Tư lệnh Sư đoàn 1 nên tôi hoàn toàn tin tưởng tư cách của ông.

    Trong lúc đó, một thương thuyền lớn, tầu Trường Thành, do Thủ tướng trưng dụng ra bốc quân dân di tản, đang neo tại bến cảng ngay trước tư dinh tư lệnh. Hàng ngày tôi và chị tôi đứng trên tầng hai tư dinh quan sát chiếc tầu thấy cả mấy ngàn người dân đã leo lên chiếm chỗ trên tầu. Ty cảnh sát Đà Nẵng được lệnh giải tỏa chiếc tầu. Nhưng tôi thấy các sĩ quan cảnh sát, bạn đồng nghiệp của tôi, đang vừa cầm loa kêu gọi đồng bào rời khỏi chiếc tầu cho có lệ, nhưng thực tâm họ không những không giải tỏa mà còn đưa thân nhân họ lên tầu.

    Chưa có lệnh bỏ Huế nhưng dường như một số cơ quan hành chánh đã di tản một phần vào Đà Nẵng. Trường đại học Luật Huế của tôi cũng đã mang toàn bộ hồ sơ, văn kiện vào Đà Nẵng. Bộ Tư lệnh Cảnh sát ở Saigon ra lệnh cho tôi yêu cầu ty Cảnh sát Huế tới đón Đức Bà Từ Cung (thân mẫu Vua Bảo Đại). Huế trả lời là Đức Từ Cung không chịu di tản. Saigon lại ra lệnh Đức Từ Cung muốn mang theo bất cứ cái gì cũng phải giúp bà. Tin đi tin lại mấy lần. Cuối cùng Huế cho biết “Bà ở lại để chờ Vua Bảo Đại trở về!” Lúc đó tôi không hiểu bà lấy tin đó ở đâu. Sau này mới biết vào giai đoạn cuối, Pháp có tham dự trực tiếp trong ý định tìm một giải pháp cho Việt Nam.

    Trong cơn hoảng loạn, một thiếu úy quân nhân biệt phái là sĩ quan trực TTHQ Cảnh sát Quảng Trị, tạm đóng tại Huế, gọi về tôi báo cáo là thấy tòa hành chánh và các ty sở di tản mà không có lệnh lạc gì cho Ty cảnh sát Quảng Trị. Tôi đưa máy cho Đại Úy Dũng, Trung Tâm trưởng. Đ/u Dũng chỉ thị “cứ bình tĩnh, sẽ có yểm trợ!” Nhìn tay Đ/u cảnh sát này, tôi thấy anh ta chỉ thị láo; ngay cả Bộ chỉ huy cảnh sát Vùng 1 cũng còn chưa biết ra sao lấy gì mà yểm trợ các tỉnh. Ngay sau đó, chờ cho tay Đ/U trưởng phòng sang phòng khác, tôi bèn gọi anh thiếu úy, nói ngắn gọn “Bạn hãy tự túc!” Sợ anh ta không hiểu tôi nhắc lại rồi hỏi anh ta hiểu không? Anh ta trả lời “Hiểu!” Từ đó tôi không gặp lại anh ta. Vốn dĩ tôi không quen anh ta và cũng chưa gặp anh ta bao giờ. Tôi biết ở Đà Nẵng nhiều người theo dõi gia đình Tướng Trưởng, gia đình tôi và gia đình nhà văn Duy Lam, Trung tá—ba gia đình là anh chị em họ–. Bởi vì nếu một trong 3 gia đình này mà ra đi thì ai còn tin lời thề tử thủ của Tướng Trưởng nữa.

    Rồi một buổi trưa, sau khi tôi ngồi yên vị, bà chị họ cho biết “Tổng thống ra lệnh bỏ Huế!” Tôi sững người, bật khóc. Thế là hết. Mất Huế thì không thể giữ được Vùng 1. Vùng 2 thì đã mất rồi…làm sao giữ được miền Nam. Đồng thời tôi cũng biết rằng từ nay Tướng Trưởng sẽ không còn là gì cả; một bại Tướng thì không còn là gì cả! Tình cảm của tôi đối với ông rất nhẹ tình gia đình, ông chỉ là một anh rể họ; mà nặng hơn chính là tình giữa một thuộc cấp và vị Tư lệnh của mình. Ông là một vị tướng chiến trận, luôn có mặt bên quân sĩ khi lâm trận…Tôi và đồng đội đều cảm thấy yên tâm mỗi khi có hiện diện của vị tư lệnh của mình trong thời gian tôi lao vào lửa đạn vùng giới tuyến. Bây giờ tôi khóc vì thương ông, một vị tướng chiến trận được quân sĩ kính mến. Yên lặng một lúc, tôi nói với bà chị họ, “Chiều nay anh về, chị nói với anh là trong 7 năm qua, dưới quyền anh, em không làm gì phiền cho anh. Nhưng hôm nay em đào ngũ!” Bà Trưởng chỉ còn biết nói, “Tình thế này thì ai cũng tự lo lấy thôi!”

    Một chập sau một người Mỹ từ nẫy ôm chiếc máy vô tuyến ngồi im lặng ở bậc thềm ngoài hàng hiên, bây giờ liên lạc với ai đó một chặp khá lâu rồi vào nhắc Bà Trưởng ra đi. Tôi lái chiếc xe jeep của tôi, theo chiếc xe jeep của bà. Cả hai cùng theo chiếc xe của người Mỹ ra bãi đáp trực thặng ở cuối đường Độc Lập, cách tư dinh tư lệnh không xa. Bà Trưởng bước lên trực thăng, tôi nhìn chị nói, “Vĩnh biệt chị!” Chị vội nói, “Tâm nói gì ghê vậy? Anh còn ở đây mà!” Trong thâm tâm tôi nghĩ, “Anh Trưởng cũng chẳng thể làm gì nổi để xoay chuyển tình thế!”

    Trên đường về tôi tạt ngang nhà anh BS H. nói ngắn gọn “Anh đi đi, lệnh bỏ Huế rồi!” Sau đó tôi tới gặp Đại tá Giám đốc BCH Cảnh sát Vùng 1 của tôi để xin phép một tuần về tìm mẹ tôi thất lạc khi Ban Mê Thuột thất thủ. Đại tá vẫn oai nghiêm trong bộ quần áo ngụy trang cảnh sát dã chiến mầu nâu nhạt ngồi đằng sau chiếc bàn rộng. Đại tá thân mật và tự tin nói, “Ừ, anh về tìm mẹ rồi trở lại. Tình hình có gì đâu, tôi còn ngồi đây mà.” Nói rồi Đại tá kêu ông Đại úy chánh sở nhân viên lên làm giấy phép cho tôi. Tôi rời Bộ chỉ huy luôn, không cần chờ lấy giấy phép.

    Về nhà, tôi được bà hàng xóm, vợ ông Thiếu tá Cường, khóa 13 Đà Lạt, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3 pháo binh (của Sư Đoàn 3) cho biết Thiếu tá Cường nhắn bà hãy theo gia đình tôi khi nào gia đình tôi di tản. Ông ấy tin nơi tôi có lẽ vì biết tôi là em họ bà Tướng Trưởng.

    Tôi và vợ xắp xếp tất cả 7 va li, đánh số từ 1 tới 7 theo thứ tự đựng những thứ quan trọng nhất. Nếu cần vứt bỏ thì cứ theo thứ tự mà làm. Nhưng những thứ quan trọng nhất là sữa, bình sữa của con, giấy chích ngừa của con, bằng cấp của tôi, nước uống thì tôi đích thân đeo trước ngực, coi như những thứ “bất khả ly thân”. Tôi cũng lận lưng khẩu ruleau có 6 viên đạn. Tôi dặn vợ tôi, “Khi lên tầu, ở bất cứ đâu cũng đừng ngồi cạnh anh, bởi vì bọn cướp chỉ cướp người yếu thế là người đi với gia đình. Anh sẽ luôn luôn ngồi trước mặt em, xem như người dưng. Một sĩ quan đi một mình thì chẳng thằng cướp nào ngu dại đụng tới làm gì. Nhưng nếu bất cứ thằng nào cướp đụng chạm tới em thì anh sẽ bắn ngay. Khi đó em bình tĩnh.” Tôi dặn vợ rất kỹ trường hợp xử thế như vậy để vợ tôi yên tâm. Tôi và vợ chạy tới bố mẹ và các em vợ chào giã từ. Cuộc giã từ ngắn gọn, không cảm xúc vì nỗi chết gần kề. Cha con anh chị em đều phải tự tìm đường sống, không ai cưu mang ai nổi.

    Buổi tối, chiếc xe jeep của Th. Tá Cường chở 2 gia đình với đồ đạc là chật chỗ. Tôi phải ngồi trên nắp thùng xe và tài xế cho xe chạy từ từ qua cầu De Lattre sang quận 3. Tới đầu cầu xe phải dừng lại trước hàng rào kẽm gai. Tôi bước xuống, vượt qua hàng rào kẽm gai, nói dối với toán lính gác là tôi đưa gia đình sang bến tầu đi Saigon, còn tôi phải ở lại với các anh em chứ! Xong câu nói dối, tôi cảm thấy hổ thẹn, nhục nhã. Bất cứ một sĩ quan cấp chỉ huy nào, dù là nhỏ nhất—trung đội trưởng—cũng đã từng hiên ngang hướng dẫn thuộc cấp xông vào lửa đạn, tôi không ngoại lệ. Nhưng hôm nay lời nói dối và sự bỏ chạy của tôi phản lại tư cách bình thường của một cấp chỉ huy. Nhưng tôi biết làm sao hơn trong tình thế này!

    Toán lính mở hàng rào cho xe tôi đi. Tới bến tầu nhỏ của Sở Tiếp- Vận Vùng 1, hai gia đình mang hành lý lên một chiếc tầu nhỏ. Trên đó cũng đã có một số người. Trời tối, không nhìn rõ mặt người. Tôi thấy yên- tâm vì nếu có người quen cũng không nhận ra tôi, và mấy người lính cũng không nhận ra lon trung úy của tôi. Chúng tôi ngồi một góc trên sàn tầu. Toán lính trên tầu chỉ có vài người, không có sĩ quan, họ đang sắp xếp mọi người trên sàn tầu và mọi người phải theo lệnh họ. Tôi tháo hai bông mai, giả làm lính cho dễ “nhận lệnh”. Tôi chỉ sợ họ đuổi xuống. Chờ một hồi lâu, chiếc tầu cũng ra khơi. Tôi đã mừng, không ai nói với ai lời nào. Nhưng niềm vui chẳng lâu, khi tầu ra tới cửa biển thì được lệnh quay trở lại. Toán lính cho biết tầu không đi nữa. Tôi nghĩ cấp chỉ huy của họ ra lệnh giữ tầu lại cho thân nhân họ rồi. Hai gia đình chúng tôi đành phải xách hành lý lên bờ. May quá! Người tài xế vẫn còn chờ. Trở về cư xá, nhà tôi đã bị dân vào phá toang, gạo, mắm bị mất, đồ đạc vứt lung tung. Nhà bà Th. Tá Cường ở bên cạnh cũng vậy.

    Tôi nhờ chú tài xế chở tới tư dinh tư lệnh. Cạnh dinh tư lệnh, cách một hàng rào tôn, có cửa nhỏ thông nhau, có một cái kho rộng, trước khi Trung Tướng Trưởng ra làm tư lệnh thì đây là kho bỏ trống, ngày xưa chứa gạo của Vùng 1. Từ ngày Tướng Trưởng ở chỗ này thì khu vực kho vẫn bỏ trống chỉ có vài chú lính tạm trú hàng ngày. Trong mấy ngày này, có vài gia đình sĩ quan Sư đoàn 1 quen biết với bà Trưởng ngày xưa từ Huế chạy vào đây tạm trú, tổng cộng cũng vài chục người.

    Cá nhân tôi chỉ là một sĩ quan cấp nhỏ, chức vụ không quan trọng. Nhưng nhiều người ở địa phương biết tôi là bà con thân thiết với gia đình Trung Tướng Tư lệnh, dòng họ tôi lại là Việt Nam Quốc Dân Đảng gốc, bản thân tôi cũng là thành phần Việt-quốc tích cực tại miền Trung. Hoạt động cho Việt-quốc nên tôi biết dân địa phương ở 6 tỉnh thị miền Trung ghê gớm lắm. Họ chia làm hai phe đối đầu nhau quyết liệt: Không Việt- quốc thì phải là Việt cộng, không có lưng chừng. Trong tình hình đó tôi thấy nếu không thoát khỏi Đà Nẵng thì tôi phải tự tử. Buổi tối, tôi gọi vợ ra chỗ vắng, tôi bảo, “Trong 24 tiếng đồng hồ nữa, nếu mình không thoát khỏi đây thì anh tự tử. Còn em và con thì để em quyết định.” Nghe xong, vợ tôi rướm lệ, giọng run run, “Chết thì cùng chết!” Ngay sau đó, tôi nghiêm giọng nói với vợ, “Thôi, em quyết định như vậy được rồi. Bây giờ không phải lúc khóc. Em hãy nín đi để anh đi tìm đường thoát.” Sau này, năm 1985, sau khi ra tù, tôi ghé lại Đà Nẵng, gặp một người lính cũ đang sửa đồng hồ trên lề đường chợ Mới. Vừa gặp tôi, anh giật mình, vui mừng nhưng vội kéo tôi vào một tiệm café vắng, “Úi chà! Sao ông dám về đây?” “Tôi cải tạo hơn 9 năm rồi mà!” “Nhưng ông về đây họ vẫn bắt ông lại được!” Thế là hai anh em hỏi thăm nhau mấy câu ngắn rồi vội chia tay, cũng để an toàn cho anh ta. Sau đó tôi tới thăm anh BS H. bạn thân năm xưa. Vừa gặp tôi anh mừng nhưng cũng hết hồn vội đưa tôi sang qua đêm tại một địa chỉ khác. Dân miền Trung, nhất là Quảng Nam, Quảng Ngãi rất quá khích, theo bên nào thì quyết liệt theo bên đó, tiêu diệt bên kia.

    Thế là mới từ chiều tới giờ, ngày 25/3/75, gia đình chúng tôi đã trải qua bao nhiêu biến động. Buổi tối, từ Saigon, bà Trưởng gọi ra cho biết hôm sau có phái đoàn Trung ương Hội bảo trợ gia đình binh sĩ ra thăm thì gia đình tôi theo phái đoàn mà vô Saigon. Tôi không tin phái đoàn sẽ ra trong tình hình này. Tôi gọi điện thoại tới Trung tá Đức, chánh văn phòng Tư lệnh hỏi xem Quân đoàn có di tản không? Ông Đức trả lời là không biết, chỉ thấy một đoàn công voa đang đậu trước Bộ Tư Lệnh không biết đi đâu, anh muốn đi thì tới. Lúc đó tôi nghe nói đường phố đã hỗn loạn, cướp bóc. Tôi chỉ nghe nói thôi chứ chưa chứng kiến. Tuy nhiên đi với gia đình thì nguy hiểm nên tôi không đi.

    Bất thình lình vào rạng sáng 26/4, chú tài xế của Bà Trưởng tìm tôi cho biết bên Tổng Lãnh Sự Mỹ có xà lan sắp ra khơi. Tôi vội lấy chiếc xe số ẩn tế của bà Trưởng chạy sang khu nhà kho đón gia đình, tôi bảo chú tài xế lấy chiếc khác chạy theo. Chỗ xà lan đậu cũng cùng đường với dinh Tư Lệnh, chỉ cách vài trăm mét. Tới nơi, chú tài xế và tôi bỏ xe chạy tới xà lan. Chú tài xế còn hỏi, “Chìa khóa xe để đâu hả trung úy?” Tôi bảo cứ để ở xe cho ai muốn lấy xe thì lấy. Chỗ vào cầu tầu có lính Hoa Kỳ cầm súng gác. Tôi cảm thấy yên tâm. Cầu tầu đông như kiến, mọi người đang chen lấn. Tôi đưa vợ con tôi lên xà lan, mấy chiếc va li bị vất hết trên bờ. Tất cả các album đều ở trong vali nên bị mất hết, giờ đây gia đình tôi không có tấm ảnh nào trước 1975. Khoảng cách giữa xà lan và bến cảng rất hẹp, sóng nước đánh chiếc xà lan rập rình làm bước trên cái cầu ngắn khó khăn, dễ rớt xuống nước. Đi trước tôi trên chiếc cầu nhỏ hình như có người bị té xuống khe nước nhưng không còn ai để ý tới người bị té nữa. Mọi người chỉ chăm chú tìm đường sống. Tôi chăm chú tới vợ và ba đứa con nhỏ của tôi, đứa lớn nhất 4 tuổi, con gái; đứa kế 2 tuổi, con trai; và đứa út 1 tuổi, con gái, vợ tôi bế trên tay. Vợ tôi cũng đang mang bầu. Lên được xà lan trời cũng mờ sáng. Tôi ngồi đối diện với vợ và ba đứa con. Chung quanh mọi người chen chúc ngồi sát nhau. Bất thình lình một anh lính trạc ngoài 20, mặc đồ Biệt động quân, khuôn mặt tròn, đầu cạo trọc, trông tướng cô hồn, đưa ra cái kính mát Ray-Ban hỏi mọi người ai muốn mua. Anh cho biết vừa từ Huế chạy về không có tiền nên cần bán. Mọi người lặng thinh, sợ sệt, không biết anh chàng lính này định giở trò gì đây. Với kinh nghiệm sống với lính tác chiến, sẵn lúc cũng cần một đệ tử cận vệ, tôi bảo anh lính: “Chú cất cái kính làm kỷ niệm để nhớ ngày hôm nay, không cần bán, cứ đi với anh.” Thế là tôi vững tâm hơn, trong người có khẩu rouleau, lại có 1 “cận vệ” là lính BĐQ, tôi đâu còn ngán thằng cướp nào nữa.

    Khi đầy người, chiếc xà lan được đầu kéo đưa ra ngoài biển rồi đầu kéo tách xà lan. Chiếc xà lan bị bỏ nằm bất động ngoài biển chứa cả mấy ngàn người. Chẳng ai biết rồi xà lan đầy người sẽ ra sao, cứ ngồi chờ. Vô số thuyền nhỏ bu quanh đưa người lên xà lan. Từ xà lan nhìn xuống những chiếc thuyền con như những chiếc lá tre. Chiếc xà lan dường như không còn chỗ. Người trên xà lan thì muốn ngăn cản người dưới thuyền, bảo họ trên xà lan hết chỗ rồi, cứ ngồi dưới thuyền mà chờ tầu tới vớt; người dưới thuyền thì muốn leo lên cho an toàn.

    Nắng đã lên cao, quãng trưa, một chiếc tầu của Hải quân Mỹ tới cặp với xà lan. Chiếc tầu tên Pioneer Contender, to khổng lồ. Thang được hạ xuống cho mọi người lên. Mọi người được lệnh bỏ lại vũ khí trước khi lên tầu. Người già, trẻ em và phụ nữ được cho lên trước. Sau khi vợ con tôi lên tầu thì tôi không bận tâm gì nữa, tôi và người “cận vệ” cứ yên tâm ngồi ở xà lan, chờ mọi người lên hết rồi mình lên sau cùng. Trong lúc đó người “cận vệ” đi lang thang lục tìm trong các túi, các đồ đạc, quần áo mọi người bỏ lại đầy trên xà lan. Cuối cùng người “cận vệ” cho tôi biết tìm được một số tiền và mấy cái đồng hồ. Nghe vậy tôi yên tâm và mừng cho anh ta. Anh ta đưa tôi chọn một cái đồng hồ, nhưng tôi không muốn lấy. Anh ta năn nỉ mãi tôi mới lấy cái đồng hồ nhỏ, hiệu Rado có giây đeo cổ, kiểu hơi lạ làm kỷ niệm.

    Khoảng 6 giời chiều ngày 26/3, tôi vứt khẩu súng xuống biển, hai anh em tôi là 2 người cuối cùng rời xà lan leo lên tầu Mỹ. Tầu quá đông người, nghe nói có tới 7 ngàn người. Những người lên trước được đưa xuống các hầm tầu. Tôi và người “cận vệ” chia nhau hai hướng để tìm vợ con tôi, điểm hẹn là chỗ khởi hành. Trên tầu có tới mấy cái hầm, rộng và sâu. Leo xuống, leo lên bằng cái thang sắt gắn sát vách tầu cũng mỏi rã cánh tay. Hầm tầu sâu và rộng, rất đông người. Muốn tìm thân nhân phải leo thang xuống tận nơi. Tôi mới leo xuống tìm kiếm được một hầm và leo lên thì gặp người “cận vệ” cho biết “Em đã tìm thấy chị và mấy cháu rồi, ở dưới hầm đằng kia!” Tôi theo anh ta leo xuống hầm. Dễ có mấy trăm người dưới hầm. Người nằm ngồi la liệt. Chưa thấy ai đi tiêu ra sàn, nhưng tôi thấy người ta đi tiểu ra sàn. Dù sao tình trạng cũng rộng rãi thoải mái hơn trong nhà tù. Trưa hôm sau tới Cam Ranh.
    Chiếc thang sắt bám sát vách tầu dựng đứng nên tôi không thể ôm đứa con út còn ẵm ngửa mà leo lên được. May nhờ chú “cận vệ” khỏe bế cháu lên dùm. Sàn tầu bằng sắt, buổi trưa nóng bỏng. Mấy người mất giầy dép phải cuốn bao ny- lông hay giấy dưới bàn chân. Mọi người được đoàn xe cam nhông nhà binh chở tới khu tập trung là một trại gia binh đang xây dang dở, đã có mái nhưng sàn mới đổ cát. Ở trước cửa khu gia binh có bàn phát nước uống và thực phẩm cho người tị nạn.

    Tôi để vợ con nằm trên cát với mọi người rồi vội ra tìm xe đò đi Phan Rang, nơi ông anh rể họ là bác sĩ Đoàn Trình làm trưởng ty y tế kiêm giám đốc bệnh viện tỉnh. Đoạn đường không tới 50 km nên cũng mau. Khi tới nơi, tôi thấy BS Trình đang ngồi với mấy người đàn ông ngoài hàng hiên. Thấy tôi, BS Trình giới thiệu ngay, “Đây! Người về từ mặt trận, mời người về từ mặt trận cho biết tình hình.” Tôi được giới thiệu một ông là phó tỉnh trưởng hành chánh Phan Rang, còn 3 ông kia là trưởng ty gì đó tôi quên rồi. Tôi nói ngắn gọn hiện nay Phan Rang còn yên tĩnh. Nhưng các anh cần theo dõi “thằng” CORDS (Civil Operations and Rural Development Service: Cơ quan Dịch vụ Dân sự và Phát triển Nông thôn). “Nó” còn thì còn yên tĩnh. Nhưng một khi “nó” hạ cờ thì chỉ 24 giờ sau rối loạn. Lúc đó các anh nên đi. Sau khi nghe tôi trình bày, các ông đó hẹn nhau ai về cũng tự chuẩn bị phương tiện tầu thuyền để khi đi thì rủ nhau. Sau đó BS Trình nhiệt tình lái xe ra Cam Ranh đón vợ con tôi về ngay buổi chiều.
    Vợ con anh đã về Saigon hết nên gia đình tôi ở đó cũng thấy thoải mái, không phải e dè gì. Buổi tối, cháu gái út bị tiêu chảy và khóc quá. May ông anh rể là bác sĩ nên mọi chuyện mau chóng êm đẹp. Ngày ngày tôi đi bộ ra phố. Mọi người vẫn sinh hoạt buôn bán bình thường, không có vẻ gì là lo lắng. Khu nhà ở của bác sĩ trưởng ty khá rộng, từ nhà ra tới cổng cũng khoảng 100 mét sân. Ở được mấy hôm, một buổi tối tôi thấy trước cổng ầm ầm tiếng hàng đoàn xe cam-nhông chạy ngang. Trời tối, từ trong nhà nhìn ra không rõ nhưng cũng ước đoán được nhiều xe cam-nhông nhà binh. Lúc đó cũng nghe đồn có cướp bóc ở ngoài đường nên tôi không dám ra xem. Mấy người nhân viên trong nhà thương cũng tụ họp ngoài sân bàn tán chuyện nên đi hay ở. Tôi bàn với ông anh rể là nên đi. Ông anh rể nhất định không đi. Ông ấy nói rằng nếu ông ấy đi thì ai chăm sóc các bệnh nhân trong nhà thương. Tôi thuyết phục ông ấy rằng nếu Việt cộng vô ông cũng không được chữa bệnh. Cuối cùng, tới khoảng 5 giờ sáng thì ông ấy siêu lòng, quyết định đi. Lúc đó liên lạc với mấy ông bạn phó tỉnh và trưởng ty cũng không được. Các ông ấy kể cả Đại tá Tỉnh trưởng cũng đã bỏ đi mà không ai báo cho ông ấy biết. Sau này tôi mới rõ là chính sự lo âu quá đáng của mọi người nên các địa phương cứ ùn ùn bảo nhau bỏ chạy. Cấp lãnh đạo, như tỉnh trưởng, trưởng ty… cũng bỏ chạy trước cả thuộc cấp và dân chúng, chứ Cộng quân đâu đã tới.

    Ông anh có chiếc xe jeep dân sự nhỏ, mầu trắng hiệu La Dalat lắp ráp trong nước. Trong nhà chẳng còn gì quí giá, ngoài các hộp sữa bột loại to, cao bằng 1 gang tay, dành cho con nít. Ông anh bảo tôi chất đầy phía sau xe. Nhờ vậy tôi cũng thấy yên tâm về thực phẩm đi đường. Tôi hỏi ông có súng không, ông ấy đưa cho tôi một khẩu carbin với chỉ có một băng đạn. Ông nói, “Đây là súng nhân dân tự vệ, anh được cấp từ lúc mới ra trường nhận nhiệm sở tại đây và anh chưa bắn phát nào.” Cây súng được ông cất kỹ trong hộc tủ gần 20 năm, chưa một lần sờ tới. Tuy súng đó lỗi thời, trong khi quân đội dùng súng AR 15, nhưng tôi cảm thấy yên tâm, vì nó là súng trường, đủ sức đe dọa đối phương và cũng đủ để tự vệ. Để chuẩn bị tâm lý cho ông anh bác sĩ quá hiền lành, chất phác, trong cơn loạn lạc, đầy bạo lực, tôi giải thích cho ông ấy, “Trong lúc anh lái xe, em chĩa súng ra ngoài. Bất cứ thằng nào chận xe em sẽ nổ súng ngay. Lúc đó anh cứ bình tĩnh chạy nhanh.”

    Lúc hai anh em chuẩn bị thì sân nhà thương vắng tanh. Nhưng khi chiếc xe vừa chuyển bánh thì một đoàn xe hơi của các bác sĩ khác trong nhà thương đã theo sau. Họ đã chuẩn bị từ lâu rồi, chỉ chờ bác sĩ trưởng ty “dông” là “dông” theo. Chuẩn bị tinh thần cho ông anh quả không thừa. Vừa ra khỏi cổng đã thấy mấy người mặc đồ lính dơ súng bắt chiếc xe tải dừng lại để họ lên xe. Trên đường đi tôi thấy một đoàn công voa Biệt động quân. Có lẽ xe hết săng và họ đang muốn chặn xe dọc đường để “xin săng”. Nhưng xe tôi chạy ngang với mũi súng carbin chia ra ngoài trong tư thế sẵn sàng nên không bị trở ngại. Dọc đường, qua mấy cây cầu vẫn thấy binh sĩ địa phương quân canh gác. Tôi thấy tội nghiệp cho họ, những người chiến sĩ bị bỏ rơi! Nếu tôi không chạy thì cũng bị bỏ rơi như họ thôi. Một chút ngậm ngùi cho thân phận những người lính và sỹ quan cấp thấp.

    Tới trung tâm thị xã Phan Thiết xe bị kẹt giữa hàng chục ngàn xe cộ đủ loại lớn bé, dân sự, quân sự. Nhưng bất thình lình hai ba quả pháo của Việt cộng rơi giữa thành phố khiến mọi người hoảng sợ chạy tán loạn. Trong phút chốc toàn thể trung tâm thị xã trống trơn. Hết sức ngạc nhiên khi thấy hàng chục ngàn xe cộ đủ loại đã biến đâu mất hết. Nhưng cũng may, chẳng thấy ai bị thương. Lúc đó ông anh tôi phải lái xe vào trú trong một con hẻm cũng đang có đông người. Bỏ xe tại đó, anh và gia đình tôi vào tá túc dưới một cái hiên nhà rộng.

    Một lúc sau lại thấy có một đoàn xe quân đội, có cả thiết giáp hùng hổ đi về phía nam. Hy vọng đoàn xe quân đội đi được thì lát nữa mình cũng đi theo. Nhưng rồi chỉ ít phút sau, đoàn xe hùng hổ đó lại quay về, cũng vẫn hùng hổ! Phía trước bị Việt cộng đắp mô. Đường đi về Saigon bị chận. Mọi người bàn tới chuyện tìm thuê ghe để về Vũng tầu. Trong đoàn người ngồi quanh, có nhiều người dân địa phương Phan Rang. Một số người nhận ra anh tôi là bác sĩ giám đốc bệnh viện Phan Rang nên ngỏ ý mời ông đi cùng khỏi trả tiền thuê ghe. Thuê một ghe tốn khoảng gần 300 ngàn—tôi không biết số tiền đó trị giá mấy cây vàng nhưng lương tôi có 32 ngàn/tháng, trong khi 1 tạ gạo giá 10 ngàn—Trong tình thế đó tôi thấy gia đình tôi không có cách gì đi tiếp về Saigon nên tôi bảo với anh là “chị và các cháu đã về Saigon rồi, anh nên theo họ về đi. Còn em sẽ lái sẽ trở lại nhà anh.” Tôi dự trù trở lại nhà anh ở Phan Rang thì sẵn có mọi thứ lương thực cũng sống được, Việt cộng vô có bị bắt thì cũng đành. Nhưng ông anh nói một câu ngắn gọn khiến tôi cảm động “Anh sẽ đưa gia đình em về Saigon!” Tôi với anh vốn dĩ chưa có mối thâm tình. Trong 20 năm anh làm rể ông bác tôi, tôi chỉ gặp anh vài lần vì anh làm ở Phan Rang suốt thời gian đó. Vì thế mối ân này tôi nhớ đời.

    Đến xế chiều thì ông bắt đầu tìm thuê một chiếc ghe. Mục đích chỉ để anh và gia đình tôi đi thôi. Nhưng những người xung quanh muốn xin góp tiền thuê để đi cùng. Anh lơ-là bảo tôi phụ trách thu tiền của những người xin đi theo. Dĩ nhiên phải xuống ghe người ta mới đóng tiền. Chủ ghe cho biết nhiều lính đã cướp ghe cho nên ông ta phải dấu kín chiếc ghe. Tới tối ông ta dẫn mọi người đi lầm lũi, âm thầm, tránh không để ai phát hiện mình có ghe. Từ buổi chiều, giữa sự hỗn loạn, đơn vị duy nhất còn quân kỷ là các sinh viên sĩ quan Võ Bị Đà lạt. Họ vẫn quần áo trận gọn gàng, tay ôm súng garant tư thế hành quân, đi hàng một theo vị sĩ quan hướng dẫn. Tôi cũng thầm phục những vị sĩ quan cán bộ lãnh đạo lúc đó vẫn lặng lẽ thi hành nhiệm vụ một cách nghiêm chỉnh; họ đã không bỏ chạy như tôi và nhiều sĩ quan khác, kể cả các sĩ quan cao cấp.

    Chiếc ghe không to lắm. Khoảng 30 người đã khiến chiếc ghe khẳm, nước mấp mé mạn ghe. Mùi dầu máy khiến tôi khó thở, nhưng tôi vẫn để vợ con dưới khoang cho an toàn, dù có hơi bị ngộp hơi dầu, còn tôi leo lên mui nằm mấp mé rìa mui; phải cố gắng nắm vào mui cho khỏi té. Ghe chạy rất gần bờ. Trong bóng đêm tôi thấy mờ-mờ hình dáng những ngọn núi dọc theo bờ biển chạy ngược con thuyền. Chẳng ai nghĩ tới việc góp tiền trả tiền ghe mà anh tôi cũng không nhắc việc thu tiền. Coi như không có họ anh cũng phải thuê cả chiếc ghe. Rồi tôi mệt quá ngủ quên. Không rơi xuống biển là may.

    Khi tôi tỉnh dậy thì trời đã sáng. Người ta nói đây là Long Hải. Khi lên bờ có các sĩ quan địa phương chào đón hướng dẫn. Cũng có phương tiện đón đồng bào vào khu tạm cư. Ông anh chào tạm biệt tôi để về Saigon. Bất thình lình tôi trông thấy gia đình mẹ vợ tôi cũng vừa mới ở thuyền lên. Rất ngạc nhiên làm sao mà gia đình vợ tôi cũng chạy kịp vào chốn này. Không có ông bố vợ. Ông bố vợ vì có hai bà nên kẹt lại tại Đà Nẵng với bà cả. Mẹ vợ tôi đi với mấy đứa em theo sự hướng dẫn của người em kế vợ tôi, cũng là quân nhân, hạ sĩ quan. Vừa nhận ra nhau cũng không hỏi thăm gì nhiều, bởi vì có gì đâu mà hỏi, vừa mới chia tay cách mấy hôm mà; mà cũng có giúp nhau được gì đâu. Hai bên chào nhau chia tay không hẹn ngày gặp lại. Gia đình vợ tôi lên xe chính quyền địa phương đón về trung tâm tạm trú, còn tôi đưa gia đình về Saigon.

    Ngay khi rời Đà Nẵng tôi đã có ý nghĩ miền Nam sẽ bị mất và tầu Mỹ ở ngoài khơi sẽ đón những người nào chạy ra được để di tản. Bởi vậy tôi luôn dự tính về một thành phố biển để dễ ra khơi. Khi gặp mấy sĩ quan tiểu khu Bà Rịa đang đón dân tị nạn, tôi hỏi thăm người bà con cũng là bạn học thân với tôi từ lớp đệ thất, đang là sĩ quan ở tiểu khu. Bà Rịa là thị xã nhỏ, mấy người sĩ quan tiểu khu biết liền và chỉ dẫn đường tới nhà Đại Úy Bình, lúc đó đang làm tiểu đoàn phó một tiểu đoàn địa phương quân. Họ bảo cứ xuống bến xe hỏi nhà Đại Úy Bình là người ta chỉ. Tôi hy vọng gặp Bình sẽ mô tả cho Bình biết tình hình mà đào ngũ rồi chuẩn bị ghe để ra khơi tìm tầu Mỹ. Ở Bà Rịa gần biển dễ đi quá mà Bình lại là sĩ quan ở địa phương lâu năm. Nhà Đ/U Bình ở ngay trước chợ, rất dễ tìm. Vừa vào tới nơi, tôi tự giới thiệu là anh em họ và cũng rất thân với Bình từ Đà nẵng chạy về. Nghe thấy vậy, chị vợ, tôi mới gặp lần đầu, không một lời hỏi thăm, trả lời lạnh lùng “Anh Bình đang đi hành quân.” Rồi chị ta mặc áo dài chuẩn bị đi. Chị ta không muốn tiếp. Tôi không còn cách nào ở lại để rủ Bình cùng nhau tìm đường ra biển. Tôi tiếc một cơ hội cho cả tôi và Bình. Sau này, Bình ra tù sau mấy năm cải tạo, gặp tôi nghe kể lại cũng lấy làm tiếc.

    Trên xe đò về gần tới Saigon, có nhiều trạm kiểm soát quân nhân rã ngũ, nhưng rồi cũng chẳng ai bị giữ lại. Đông quá rồi giữ họ thì giải quyết ra sao? Mọi chuyện hỗn loạn đang tiến về Saigon. Mẹ tôi còn bị lạc ở Ban Mê Thuột, may có người bạn giới thiệu với ông bà cụ già người Bắc di cư 1954 tốt bụng, ở trong xóm lao động đầu cầu Đa Kao, phía Gia Định, cho ở nhờ. Ông bà cụ lại nhường cho gia đình tôi cái giường chính ở giữa nhà khiến tôi ái ngại quá. Qua những năm tháng nghèo, lang bạt, rồi chiến tranh qua nhiều làng quê, tôi hiểu là những người nghèo luôn tốt bụng. Khi giầu-có người ta trở nên khác! Nếu không có ông bà cụ tốt bụng đó không biết gia đình tôi sẽ ra sao. Trên đoạn đường di tản suốt từ miền Trung vào tới Saigon, rải rác trên từng thành phố, có hàng vạn gia đình quân nhân di tản không có chỗ tá túc như tôi.

    Kể ra thì cũng chua chát cho người lính chiến, họ và gia đình họ được gì trong cuộc chiến đang diễn ra? Khi bại trận thì số phận họ còn chua chát hơn nữa. Trước kia nơi nào có dân tị nạn thì chính quyền lập trại tạm cư, nhưng lần này chính quyền còn lo chạy trước, ai ở đó mà lo cho người tị nạn. Ông bà cụ có một người con làm Đại đội trưởng còn đang ở mặt trận, và một người làm Trung úy Hải quân đóng ở căn cứ dưới Long An. Anh trung úy Hải quân về đón bố mẹ xuống căn cứ ở cùng để khi ra đi sẽ đi cùng. Nhưng ông bà cụ từ chối, bảo phải chờ anh con trưởng còn đang ở mặt trận. Anh ta hỏi tôi có muốn theo anh ta không? Tôi hỏi bao giờ đi? Anh ta nói chưa biết, nhưng các cấp chỉ huy đã mang gia đình xuống căn cứ hết rồi. Trên tầu cũng tích trữ sẵn nước và lương thực, dầu nhớt đủ dùng trong 6 tháng. Vì chưa biết chắc ngày nào đi nên tôi không theo anh ta. Âu cũng là số mệnh, anh ta đã ra đi với đơn vị ngay khi mất nước.

    Lo được chỗ tạm trú cho vợ con, tôi thở phào nhẹ nhõm, tuy rằng cuộc sống còn rất tạm bợ. Hàng ngày tôi lui tới những chỗ bà con và bạn bè để xem họ tìm đường di tản như thế nào. Bản thân tôi thì chịu, không hy vọng đi khỏi Saigon bằng máy bay hay tầu biển nên thấy yên tâm. Với tôi ván bài đã kết thúc. Khi biết rằng không còn cách gì xoay chuyển tình thế thì người ta không có gì phải bồn chồn. Tôi đi với nhà văn Duy Lam, người lãnh đạo một nhóm Việt-quốc trẻ tại miền Trung và cũng là một thành phần của tổ chức chính trị do Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy thành lập, tới gặp Giáo sư Huy. Nhà ông ở con đường nhỏ gần ngã tư Cao Thắng, Hồng Thập Tự. Nhà có một cảnh sát gác ở cổng. Ông là nhân vật thứ hai sau Giáo sư Nguyễn Văn Bông, Viện trưởng Viện Quốc Gia Hành Chánh, đã bị cộng sản ám sát trước đó mấy năm, nên sau đó ông được chính quyền bảo vệ. Có một thời nghe đồn ông được Tổng thống Thiệu dự định mời làm Thủ Tướng. Khi bàn về tình hình tôi thấy ông rất lạc quan. Tôi nêu sự kiện trên đường di tản từ Đà Nẵng, qua các tỉnh, tôi thấy khi nào cơ quan CORDS còn thì tình hình còn yên tĩnh, khi nào CORDS đi thì tình hình rối loạn. Ông cho biết cứ yên tâm, người Mỹ đã hy sinh mấy chục ngàn binh sĩ và hàng trăm tỉ ở Việt Nam, hiện nay Việt nam lại đã tìm thấy dầu hỏa, nên người Mỹ không thể nào bỏ Việt Nam. Cùng lắm chúng ta rút xuống miền Tây, sau đó Mỹ sẽ đổ bộ vào giúp chúng ta phản công. Tôi biết là GS Huy rất thân cận với chính giới Mỹ, nhưng qua quan sát thực tế trên đường di tản tôi nghĩ GS Huy lần này đã lầm.

    Tôi góp ý với một ông anh họ, luật sư, từng giữ chức Phụ tá Phó thủ tướng, rằng anh chị lúc nào cũng phải chuẩn bị tinh thần. Nếu không đi được cả gia đình thì bằng mọi giá anh phải ra đi một mình. Trong xóm lao động nơi tôi ở, mọi người sống yên bình, không ai bàn chuyện bỏ chạy. Họ đâu có gì để mất. Mà họ biết chạy đi đâu để có cuộc sống sướng hơn? Mấy quán cà phê trong xóm lúc nào cũng đông khách. Họ bàn chuyện chiến sự như chuyện ở một nơi nào xa lắc. Mấy người miền Nam còn hỏi nhau, “Hổng hiểu Việt cộng tàn ác ra sao mà mấy người Bắc kỳ di cư sợ quá há?” Tối 21/4, mọi người trong quán cà phê trong xóm chăm chú theo dõi bài diễn văn từ chức của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, trong đó ông chỉ trích mạnh mẽ Hoa Kỳ đã không chịu tiếp tục viện trợ cho miền Nam. Nhưng chẳng ai tỏ vẻ lo lắng việc Mỹ cắt viện trợ.

    Ở Saigon chỉ có đường máy bay. Nhưng không phải ai cũng có thể tìm đường thoát bằng máy bay qua cơ quan DAO (Defense Attaché Office) của Hoa Kỳ. Không phải toàn bộ dân chúng Saigon xôn xao tìm đường di- tản như ở các tỉnh. Chỉ những ai có mối quan hệ với các cơ quan Hoa Kỳ, hay với sĩ quan không quân, hải quân VNCH mới nôn nóng tìm đường bỏ chạy. Ở các thư viện sinh viên học sinh vẫn bình thản học thi, sắp tới kỳ thi cuối năm rồi.

    Tôi tương đối bình tâm hơn lúc ở các tỉnh vì không quen ai có thể giúp mình ra đi. Ngày ngày để vợ con ở yên tại căn nhà của ông bà cụ xa lạ người Bắc, tôi đi lang thang xem mọi người nôn nóng bỏ chạy. Trên đường Trương Minh Giảng tôi gặp một đơn vị Nhẩy dù kéo từ hướng ngoại ô vào. Tôi nể phục họ. Một toán mấy chiếc máy bay của Không quân VNCH bị bỏ lại ở miền Trung bị cộng sản sử dụng bay vào oanh kích phi trường Tân Sơn Nhất càng làm cho mọi người thêm hoảng loạn. Đám đông chen lấn trước cánh cổng đóng chặt của tòa Đại Sứ Mỹ đường Thống Nhất, gần dinh Độc Lập. Mọi người công kênh nhau muốn trèo qua cổng sắt nhưng bị quân cảnh và lính Mỹ đẩy lui. Họ muốn vào tòa Đại sứ Mỹ để được lên sân thượng để trực thăng bốc ra hạm đội 7 đang đậu ngoài khơi. Bà chị họ tôi, vợ Tướng Trưởng, được Mỹ tới đón đi mấy ngày trước, ông chồng thì ở lại. Ngày 29, Tổng Thống Minh yêu cầu người Mỹ ra đi trong vòng 24 giờ, và lệnh giới nghiêm được ban hành. Ông luật sư anh họ tôi với người em rể là Bộ trưởng y tế, phải chạy tới một cao ốc, địa điểm trực thăng Mỹ tới bốc trên sân thượng vào giờ chót trước khi cánh cửa sắt hạ xuống. Chuyến trực thăng di tản cuối cùng của Mỹ! Sáng 29, Tướng Trưởng đang ngồi một mình coi bản đồ hành quân tại Bộ Tổng Tham Mưu (TTM). Ngoài cửa vẫn có Đại Úy Hòa Tùy viên. Thiếu tá Kim phi công và chiếc trực thăng hành quân dành cho ông vẫn đậu dưới sân chờ lệnh ông. Các vị tướng và sĩ quan cao cấp khác của Bộ TTM đã bỏ chạy hết. Bất ngờ Tướng Nguyễn Cao Kỳ đáp trực thăng xuống đi một vòng chẳng thấy ai, gặp Tướng Trưởng rủ đi cùng. Tướng Trưởng và sĩ quan tùy viên theo ra trực thăng của Tướng Kỳ.

    Sáng 30-4-75, tầm 11 giờ, tôi nghe đài phát thanh phát từ mọi nhà vang đường phố lời Tổng thống Dương Văn Minh kêu gọi anh em binh sĩ buông súng đầu hàng…Có lẽ những người nôn nóng ra đi nhưng bị kẹt lại thì âu lo, nhưng tôi thở phào nhẹ nhõm… Tôi thấy nhiều người cũng vậy…Dân chúng tràn ra đường phố tìm đường rời Saigon về quê. Sự căng thẳng trong một tháng qua dường như vừa được giải tỏa. Vang trên làn sóng điện là tiếng của Trịnh Công Sơn hát bài Nối Vòng Tay Lớn. Dù sao anh cũng là một nhạc sĩ được thế hệ tôi mến mộ. Những ca khúc của anh thường được chúng tôi mang theo trong lúc hành quân vì khắc họa được cuộc sống bi-tráng của những người lính chiến chúng tôi. Nhưng sự xuất hiện của anh quá sớm, và quá hớn-hở với đối-thủ của chúng tôi đã khiến tôi hụt hẫng, cảm tưởng như bị một người bạn thân phản bội.

    Nhưng thôi, chẳng còn gì để trách móc nữa. Mọi chuyện đã an bài. Khi đối phương đã tới vòng đai Saigon thì không còn gì để tiếp tục. Những chiến sĩ đang còn cầm súng thì có lý do để trách hành động đầu hàng của Tướng Dương Văn Minh. Nhưng những người đã bỏ súng và bỏ chạy như tôi, với một nách vợ con đùm đề bên cạnh, lại không nơi tá túc v…v thì có thể có cái nhìn khác. Bởi thế đánh giá hành động của Tướng Dương Văn Minh vào thời điểm đó không phải dễ dàng.

    Nguyễn Tường Tâm

  9. #89
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,193

    Bạo động tại Đắk Lắk : Tức nước vỡ bờ! | Nhận Định Thời Cuộc



  10. #90
    Biệt Thự HaiViet's Avatar
    Join Date
    Oct 2015
    Posts
    1,193



    Ngoại trưởng Hoa Kỳ Blinken đến Bắc Kinh: Quan hệ Mỹ-Hoa bớt căng thẳng? |
    SBTN Nhận Định Thời Cuộc



 

 

Similar Threads

  1. Mỗi trang là một bài thơ
    By sôngthương in forum Chuyện Linh Tinh
    Replies: 2
    Last Post: 01-26-2016, 10:32 PM
  2. sang trang
    By n.c in forum Tùy Bút
    Replies: 5
    Last Post: 10-19-2014, 08:39 AM
  3. xin cho hỏi về trang...
    By visabelle in forum Làm Quen/Nhắn Tin/Hỏi Đáp
    Replies: 2
    Last Post: 04-04-2013, 01:34 AM
  4. Tỉa trái cây trang trí
    By lolem in forum Gia Chánh
    Replies: 1
    Last Post: 02-16-2013, 08:59 PM
  5. Sang trang
    By Hill in forum Không Gian Riêng
    Replies: 5
    Last Post: 06-03-2012, 03:09 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 11:00 PM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh