Register
Page 4 of 5 FirstFirst ... 2345 LastLast
Results 31 to 40 of 46
  1. #31
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    3,286



    Niềm Tin




    Bà Biền đang lom khom nhổ cỏ vườn, thỉnh thoảng đứng lại đưa tay lên quệt nước mắt trộn với mồ hôi, miệng thở dài lẩm bẩm: Chúa ôi! Vì tội lỗi con hay ý Chúa muốn mà con khổ quá thế này!

    Năm1953, chưa phát động đấu tố mà khí thế cách mạng vô sản hung bạo rung chuyển bao trùm mọi nơi. Những người có chút ít ruộng nương cũng như những người có nhiều điều lo âu tìm cách cất giấu những gì có thể cất giấu được.Còn những người xưa nay không có ruộng đất chỉ đi làm thuê cấy mướn đều hồ hởi bàn tán bao giờ mình được chia đất, chia nhà, chia ruộng, chia đồ đạc của những nhà giàu, những cường hào ác bá, những người đã cướp của nhân dân làm giầu, theo lời cán bộ nói.

    Ở thôn quê nhà nào có từ 10 mẫu ruộng trở lên đã bị liệt vào hàng khá giả, có khi trông bề ngoài ai có căn nhà cao ráo sạch sẽ, thêm cái sân lát gạch trước nhà để ngày mưa phơi lúa phơi rơm, dân làng đã đôn lên là nhà giầu.
    Có khác gì với nhiều người trong xóm, ông bà Biền bắt đầu gây dựng gia đình với 5 sào ruộng công điền làng chia cho theo ước lệ 3 năm một lần. Cả hai ông bà hiền lành, siêng năng, chịu cơ cực, chịu khó làm hết việc nhà lại đi làm thuê cho người hay hái dâu, nuôi tầm quanh năm không có ngày nghỉ. Mùa này đủ một ít, mùa sau dư thêm ít nữa, “tích tiểu thành đại”, để rồi năm nay tậu một mẫu ruộng, sang năm mua thêm mẫu nữa do sự cần cù, sẻn nhặt mà có, không như những người “bóc ngắn cắn dài”, làm sao có dư để làm giầu, tậu được điền sản.

    Ông bà Biền đã nghe nhiều người nói: “Cách mạng về sẽ lấy hết nhà cửa, ruộng vườn”. Ông bảo với bà:

    -Việc gì phải lo, mình ăn ngay ở lành, vất vả, sẻn nhặt mới có. Mình có đi nói dối, lường gạt ai, đè đầu bóp cổ ai đâu. Xóm làng hòa thuận, không để ai phải thiệt vì mình, ai cần đến không nhiều thì ít mình vẫn giúp đỡ mọi người.

    Nghe ông nói vậy, bà Biền vì tính lo xa vẫn lén lút bán lúa, bán gia súc để có món tiền phòng khi hữu sự.

    Bình, con trai duy nhất của ông bà Biền gửi học ở tỉnh lỵ Thanh Hóa, viết thư xin phép bố mẹ gia nhập quân đội quốc gia. Anh không dám trở về nhà, sợ bị cản trở không đi được nữa. Nhận được thư của con, ông bà lo lắng; thương con, bà nhất quyết đi thăm con, cho con ít tiền và ông bà Biền có ngờ đâu đó cũng là ngày vĩnh biệt giữa đôi vợ chồng già. Lặn lội đi bộ từ Quảng Xương tới Thanh Hóa, trên con đường từng quãng bị đắp mô, bị đào cắt khúc để cản trở địch quân, khi gặp con bà muốn con trở về nhà. Nhưng Bình cương quyết nói:

    -Má để con đi gia nhập quân đội quốc gia làm tròn nghĩa vụ trai thời loạn, sống chết theo Thiên ý. Nếu con trở về với bố mẹ, đã chắc gì được ở nhà, có khi con bị chết tủi nhục vì chúng có thể ghép con vào tội làm gián điệp cho người Pháp, vừa bị hạ nhục vừa bị khổ.

    Bà Biền ở lại chơi với con được ba ngày. Bình phải từ giã mẹ lên xe theo đơn vị. Trước ngày đi, bà Biền dặn con nhắc đi nhắc lại một điều: bất luận làm việc gì cũng phải gìn giữ sự thật thà, và chiến thắng sự thật chính là đức bác ái với niềm tin mãnh liệt vào Đấng Chí Tôn che chở sẽ biến cái họa thành cái may. “Con hãy tâm niệm, nhớ kỹ lời mẹ dặn khi nhớ đến bố mẹ”.

    Nhìn theo con cho đến khi xe chạy xa mới trở về. Đi chưa được mấy bước, chị hĩm Ba, người hàng xóm vẫn được bà Biền hay giúp đỡ, vẻ mặt đầy hốt hoảng, kéo bà vào gốc cây gần đấy, nói sẽ:

    -Bà không về nhà được nữa đâu. Sau khi bà ra khỏi nhà được chừng 4 giờ, du kích tới vây nhà, họ bắt ông đưa đi. Nhà cửa bị niêm phong, có người canh gác bên ngoài. Họ nói chờ bà về sẽ bắt luôn. Còn ông, qua hôm sau đoàn đấu tố lập tòa án nhân dân kết án ông là địa chủ ác ôn, lại có con làm gián điệp cho Pháp. Sau khi tuyên án, chúng đã bắn ông tại chỗ.

    Không nói được câu nào, bà Biền từ từ khuỵu chân đầu gối như rời ra, bà ngã xuống đất. Chị hĩm Ba moi trong túi bà Biền lọ dầu nóng (đi đâu bà cũng đề phòng mang theo) xoa lên đầu, cổ, chân tay. Một lúc sau, bà hồi tỉnh. Chị hĩm Ba đưa bà Biền về nhà trọ quen. Chị nói bà bị cảm cần phải ở lại tỉnh dưỡng mấy ngày rồi sẽ về. Cả hai không dám nói hở việc nhà. Bà Biền nhờ chị hĩm Ba trở về nhà lấy cho bà gói vàng, bạc bà đã cất giấu dưới chuồng heo và nhờ anh chồng chị lo liệu chôn xác ông Biền.

    Vài ngày sau, chị hĩm Ba đem số vàng bạc còn thừa sau khi chi phí chôn cất ông Biền đưa lại cho bà Biền. Bà Biền chia đôi số tiền và vàng đền ơn chị hĩm Ba một nửa. Chị từ chối không lấy. Chị nói:

    -Từ xưa đến nay mang ơn ông bà giúp đỡ đã nhiều, chẳng may ông bà gặp cảnh khổ hận, từ đây bà không còn nhà cửa, nơi nương tựa, rồi bà sẽ đi đâu?

    Không phải đợi lâu, bà Biền trả lời ngay:

    -Mấy hôm nay, tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Vì ông nhà tôi bị sát hại, tôi không muốn trở về quê nữa, chỉ thêm khổ cực. Còn chút ít tiền đây tôi sẽ tìm vào vùng quốc gia tìm con tôi. Tôi sẽ gặp con tôi.

    Chị hĩm Ba cũng nói:

    -Bà về vùng quốc gia là phải. Cháu trở về bàn với chồng cháu sẽ tìm cách vào vùng quốc gia sinh sống. Cách mạng nói rằng sẽ sung sướng, có tự do, bình đẳng mà cháu chỉ thấy người này bị bắt, người kia bị tù, bị giết vì thù oán hay vì có tiền có của, làm mọi người đêm ngày lo sợ, chưa biết lúc nào đến lượt mình.

    Bịn rịn mãi rồi cũng phải chia tay. Bà Biền là người biết suy tư tuy không có học nhiều. Tâm hồn ngay thẳng, cương quyết, bà tự nghĩ chồng đã bị sát hại rồi còn làm gì được. Đau buồn, khổ lụy chỉ làm cho mình mất sức, dễ đau yếu, đâu có còn ai giúp đỡ. Mình phải tự cứu mình, còn hy vọng tìm con là một nhiệm vụ sẽ phải làm. Gặp được con đời mình còn có mục đích. Và bà cố gắng không khóc, không than vãn, tìm cách ra Hà Nội.

    Việc đầu tiên bà tim tới thánh đường cầu xin: “Lạy Chúa xin hãy ban cho con được sự bình an trong tâm hồn để thay đổi những gì có thể thay đổi được. Để chấp nhận những gì không thể được và sáng suốt nhận biết được sự khác biệt những sự việc đó.”

    Ra khỏi thánh đường bà tự nghĩ: đi đâu, ở đâu, rồi lấy gì mà ăn. Phải tìm nơi quán chợ, gầm cầu ngủ qua đêm, rồi đi làm thuê làm mướn, ăn đói ăn khát mà tự lực, tự trọng còn hơn là đi ăn xin, ăn bám xã hội dù có người quen, người làng, có thể tá túc được. Bà đi tới từng cửa tiệm, từng nhà xin việc làm, bất cứ việc gì có thể làm được, miễn có tiền sống qua ngày. Và một hôm bà được một nhà sang trọng mướn làm công việc trong nhà, có chỗ ngủ.

    ***

    Một buổi chiều, ông chủ nhà bắc ghế ra vườn ngồi đọc sách. Ông nhác thấy người giúp việc nhổ cỏ vườn có cử chỉ hơi lạ, thỉnh thoảng ngừng tay quệt nước mắt hay mồ hôi, miệng lẩm bẩm nói gì. Ông gọi người đàn bà lại hỏi chuyện. Người giúp việc thưa:
    -Tôi tên Biền, quê ở Quảng Xương, Thanh Hóa, tránh nạn cộng sản tìm về miền quốc gia. Việc chính là đi tìm con tôi. Chồng tôi bị xử tử. Chúng buộc là thành phần tư bản ác ôn. Tôi thoát chết vì hôm đó tôi đi Thanh Hóa gặp con tôi. Cả hai mẹ con tôi không tính đến việc sẽ xảy ra. Con tôi nói đến căn cứ yên ổn sẽ viết thơ cho bố mẹ biết. Bây giờ tôi không còn biết con tôi ở đâu mà tìm.

    Ông chủ nhà hỏi:

    -Người ta buộc ông là nhà tư bản, bà giầu có sao không đem theo của cải mà chạy người không đến nỗi khổ nhục này.

    -Thưa ông, người ta buộc như vậy. Thôn quê có căn nhà sạch sẽ, có mấy mẫu ruộng họ cho là nhà giầu, là tư bản. Thực ra hàng năm ăn tiêu rồi có dư chút ít, tôi có phòng bị mua được ít vàng và ít tiền. Khi xảy ra tai nạn, tôi có nhờ được người lối xóm lấy được ít tiền và vàng tôi giấu. Họ có lấy được hết và đưa cho tôi. Tôi chia một nửa mà người hàng xóm không chịu lấy. Trong khi đi tìm con tôi, tôi gặp bao nhiêu người túng thiếu, khổ cực, tôi đã chia sẻ cho họ. Bây giờ hết cả, phải kiếm việc làm nuôi thân. Còn việc tìm con tôi, tôi tin rồi cũng sẽ gặp nếu tôi còn sống.

    -Cảnh khổ của bà thật đáng thương. Nếu hôm nay tôi không hỏi về tình cảnh của bà đâu ai biết bà có tâm sự não lòng như vậy. Bà tới đây cả tháng tôi chưa nghe ai trong nhà này biết về quá khứ khổ cực của bà. Bà không buồn hay sao?

    -Thưa ông, là người đâu phải gỗ đá, tôi cũng buồn, cũng lo lắng cho đời mình và lo lắng về con tôi hiện giờ ra sao. Nhưng tôi phải tự khắc phục để tìm lấy yên ổn cho tâm hồn trong công việc. Vùi đầu vào công việc cũng chưa tránh được sự xao xuyến, phải tìm nó trong nội tâm là hãy quên những lỗi lầm người ta làm cho mình.

    -Tôi thấy bà là người hiền lành, biết thương yêu mọi người, biết nhường cơm xẻ áo cho người thiếu thốn mà sao ông Trời ở bất công với bà như vậy?

    =Không, ông đừng nghĩ như vậy. Tôi tin có Đấng Tối Cao ở trên trời là đấng làm cho mặt trời mọc lên trên những người lành cũng như kẻ dữ và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Đấng chí công vô tư sẽ biến cái họa thành cái may đời này sẽ nối tiếp đời sau. Tôi đã sống bằng niềm tin.

    -Như vậy bà không phải là người thôn que. Bà đã có đi học và đọc sách nhiều?

    -Thưa ông, là người sống ở thôn dã, tôi đi học biết đọc biết viết rồi thôi. Tôi không có được đọc sách nhiều ngoài một quyển Thánh kinh của tôn giáo tôi theo. Tôi đặt niềm tin vào tôn giáo và giữ những điều hay như trong sách đã dậy.

    -Tôi thành thực phục bà. Đang sống trong tình trạng nghèo khổ cùng cực mà có tinh thần đáng quý hơn cả người khôn ngoan, tài trí mà thủ đoạn độc hại lẫn nhau. Hơn cả người giàu sang, phú quý mà lại lừa đảo, bất trung, hơn cả người uy quyền, thế lực mà lại hà hiếp, hối lộ.

    ***

    Năm 1954, theo đoàn người vào Nam, bà Biền đã gặp lại người con trai duy nhất đã là một chiến sĩ chiến đấu lừng danh với lòng quả cảm, có tâm hồn vị tha như lòng bà mong ước. Niềm tin mãnh liệt của bà đã biến cái họa thành cái may.


    Tuyết Minh

  2. #32
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    3,286



    Một Mẩu Ký Ức




    Cuối thu vào đông gió Bắc thổi xuống miền đồng bằng bắt đầu rét lạnh lại thêm giời mưa lất phất cộng lại càng lạnh hơn. Cũng là lúc mùa màng gặt hái đã hết, lúa, rơm, rạ được phơi khô, lúa vào cốt, rơm rạ lên đống gọn ghẽ. Trong những ngày mùa rất nhiều việc, những cụ già cũng phải giúp đỡ con cháu các việc nhẹ, không ai bình tâm đứng nhìn con cháu quá vất vả mà không ra tay giúp việc.

    Bây giờ không còn việc nhẹ cần đến các cụ nên có nhiều thì giờ nhàn rỗi để đi chơi sắm sửa hay đi thăm họ hàng, bạn bè, để tỏ tình liên ái dù xa xôi cũng tới nhà bạn ở có khi đôi ba ngày mới về.

    Làng Liên Quy, Hiếu Nghĩa, thuộc miền Nga Sơn là đất bồi bãi biển, người ta phá lác trồng cói ở ngoài còn nước mặn độ vài ba năm, trời mưa xuống đã rửa hết nước mặn, người ta lại đưa gốc cói ra trồng bên ngoài là những đất phù sa do lượng nước sông Hồng Hà và sông Đáy bồi lên. Những ruộng cói cũ đã thành ruộng lúa, người ở các vùng đông dân kéo nhau đến ở lập nghiệp, đất tốt, chim trời cá nước rất nhiều vì gần bờ bể.

    Người ta sống rất thanh bình, tình lưu luyến hiếu khách rất cao. Nhớ đến người bạn già ở Liên Quy, cụ Huân chiều hôm trước đã ngỏ ý cho bà cụ biết sáng sớm mai cụ sẽ đi thăm bạn cụ An Hòa, và ở lại chơi mấy ngày. Sáng hôm sau cụ dậy sớm đưa xe đạp ra sân nắn lại hai bánh xe xem có rắn chắc, tay lái, đĩa răng cưa có đầy đủ dầu mỡ. Chiều hôm qua cậu con trai khi nghe bố nói đi chơi đã tự động xem lại xe cẩn thận.

    Phương tiện giao thông ở nhà quê đi xe đạp rất phổ thông, khi không cần mang đồ nhiều quá, một vài bộ quần áo, ít quà để biếu bạn, xếp trên porte-bagage rất tiện. Vả lại con đường từ nhà cụ Huân tới Liên Quy nơi cư ngụ nhà cụ An Hòa xa chừng 20 cây số. Nhà cụ Huân ở thuộc Bắc Kỳ, nhà cụ An Hòa thuộc Trung Kỳ. Thời Pháp thuộc chia ranh giới hai miền là con sông Điển Hộ, một cây cầu bắc qua cho dân hai miền giao thông.

    Từ khi quân phiệt Nhật tràn vào Đông Dương không bảo nhau nhưng cùng một ý hướng giống thực dân Pháp, đã lũng đoạn hết cách làm cho dân Việt Nam một cổ hai tròng khốn khổ về kinh tế, cấm cách giao thông tắc nghẽn, có ý cho dân đói khổ không còn ý chí quật khởi chống lại bọn chúng, nên chúng đặt ra những luật lệ rất vô lý.

    Bọn Pháp chia nước mình ra ba kỳ như ba nước cho dễ cai trị, mỗi kỳ có luật riêng không giống nhau. Những nhà buôn vải từ Sàigòn về Hà Nội bán cũng bị cấm mỗi khi xe lửa dừng ở ga nào thuộc địa phận nào bọn cẩm phú lít ào lên khám xét toa chở hành lý hàng hóa dù nhà buôn xuất trình biên lai của nhà hàng ở Sàigòn… Đây thuộc đất Trung Kỳ không được phép đưa vải, len, sợi v.v.. qua đây. Bị tịch thu quan Tây bắt không chỗ kêu ca đành mất.

    Những nhà buôn Việt Nam mình khôn lanh hơn, họ chạy khắp các toa xe tìm một ông Nhật nào, chẳng biết chức vụ lớn nhỏ, nhờ ông can thiệp lấy lại hàng ngay tức khắc. Không biết tiếng Nhật nhưng với cử động bằng tay ra dấu kéo ông tới toa hàng, thế là hiểu ngay, đế tránh xẩy ra lôi thôi nhà buôn tìm cách giao thiệp để hàng hóa vào toa có người Nhật, không một ông Tây nào dám đột nhập khám xét.

    Trước thập niên 40, xứ Bắc Kỳ nền nông nghiệp tuy thô sơ vẫn không thiếu gạo mà còn thừa để xuất cảng qua cửa bể Hải Phòng, bằng chứng các phủ huyện thuộc miền duyên hải chỗ nào cũng có cửa hàng cân gạo của khách trú người Trung Hoa mua gạo để xuất cảng do những người nhà quê xay lúa giã gạo bằng tay đem tới bán. Vì chính sách tàn độc của bọn Pháp Nhật bắt phá lúa trồng đay tích trữ lương thực để cho dân thiếu gạo, các nhà buôn quay về tỉnh Thanh Hóa nhờ được chương trình nông giang cách đây ít năm đắp đập Bái Thượng khơi sông ngòi dẩn thủy nhập điền, mới có câu được mùa “Nông cống thì sống mọi nơi”.

    Bị cấm phải tìm kẽ hở các nhà buôn gạo chở gạo tới hải phận gần Điền Hộ chờ đêm tối mới vượt biển vào Tân Hải thế là thoát, đã vào tới đất Bắc kỳ tự do chở đi các nơi tùy ý. Có khi thuyền đang lênh đênh ngoài biển gặp bọn tuần duyên thuyền chỉ việc quay đầu trở lại đất Trung kỳ cách mấy chục thước cũng thoát nạn tịch thu.

    Trong mấy ngày ở nhà các cụ trò chuyện ăn uống muốn đổi không khí các cụ đưa nhau ra bãi biển, nghe nói có vài thuyền buôn đậu ở ngoài biển cách bờ không xa. Vì tò mò hai cụ tìm chiếc thuyền nhỏ thẳng đường chèo tới thuyền buôn mà các cụ đã trông thấy khi đi trên bờ. Tới nơi các cụ biết là bất đồng ngôn ngữ. Cũng chẳng sao, người ta đã đưa giấy để bút đàm và cho biết họ là người Trung Hoa mà người ta thường gọi là Tầu ô, cả hai cụ đều là người hiểu Hán học, rồi họ đưa các cụ đi xem các mặt hàng trong thuyền, phần nhiều là đồ sứ như bát đĩa v.v… các thứ như thuốc bắc, đồ tơ lụa của Trung Hoa. Mục đích đi chơi, các cụ chỉ xem cho biết chớ không mua gì. Sau khi họ đãi một chầu nước trà các cụ cảm hơn rủ nhau ra về.

    Vừa bước chân lên bờ, hai cụ đã được du kích trong làng rước với nghi vệ giao găm, lựu đạn nội hóa đeo chung quanh lưng, trên vai, tòng teng kiếm hay gươm cùn, họ đưa các cụ về trụ sở ủy ban kháng chiến đặt ở đầu làng. Thật ngỡ ngàng, các cụ đưa ra lý do đi chơi, cụ An Hòa xin ủy ban xét tình người làng đưa bạn đi chơi.

    Chủ tịch ủy ban phán rằng có ống viển kính đã trông thấy các cụ lên thuyền thông đồng với người ngoại quốc tức làm gián điệp, là Việt gian. Vào cuối năm 1946 chiến tranh bộc phát, quân Pháp định đổ bộ nhiều nơi đã tung gián điệp khắp chỗ, nên ta phải đề cao cảnh giác. Cụ An Hòa còn có thể châm chước, nhưng cụ Huân là người lạ, là người xứ Bắc kỳ theo đạo Công giáo rất đáng nghi ngờ. Đã buộc là gián điệp chẳng cần xét xử, không phải điều tra, cứ việc đưa thẳng lên lao Thành Tín giam vào trại Lý Bá Sơ cũng như trại Đầm Đùn, không cần tả lại ai ai cũng có thể hình dung ra được những cực hình dã man đối với tù nhân.

    Người nhà cụ An Hòa đưa tin cho gia đình cụ Huân biết cả hai cụ bị bắt, cũng không biết người ta đưa các cụ đi đâu, hỏi thăm ở đâu cũng chối không biết. Cụ bà Huân ốm yếu mấy người con còn nhỏ chưa quen đi xa ít biết giao thiệp ứng đối, khi được tin mấy người cháu lớn tuổi của cụ Huân tự động đến họp với đại gia đình tìm cách cứu cụ Huân. Việc đầu tiên là hãy dò la cho biết chỗ giam cụ Huân ở đâu mới có cớ đích xác để tìm cơ quan can thiệp; với Cộng sản lại đang thời kỳ chống Pháp làm gì có luật sư có tòa án mà kêu ca.

    Rồi họ phản công. Đang lúc chiến tranh chỗ nào cũng có canh gác, có du kích hơi khả nghi người ta bắt giữ lại để xét hỏi, đàn bà đi lại còn dễ hơn, nên người cháu dâu được đề nghị giả làm người buôn bán, chị đi mua được vài chục bánh thuốc lào để bán lẻ vì hầu hết đàn ông nhà quê thích hút thuốc lào, từ thị xã Thanh Hóa chị lân la hết nơi này đến nơi kia hỏi thăm, chị đã tìm ra nhà lao Thành Tín trại Lý Bá Sơ là nơi giam cụ Huân.

    Sau một hồi bàn đi tính lại không dùng tiền, không dùng lý được, cụ bà Huân và các con tìm về Phát Diệm, nơi ở của Cố vấn Giám mục Lê Hữu Từ kể hết tự sự, một lợi điểm cụ Huân đang giữ chức chánh trương hàng xứ là người Công giáo tốt. Giám mục Lê Hữu Từ sau mấy câu yên ủi gia đình cụ Huân, bảo người thơ ký thảo công văn bảo đảm xin tha cho cụ Huân, sau khi ký tên cố vấn Lê Hữu Từ đã cho người cầm tay đưa tới ông Đặng Thái Mai, chủ tịch hành kháng tỉnh Thanh Hóa.

    Sau ít lâu chờ đợi không kết quả, cố vấn Lê Hữu Từ phải gửi thư tới Hồ chủ tịch nhờ can thiệp, tạm thời bỏ chính sách giết nhầm hơn tha nhầm. Bấy giờ Đặng Thái Mai mới báo cho Đức cha cố vấn biết ngày cụ được tha. Được tin bà cụ Huân lại họp gia đình cắt cử ai là người có thể đi đón cụ Huân từ nhà lao vì đường xa không có đường xe hơi, chỉ có cách đi xe đạp đón cụ về.

    Một người cháu trai xung phong xin đi với chiếc xe đạp, anh đã đạp hơn một trăm cây số đường trường khúc khuỷu, ổ gà. Nhiều chỗ đắp mộ ngăn quân giặc phải đi bộ dắt xe. Lúc về anh nhường xe để cụ Huân đi xe đạp, anh chạy bộ theo sau và đun xe cho cụ đi đỡ mệt. Quá mừng mong cho chóng tới nhà, nhiều lúc cụ cố đạp nhanh, quên người cháu chạy theo sau dù mệt cũng cố chạy theo cho kịp.

    Về tới nhà sau mấy lời thăm hỏi vợ con, cụ Huân chỉ vào người cháu trai và người cháu dâu, cụ nói vì tình gia tộc các cháu đã chẳng ngại nguy hiểm khó nhọc, bỏ công ăn việc làm giúp đưa cụ về tới nhà, nói với các con phải biết ơn hai người cháu.

    Thực là một gương sáng thể hiện tình gia tộc thắm thiết của thời quốc gia.


    Tuyết Minh

  3. #33
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    3,286


    Tình Yêu và Nghĩa V




    Chiều xuống chầm chậm bóng hoàng hôn đang đi dần vào tranh tối trang sáng. Cũng như mọi chiều, sau bữa ăn khi người u già đang thu dọn bát đĩa để đi rửa Hiền bần thần trông ra cửa, kẻ đi người lại, nhưng nàng có nhìn thấy gì đâu. Như có một sức quyến rũ, nàng với cái áo the thâm mặc vào rồi dắt xe đạp ra đi. Thấy động, người u già quay lại nhìn nàng ái ngại nói một câu:

    “Thôi mợ bớt buồn. Đi chơi gần gần rồi về, giời sắp tối rồi.”

    Đã hơn tháng nay, từ hôm con gái độc nhất về bên kia thế giới, sau năm tháng oằn oại trên giường bệnh một mình nàng săn sóc thuốc men, ai nói thuốc hay ở đâu củng tìm cho bằng được, trong lúc vẩn phải theo dõi thời cuộc dù không theo chồng đi kháng chiến. Rồi như thành lệ, chiều nào nàng cũng lên nghĩa địa viếng mộ con cho đến tối mới đạp xe về. Trong trí Hiền suy nghĩ mung lung không còn định hướng, không còn thiết tha đến việc gì, lúc nào cũng nhớ đến con, thương con.

    Với chứng sốt rét rừng mắc phải trong thời kỳ ở chiến khu, Tân phải đi Hà Nội chữa bệnh. Đại đội anh chỉ huy được mệnh lệnh lên đường vào Nam diệt địch, cùng lúc phái xuất sự nghi ngờ, những lá đơn bay về Bắc Bộ Phủ tố cáo anh là địa chủ, muốn xưng bá đồ vương; biết con ốm nặng, được tin con chết, cũng đành lánh mặt nuốt hận.

    Cũng như thời kỳ hoạt động ở chiến khu, lúc ẩn lúc hiện chỉ cần tránh Nhật tránh Pháp với tụi chó săn của họ. Bây giờ đối đầu với cả một màng lưới nhân dân, chiêu bài cứu quốc, diệt tri phủ, cường hào, ác bá, việt gian, nhưng người ta chưa dám làm mạnh ngay với các đảng phái quốc gia vì quân đội Tầu sang giải giới quân đội Nhật.
    Hiền ở nhà trông con cũng như trước kia đã gìn giữ đường dây liên lạc khi chồng còn ở chiến khu. Bây giờ anh em họ vẫn tìm cách liên lạc với nàng để biết diễn tiến. Nếu có tin gì phải gấp đưa tin để Tân biết mà đối phó. Biết con ốm nặng nàng đưa con gởi bà nội săn sóc, tự mình phải đi báo tin cho Tân. Sáng sớm hôm sau ra bến xe hỏi không còn chỗ ngồi, nàng trèo lên chốc mui xe. Hiền phải hứa với lơ xe chịu trách nhiệm nếu ngã. Tới tỉnh lỵ, Hiền đi chuyến xe hỏa tốc hành cũng không có chỗ ngồi vì các toa chở đầy chật quân đội Tầu. Hành khách người Việt và hành lý đều bị dồn lên chốc mui tầu hỏa cho tới Hà Nội.

    Gặp lại nhau ở phố Ngô Quyền, Tân và Hiền chỉ biết nhìn nhau thông cảm. Tân nói sơ cho Hiền biết đã tìm hiểu, chế độ này phi nhân theo chủ nghĩa tam vô không thể hợp tác được dù nước đã được độc lập, anh có chủ định hãy trở về với con. Sáng hôm sau Tân Hiền chia tay nhau. Hiền lên xe hỏa. Lần trở về có chỗ ngồi không như lúc đi phải trèo lên chốc mui xe hỏa rất nguy hiểm khi xe chạy qua những cảnh cây mọc xòe ra hai bên đường.

    Xe hỏa chạy quá chậm, vào tới bến xe hơi lại hết chuyện về. Hiền nóng lòng muốn về ngay khi nghĩ đến con. Hiền lang thang tìm phương tiện để về, may mắn gặp người bạn cùng nhỡ xe như nàng, hai người bàn nhau thuê đò tuy biết rằng phải đi suốt đêm mới tới nhà. Chặng đường dài 27 cây số, về tới nhà vừa lúc con nàng chỉ còn chờ gặp mẹ để nhìn lần cuối cùng.

    Thời gian qua, tiếc thương cũng lắng đọng với sinh hoạt hàng ngày. Hiền đã trở về với mực sống bình thường, thỉnh thoảng có dịp đi thăm hỏi tiếp xúc với bà con thân thuộc mấy làng chung quanh, gặp những anh dân quân tự vệ, tinh thần có thừa, khí giới chỉ có mác và gậy.

    Nhà Hiền ở mặt phố, tiện việc mua đi bán lại về ngũ cốc. Nhưng một hôm bà bạn bên cạnh giới thiệu với Hiền một bà cùng đi với một người Tầu nhận là chồng vì thiếu tiền mua hàng muốn bán khẩu súng của quân đội Tầu để bán lại cho các tổ chức quốc gia vì đây thuộc khu an toàn.

    Đi mua rất dễ, cứ tới chỗ các chú nằm hút á phiện để điều đình, rồi sẽ có những cần xé đựng đủ từ súng máy các hạng được lôi từ gầm giường ra để mà chọn tùy thích, nhưng chuyển vận về cứ điểm là cả một khó khăn. Khi ra khỏi chỗ mua ngay giữa Hà Nội rất có thể một tên lính Tầu nào cũng có quyền khám bất cứ người Việt nào đi đường. Hiền cũng đã chuyển được mấy chuyến trót lọt.

    Một hôm vào buổi sáng như thường lệ, Hiền đang ngồi ăn bát cao ban long chưng với mật ong ở trên lầu, nghe tiếng đập cửa, nàng chạy xuống mở cửa. Có hai người công an, một mang súng đòi vào khám nhà. Hiền giang tay cản lại và hỏi có sự vụ lệnh mới cho vào khám. Hai tên đành để lại một người có súng đứng lại, tên kia về đồn lấy giấy, thừa lúc còn một người, Hiền đi nhanh lên lầu nhét vội bức thư vào bát cao, quay lại người cầm súng đã theo lên.

    Anh ta hỏi:

    “Chị nhét giấy gì vào bát?”

    Ngay lúc đó, nàng múc miếng cao có mảnh giấy bỏ vào miệng cố nuốt khỏi cổ. Nàng trả lời:

    “Tôi ăn cao.”

    Anh chàng kia vẫn nghi ngờ nhưng cũng chẳng có cách nào làm hơn. Khi người thứ hai đưa lệnh đến khám nhà. Hiền ung dung dẫn họ đi khám, vì miếng giấy Hiền nuốt đi là một bức thư khất nợ của người trung gian đưa súng đi bán chưa lấy được tiền.

    Sau khi ký biên bản hai người công an đi khỏi. Hiền quay vào nhà trong với vẻ chán nản lẩm bẩm một mình. Trong Nam quân Pháp theo gót quân Anh đi giải giới để thu hồi lại chính quyền, chính phủ chưa có biện pháp nào đối phó thu hồi lãnh thổ tiến lên độc lập hoàn toàn, chỉ rình rập hòng tiêu diệt các người quốc gia, đưa ý hệ ngoại lai áp đặt làm khổ dân chúng. Biết đến bao giờ mới có hòa bình.



    Tuyết Minh

  4. #34
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    3,286



    Tinh Thần Tự Lập




    Trời đã bắt đầu vào thu nhưng còn nắng như mùa hè, lại ít mưa. Lâu mới có được cơn mưa ngắn, nước không đủ thấm làm mềm đất như những năm trước. Năm ngoái nhiều ngày mưa lớn, mưa dai làm nhà nào trồng rau rất sung sướng, hả dạ vì cây gì cấy cũng dễ sống, lên nhanh không phải tưới nước. Chúng tôi cũng như một số người bạn đồng hương giống nhau ở chỗ nào cũng có vườn, hoặc rộng hoặc hẹp để cấy các thứ rau thơm thông dụng, giàn bầu, giàn bí hay mướp, tùy mỗi người một sở thích và những thứ cây này ít phải chăm bón, tưới.

    Mỗt buổi chiều đi làm về, ai cũng thích ra ngắm mảnh vườn nho nhỏ, xinh xinh, nhổ cỏ, vun tưới hay ngắt mấy ngọn rau thơm làm đồ gia vị. Còn muốn ăn nhiều những thứ rau khác phải tới mua ở chợ vì vườn nhà trồng chỉ có hạn, không đủ.

    Nhưng ít lâu nay chúng tôi không cần phải ra chợ để mua rau nữa. Mỗi tuần, ít nhất hai lần, hoặc buổi sáng hoặc buổi chiều, khu nhà chúng tôi có một chiếc xe bán rau đến tận nơi để bán. Xe rau này bán không thiếu một thứ rau nào ở quê nhà mình vẫn ăn. Thôi thì đủ thứ rau: rau muống, rau đay, mồng tơi, cải soong, rau dền, tần ô, cải thìa, cải làn, cải bẹ. Các thứ trái cũng có đủ như bí xanh, bí đao, mướp đắng, mướp hương, khổ qua. Chúng tôi khỏi phải đi chợ xa, mất nhiều thì giờ, lại vừa được giá rẻ vừa được rau tươi. Thật là tiện lợi!

    Xe rau này do hai ông bà cụ già đưa đến. Họ vừa bán rau vừa thu tiền, lúc nào cũng vui vẻ dễ dãi với khách hàng. Ai muốn mua thứ gì trên xe không có sẵn, cụ ông lấy sổ tay biên tên người khách và hẹn lần sau sẽ đưa tới. Là khách hàng quen, lại thấy ông bà cụ chiều khách vui tính, tôi tò mò muốn tìm hiểu về hai người. Một hôm tôi hỏi:

    -Nhiều rau thế này, các cụ đi mua lại rồi đưa đi bán hay các cụ trồng lấy?

    Cụ ông trả lời:

    -Chúng tôi tự trồng lấy để bán nên mới được giá rẻ. Nếu đưa tới chợ bán buôn cho họ thì nhanh và tiện nhưng không được bao nhiêu. Chúng tôi chở đi bán rong mất nhiều thời giờ nhưng được giá hơn. Các bà mua rau của chúng tôi vẫn được giá rẻ hơn ở chợ và rau tươi hơn.

    Toi hỏi thêm:

    -Các cụ tới đây đã lâu chưa? Mà sao đã già, các cụ còn phải đi làm?


    Ông cụ kể:

    -Chúng tôi tới đây được hơn hai năm do các con tôi bảo lãnh. Tuy các con tôi không muốn chúng tôi làm việc nhưng chúng tôi thích làm, thích tự lập. Chúng tôi thấy nghề trồng rau dễ làm, không cần học hỏi gì nên thích hợp cho chúng tôi.

    Chắc bà muốn biết trước kia tôi làm gì mà bây giờ lại quay đi làm nghề trồng rau? Thú thật với bà, ngày xưa tôi là công chức, sau đi dậy học, cần rau thì ra chợ mua, có bao giờ để ý đến chuyện trồng rau. Sau 30 tháng 4 năm 75, chúng tôi cũng may mắn các cháu đã lớn cả, chúng tôi bán chác đồ đạc, tom góp cho các cháu đi vượt biên. Chúng tôi ở lại để nếu không may bị bắt, bố mẹ còn ở ngoài lo liệu giải cứu.

    Rất may mắn, các cháu đến nơi an toàn; sau đấy chúng lần lượt gửi quà về giúp chúng tôi. Vì vậy ở nhà chúng tôi cũng đầy đủ và sung sướng, lại còn thừa được để giúp họ hàng bạn hữu.

    Được đi đoàn tụ với các con chúng tôi hết sức vui mừng. Chúng tôi nghĩ các con tôi gửi quà, đồ dùng máy móc đủ tiện nghi về nhà vậy, sang xứ văn minh nhất thế giới này, chúng tôi sẽ còn hưởng đủ sang trọng, tiện nghi hơn như thế nào nữa. Nhưng sang đến đây chúng tôi mới khám phá ra và hiểu rõ. Ở đây, nhà cửa, ăn mặc đầy đủ tiện nghi theo với nếp sống của một nước văn minh, nhưng phải đi làm để lấy tiền cuối tháng trả bill. Tiền nhà, tiền điện, tiền nước, tiền xe… Có cái gì là sở hữu vĩnh viễn đâu?

    Trước kia, các con tôi thường xuyên gửi quà về giúp là do lòng hiếu thảo, phải dè sẻn bớt tiêu mới có, chứ không phải đã có nhiều tiền để gửi về như chúng tôi đã tưởng lầm.

    Thấy các con đi làm vất vả, chúng tôi tự nghĩ không muốn ỷ lại vào các con khi mình còn có thể làm được gì để giúp con hay ít nữa mình cũng tự túc được. Vả lại tôi tuy 65 tuổi nhưng còn khỏe, minh mẫn. Bà nhà tôi 63 tuy yến hơn tôi nhưng bà ấy cũng không muốn ngồi yên. Thế là chúng tôi bàn nhau nghiên cứu cách tự kiếm việc làm.

    Việc đầu tiên là tôi phải đi học lái xe. Nguyên các việc không biêt lái xe là đã làm phiền các con tôi nhiều: đi lễ nhà thờ, đi thăm họ hàng, bạn hữu, mua bán, chúng phải chia nhau để đưa chúng tôi đi. Bất tiện hơn cả là khi chúng tôi muốn đi thì các con bận việc, khi có thì giờ đưa đi thì chúng tôi không muốn đi. Lấy được bằng lái xe rồi đi tìm việc mới biết khó vì tuổi tác, người ta chê tuổi cao.

    Tôi không chê việc gì, có việc là chúng tôi nhận làm, từ việc cắt cỏ đến làm cho các chợ. Bà nhà tôi cũng đi làm: muốn tiện việc cùng đi chung, tôi kiêm được việc lau nhà cho các công sở về đêm. Khi hết giờ tan sở là lúc hai chúng tôi bắt đầu làm tới sáng hôm sau. Được ít lâu nhà tôi phàn nàn phải bỏ đi lể hàng ngày vào buổi sáng, làm thiếu sót phần tâm linh sửa soạn cho cuộc sống đời sau. Vào tuổi già chúng tôi như thế không thể tự tha thứ được. Các con tôi cũng không muốn chúng tôi phải đi khuya về sớm, mất giấc ngủ dễ ngã bệnh.

    Chúng tôi thôi làm mới nghĩ ra cách trồng rau không cần giờ giấc bó buộc, bán cho người mình để kiếm lời. Sẵn có xe, biết lái nên chúng tôi cứ cách vài ngày lại chở rau tới các đầu đường bán cho các bà. Vừa được rau tươi, lại giá rẻ hơn ở chợ mà các bà đỡ phải tới chợ tìm mua. Làm nghề này chúng tôi ung dung thoải mái không phải phiền đến ai.

    Các con tôi hay thắc mắc bố mẹ còn phải kiếm sống nên tôi phải giải nghĩa cho chúng hiểu: Các con bảo lĩnh cho bố mẹ, theo luật, bố mẹ chưa được hưởng trợ cấp, các con có bổn phận phải nuôi nấng, khi đau yếu cũng phải trả phí tổn. Bố mẹ thấy các con đi làm về, cuối tháng trả các thứ bill, còn dư giả chút ít cũng phải chia ra tháng này sắm thêm đồ dùng, tháng tới sắm thêm thứ khác. Ngoài ra các con phải để dành cho các cháu sau này lớn lên vào đại học tốn kém, cũng như xưa kia bố mẹ để dành cho các con đi học vậy.

    Còn điều khác nữa chúng tôi nghĩ trong lòng không nói ra. Nên tránh cho các con tôi nếu dâu hay rể tôi có tính quá dè sẻn, thấy vợ hay chồng phải chu cấp cho bố mẹ tất nhiên sẽ khó chịu. Tuy lịch sự không nói ra ngoài nhưng trong lòng bất mãn tìm cớ gây sự trong gia đình. Đây là một nguyên cớ làm con mình khổ giữa bên hiếu bên tình, có khi vì thế mà tan vỡ gia đình. Vì thế mà vợ chồng già chúng tôi hết sức tránh không muốn làm hay nói điều gì chạm đến tự do hay tổn thương đến tự ái các con.

    Chúng tôi còn sung sướng hơn ở chỗ đã tự làm ra tiền, còn thừa được bao nhiêu gửi về bên nhà giúp anh em họ hàng bạn hữu, không phải ngửa tay nhờ đến các con. Nếu các con muốn là tự ý giúp thêm thôi.

    ***

    Nghe hai ông bà cụ già kể truyện thật hấp dẫn, tôi rất phục tinh thần tự lập của các cụ có thừa. Đã giúp coi sóc các cháu, các cụ lại tự trồng tỉa, kiếm hoa lợi để tiêu, lại còn tiền gửi về giúp đỡ những người ở nhà. Hai cụ bán rau kể trên đáng tiêu biểu cho tinh thần tự lập của người Việt mình.


    Tuyết Minh

  5. #35
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    3,286



    Một Truyện Xưa: Tình Gia Tộc




    Một buổi sáng về mùa đông trong không khí êm đềm, im lặng, mấy người lớn, cha mẹ các anh các chị tôi đã có người thức nhưng vì thời tiết khá lạnh, chưa ai muốn tung mền ra khỏi giường trừ chị giúp việc phải dậy sớm nấu nước dưới bếp.

    Bất thần một âm thanh vang vọng như thúc giục mọi người phải dậy. Tất cả nhà ai cũng giật mình đều tung mền ra khỏi giường, vội khoác áo dầy mở tung cửa để xem việc gì quan trọng đã xẩy ra. Tôi cũng vội vã mặc thêm áo ấm theo chân các chị tôi ra khỏi nhà.

    Một đám người vừa đàn ông, đàn bà cả trẻ nít từ phía nghĩa địa trở về khu xóm vừa đi vừa kêu la chửi rủa… đứa nào đã đào trộm mất mả tổ của chi họ… Nhưng lời bâng quơ bóng gió ám chỉ bác Hai đứng đầu một chi họ.

    Bác Hai là người giầu có nhất làng, hiền lành hào hiệp hay giúp đỡ người nghèo túng nhưng tính cương trực dễ làm mất lòng những kẻ thích xu nịnh. Bác đã là nạn nhân của mấy người chức dịch trong làng ở thôn quê nôm na gọi là bọn cường hào ác bá. Bọn họ chú ý đến nhà bác Hai. Cứ đến xin một hai con gà, mai đến mượn tạm ít tiền, mốt tới vay ít lúa hẹn sẽ trả sau. Thấy dễ ăn chúng làm tới nhiều lần nhưng nếu ai không chịu được lối làm tiền trắng trợn, vô lý đó và tìm cách từ chối chúng sẽ tìm cách trả thù.

    Rồi một hôm tối trời chúng đào một lỗ huyệt để sẵn mấy tấm ván thôi, là thứ gỗ quan tài cũ lấy từ một bờ bụi trước kia có người vứt đi khi cải táng các ngôi mộ. Lúc đó mấy người đàn ông thuộc chi họ mất mả tổ kéo nhau tới hội đồng xã đưa cau rượu mời hương chức tới nghĩa địa xin chứng kiến để họ đi kiện. Bọn đàn bà và trẻ con đi rêu rao chửi bới cả chi họ bác Hai từ đầu làng cuối xóm bằng lời tục tĩu bóng gió. Hết mọi người đều nghe biết, làm cho những người họ hàng đều hiểu câu chuyện thuộc gia tộc mình, họ tự động kéo nhau tới nhà bác Hai, từ người người ruột thịt đến những người có họ xa tới hàng cháu chú cháu bác cháu cô cháu cậu những người mang cùng tên họ, thậm chí những bà cô đi lấy chồng các làng bên cạnh được tin cũng đưa theo các con mình tới nhà trưởng tộc để hỗ trợ.

    Mẹ tôi khi nghe biết sự việc trong họ đã đốc thúc tất cả mọi người bỏ việc nhà kéo tới nhà bác Hai. Trong nhà bác đầy người, kẻ đứng người ngồi ra tới ngoài hiên, để nghe các ông bà trưởng thượng bàn nhau xong, tức khắc phản công: một nhóm trai trẻ đi theo vài ông tới nghĩa trang trước, nhóm đàn bà con gái theo sau. Bác Hai gái dẫn đầu làm áp lực đối phương, cũng vừa đi vừa la hét chửi không đích danh những người bất lương vu oan giá họa cho giòng họ này.

    Khi hai bên đều kéo tới nghĩa trang theo hương lý chứng kiến để làm biên bản, bên nguyên, một người đại diện đứng ra trình bày là ngôi mộ tổ bị mất trộm hài cốt, sẽ làm cho cả họ ăn không ngon ngủ không yên, cả họ mắc tội với tổ tiên, làm thiệt hại cho trong họ, nhiều người phải bỏ công ăn việc làm đi tìm hài cốt.

    Khi được hỏi bên nguyên có nghi cho ai là thủ phạm, một người bên đó đứng ra trả lời: có hồ nghi cho ông Trần Văn Hai là thủ phạm vì ông này có tính đố kỵ, thấy họ chúng tôi có nhiều người khá giả có uy tín ở làng nên ông ta đào trộm mộ tổ của chúng tôi để trong họ chúng tôi sẽ làm ăn lụn bại không ngóc đầu lên được.

    Bên ông Hai một người đàn bà đại diện rẽ đám đông đi ra, bà ta xắn tay áo chỉ mặt đối phương hỏi:

    -Anh nhận chỗ này là ngôi mộ tổ của anh bị đào vậy anh có dấu vết gì làm bằng, chỗ này trước kia không là ngôi mộ, bằng cớ những cây lúa đã nhổ lên còn vất tung tóe chung quanh. Đây chỉ là một đám ruộng được đào lên rồi chôn xuống mấy mảnh ván thôi. Nếu muốn đào mộ lấy cổ quan tài dài rộng như ta thường thấy, thì ít nhất phải đào đất dài rộng hơn cỗ quan tài mới moi được quan tài lên khỏi mặt đất. Chỗ ruộng này phải sày xéo rộng gấp 5, 7 lần chỗ này mới đúng, mà dấu vết đào nào có lớn gì, chỉ đủ chôn con chó chết. Thế mà anh dám nhận đấy là mộ tổ nhà anh sao? Còn bảo rằng chúng tôi đào trộm mộ tổ nhà anh lấy hài cốt về để bón vườn chăng?

    Với những lời cay độc làm cho đối phương nổi sùng, hai bên như đã dàn thành thế trận, bọn hương lý đã phải huy động tuần tráng giữ trật tự. Tiếp sau là bao nhiêu cái miệng các bà các cô đôi bên chửi nhau bằng tất cả những danh từ thật xấu xa.

    Bên nguyên nhiều người trong họ nhận thấy sự bất chính dã man vu oan cho người khác, họ bỏ về, rất ít người theo. Nhận thấy bên bị cả gia tộc cố kết hỗ trợ nhau, quá ức nhiều người định xông tới đối phương dùng võ lực muốn ăn thua đủ, bên nguyên cảm thấy thế yếu không chống nổi đành hạ màn rút lui. Thấy đối phương đã rút nên cả đại gia tộc cho là đã làm xong nhiệm vụ bênh vực cho người trong họ cũng tự động giải tán. Còn lại mấy ông bà có địa vị trong gia tộc ở lại nhà bác Hai bàn về hậu quả sau khi hương chức đã đưa nội vụ lên phủ.

    Mục đích mất mộ tổ chỉ là dụng ý của bọn tiểu nhân muốn kiếm món tiền nếu khổ chủ chịu điều đình, thấy không sơ múi gì cả hai bên yêu cầu hương lý để biên bản về phủ dường. Theo luật, tội đào trộm mộ của người khác là một trọng tội. Vụ án mơ hồ không đủ chứng cớ buộc tội, lục sự sơ thẩm phải đệ hồ sơ về tỉnh, thấy vụ án cứ kéo dài mất thời giờ tổn phí đi lại lên tỉnh xuống phủ mỗi lần cứ bị bọn nha lại làm khó dễ nếu không chi tiền cho chúng, phần nhiều quan lại tham nhũng chỉ trông vào người có khả năng chi tiền bác Hai đành phải bỏ ra món tiền để vụ án chóng kết liễu dù bản án không đủ chứng cớ buộc tội.

    Với tình gia tộc mọi người đều cho là có bổn phận giúp nhau khi hữu sự, không ai có hậu ý được hưởng lợi lộc gì. Trong họ hàng người nghèo khi cần đến vay người giàu vẫn trả lời, thuê ruộng vẫn nộp tô, mua lại đồ dùng, súc vật vẫn trả tiền, thuận ý cả đôi bên tình lý phân biệt. Nhưng khi cần hỗ trợ nhau, họ sẵn lòng bỏ công việc nhà, đồng áng, đến giúp nhau, không kể sự thiệt thòi về vật chất.

    Người mình xem trọng tình gia đình, nghĩa gia tộc. Đó là một sợi dây thiêng liêng nối kết từng đại gia đình với nhau. Đây không phải là một điểm son trong văn hóa Việt hay sao?


    Tuyết Minh

  6. #36
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    3,286
    Tình Kháng Chiến



    Mùi thất thểu đi trong sương sớm, tay cầm chiếc nón ơ hờ, chẳng nghĩ đến đội lên đầu che sương sợ cảm lạnh như mọi khi có việc đi đâu buổi sớm mai. Một tay nàng xách chiếc giỏ mây nặng chĩu, từ tối hôm qua đã cẩn thận xếp tất cả quần áo, gương lược, những thứ cần dùng với dự định phải đi xa, lâu hàng tháng mà ngày về chưa nhất định.

    Từ đầu làng nàng nghĩ tới quãng đường từ đây tới ga Phủ Lý không đi bộ nổi với cái giỏ nặng nề, bụng ì ạch thất thểu thế này bao giờ mới tới ga. Vừa may có một chiếc xe kéo trờ tới, nàng trả giá cho mau không cầu kỳ kèo bớt một thêm hai miễn tới ga cho sớm, sợ gặp người quen lại hỏi thăm đi đâu, mất công nói quanh. Tới ga lại phân vân không biết nên đi Hà Nội hay xuôi Nam Định, còn quanh quẩn ở lại Phủ Lý dễ gặp người quen. Dù sao ở Nam Định cũng có chú thím buôn bán ở đấy, tới nhà chú thím tá túc và nhờ chú thím giúp đỡ che chở. Đã nhất định, Mùi lấy vé xuôi Nam đến nhà chú thím.

    Người ta thường nói: “đàn ông vượt biển có đôi, đàn bà vượt cạn cút côi một mình.” Ngày mình sinh chắc gì Quang về kịp, vả lại chàng có biết được mình ở đâu mà tìm. Người ta nói khôn ba năm dại một giờ, đúng vào trường hợp của mình, đã nghĩ kỹ nhưng không tính xa, dù cách mạng kể là thành công, những giá trị cổ truyền nề nếp, và thủ tục môn đăng hộ đối vẫn tồn tại chưa thể một sớm một chiều dứt khoát được. Tiếng còi tầu báo hiệu tầu tới ga cắt ngang ý nghĩ đưa Mùi về thực tại.

    Cũng như bao nhiêu thanh niên thiếu nữ hăng say tham gia cách mạng còn trong bóng tối, đuổi Pháp, chống Nhật, được tuyển chọn đi học lớp huấn luyện, là một vinh dự trong lòng ai nấy phấn khởi sục sôi bầu nhiệt huyết, dù khi đi học phải tự túc đem theo hành lý cá nhân, quần áo thuốc men tiền bạc. Cùng đi trong tổ Mùi nhận được Quang người cùng làng. Trước đây Quang đi học ở Hà Nội, ít khi gặp, dịp hè và ngày Tết Quang mới về làng.

    Chàng thuộc gia đình vọng tộc, tuy biết nhau nhưng không giao tiếp, bây giờ theo cách mạng không phân biệt giai cấp, vì tình người làng nên Mùi Quang dễ thân nhau; trong kỳ thụ huấn, sau khi cơm chiều hay giờ nghỉ, hai người rủ nhau đi dạo thơ thẩn trao đổi tâm tình, ý hợp tâm đầu có lúc rủ nhau đi dạo thơ thẩn, ý hợp làm đầu có lúc rủ nhau vào rừng bẻ hoa tìm trái sim.

    Giao tình đi đến chỗ keo sơn hứa hẹn, cách mạng thành công sẽ tổ chức lễ kết hôn, dự tính của đôi thanh niên phấn khởi khi ngày 19-8-1945 cũng như gần hầu hết mọi người hân hoan nghĩ đến lúc nước nhà độc lập được tự do, hạnh phúc tràn ngập. Trong tâm trạng náo nức cả hai khi quá yêu nhau đã cho nhau cả tâm hồn lẫn thể xác, rồi cả hai đều bàn về thưa với đôi bên cha mẹ lo liệu lễ hôn nhân sớm hơn ý định. Nhưng không ngờ đã vấp vào bức tường thành kiến.

    Khi Quang về thưa với bố mẹ ngỏ ý muốn lập gia đình, ông bà Phán mừng rỡ đều nói đã tìm sẵn một chỗ môn đăng hộ đối, vì thấy Quang còn bận nay học lớp này mai bổ túc lớp kia, bây giờ có thì giờ rảnh rỗi nên lo bề gia thất để bố mẹ an lòng, đám này vừa đẹp người, tốt nết con nhà giầu, dòng dõi, lấy vợ phải xem tông lấy chồng xem giống, bố mẹ đã xem xét cân nhắc cẩn thận, vậy tìm bà mai để còn đi coi mắt rồi bố mẹ đặt trầu luôn.

    Quang ù tai khi mẹ nói xong, và chàng xin tìm lấy người hợp ý với mình. Chàng thưa với bố mẹ đây là một đồng chí đã đi học với nhau, hiểu nhau và đã yêu nhau, không cần phải con nhà sang trọng giầu có. Ông bà Phán đã nổi sùng, phản đối khi Quang trình bầy, nhất định phải theo ý ông bà, cho Quang nghĩ lại sẽ làm lễ hỏi. Đôi ba lần nài nỉ ông bà Phán nhất định không bằng lòng. Không lay chuyển nổi ý bố mẹ, Quang chán nản xin đi hoạt động nơi xa.

    Trước khi đi xa, Quang tìm Mùi tạ lỗi, hứa sẽ không lấy ai cho chờ khi nào bố mẹ nghĩ lại mới trở về nhà. Mùi chỉ biết khóc cho mối tinh dang dở nhưng không hề trách Quang. Nàng tự tin sẽ giải quyết được, phàn nàn làm chi cho vô ích. Mùi sẽ không để bố mẹ mang tiếng vì mình, muốn Quang khỏi bận tâm lo nghĩ, Mùi chỉ ân cần dặn dò Quang theo đuổi lý tưởng chung. Nàng lấy địa chỉ một người bạn làm chỗ liên lạc sau này.

    Lâu ngày gặp lại cháu, chú thím các em nàng đón nàng rất vui vẻ và niềm nở giữ Mùi ở lại chơi với các em. Biết chú thím sống ở thành thị đã lâu có tâm hồn cởi mở không cố chấp, Mùi kể rõ tình cảnh éo le của mình. Vì sắp có con kết quả của tình yêu mà Thượng Đế đã ban tặng nàng trân quý muốn gìn giữ để sống với con, bất chấp trở ngại chỉ cần giữ tiếng cho bố mẹ, không lý do gì dám phá hủy một sinh mệnh, nhờ chú thím giúp đỡ.

    Mùi rất tin tưởng vào sự khôn ngoan với chương trình lo toan của bà thím. Bây giờ Mùi hãy ẩn nấu nơi nhà chú thím tránh mặt mọi người không tiếp xúc với ai cho tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Trong thời gian chờ đợi, bà thím kín đáo làm quen hỏi thăm để biết có ai hiếm muộn muốn nuôi con nuôi. Rồi bà cũng tìm được trong số khách hàng, ông bà Cận cả hai vợ chồng hiền lành, tử tế nhà khá giả đã luống tuổi không con cái cũng đang ao ước muốn nuôi con nuôi, đến nhờ bà thím tìm dùm.

    Mùi đã hạ sanh con trai rất kháu khỉnh được chú thím đón về săn sóc đã khỏe mạnh. Ít hôm sau bà thím tin cho ông bà Cận đến nhận con nuôi, trong lúc ấy Mùi phải tránh mặt. Nhân tiện bà thím khuyên bà Cận nên nuôi vú sữa tốt hơn cho ăn sữa bò và có người săn sóc cho thằng nhỏ, ông bà Cận rất hài lòng nhờ bà thím giúp cho trót, được lời rất hợp lý, hai ngày sau bà thím dẫn một người đàn bà nhà quê đến xin làm vú em, từ đây, mẹ con Mùi không còn phải xa nhau với danh nghĩa u nuôi.

    Ông bà Phán đã nhiều lần viết thư cho người đi tìm Quang về vì ông bà trót nhờ người làm mai, đàng gái đã nhận lời chỉ còn chờ Quang. Nhưng chàng không về, ông bà không biết từ chối cách nào cho khỏi ngượng. Thỉnh thoảng ông bà suôi lại cho con gái là cô Mai đem quà biếu ông bà Phán thăm hỏi sức khỏe. Độ này bà Phán đau yếu luôn, ít lâu nay không đi đâu được, sức khỏe kém dần, cô Mai lại năng lui tới có ngày nấn ná, phải ở đêm để giúp bà Phán, thấy bà một yếu năng ông Phan cho tìm Quang về gấp.

    Được tin lòng như lửa đốt, Quang trở về thăm mẹ. Thấy mẹ gầy đét, nằm dán xuống giường lòng chàng ân hận đã lâu không về thăm mẹ, tối hôm đó bà Phán lên cơn đau dữ dội cơ hồ không chịu nổi qua đêm, khi hồi tỉnh bà gọi các con để trối trăng việc nhà, bà ứa nước mắt nắm tay Quang và nói mẹ muốn con hứa với mẹ một điều để mẹ yên lòng nhắm mắt. Quá thương cảm, Quang hứa với mẹ muốn điều gì con cũng chiều mẹ được, bà Phán tươi nét mặt dịu dàng nói mẹ muốn con lấy cô Mai người mà bố mẹ đã cẩn thận chọn cho con, trong lúc con đi vắng Mai vẫn tới săn sóc mẹ, con phải biết ơn Mai. Quang bàng hoàng không ngờ chàng hứa với mẹ một điều trái với lòng mình đã ân cần khi chia tay với Mùi, tuy nhiên chàng không nỡ nói lại khi mẹ đang thập tử nhất sinh.

    Gặp thầy gặp thuốc bà Phán đã hồi phục, ông bà Phán bắt đầu tấn công ép Quang tới thăm nhạc gia, để còn tiến hành tới hôn lễ. Hoãn binh chi kế, Quang nói còn bận ít ngày nữa mới về được. Quang đã biết được mẹ con Mùi đã có nơi ăn chốn ở tạm thời tránh tiếng xấu cho Mùi và gia đình Mùi khỏi bị đàm tiếu, cho thời gian sẽ giải quyết dần. Không ngờ nhân dịp mẹ ốm Quang phải hứa ẩu, khi gặp Mùi sẽ nghĩ ra sao, giải quyết thế nào cho tròn bên hiếu bên tình.

    Nhờ người bạn làm quen tìm cách móc nối, Quang có dịp tới nhà ông Cận kín đáo gặp lại Mùi và nhìn thấy con mà không dám nhận, thấy Mùi đóng vai người làm, trong lòng rất thương cảm vẫn đinh ninh tự hứa không bao giờ phụ Mùi chỉ chờ hoàn cảnh thuận tiện.

    Gặp Mùi lần này chàng phàn nàn thấy mẹ quá đau yếu đã không cẩn thận, hứa ẩu với mẹ chỉ còn cách kéo dài thời gian, lòng anh lúc nào cũng chỉ có bóng hình Mùi và con. Thấy Quang quá khổ sở, thân hình tiều tụy gầy xác xơ, Mùi rất cảm động, rồi nàng bình tĩnh bảo Quang:

    “Hãy nghe em, em đã nghĩ kỹ không muốn để anh kéo dài tình trạng này mãi. Tình chúng ta dang dở em không phàn nàn tại anh hay tại em. Em cám ơn tấm lòng chung thủy của anh, theo em tình yêu rất cao cả, bao la. Trên hết tình yêu của em hướng về đấng tối cao, về cha mẹ anh chị em, về tình bạn bè đâu chỉ có tình yêu vợ chồng không. Vì yêu anh chỉ muốn cho anh được hạnh phúc, giữ được chữ hiếu, anh nên vâng lời cha mẹ lấy Mai hay coi Mai như em, còn em nấn ná nuôi con ít lâu nữa sẽ xin vào ở tu viện.”

    Quang ngạc nhiên cảm động với những lời nói của Mùi. Phục nàng có tâm hồn cao thượng với tính quả quyết đã không còn oán trách chàng còn mở đường cho chàng giữ tròn chữ hiếu.



    Tuyết Minh


  7. #37
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    3,286



    Hay Nói




    Hay nói cũng là một thứ bệnh, nhiều người mắc phải, đàn ông cũng như đàn bà. Đàn bà nhiều người mang tiếng là ngồi lê mách lẻo, trước thì nói truyện người ta, rồi lân la nói đến truyện của mình, thường thì chỉ khoe cái tốt, cái hay của mình, cũng có người lẩn thân kém trí không đã nói cả truyện xấu của mình, khoe cả truyện “ăn chè” lắt léo đáng khinh, làm cho người nghe phải phì cười, nhăn mặt.

    Như vậy vẫn còn hơn một bậc, đối với những người đem truyện của người ta ra nói, nếu là truyện có thực, còn có thể tha thứ được, chưa đủ, còn thêm mắm thêm muối, đặt thêm truyện nghi ngờ, đổ vấy cho người mà họ không ưa. Họ cứ theo đà tưởng tượng, mà nói đầu cua tai nheo như nước chẩy qua tai, không biết phân biệt thật hư, rồi cứ thế người này nói với người kia, và câu truyện trước khi tới tai người, đã bị bới đầu thêm đuôi. Nếu một người nào đó thắc mắc tìm ngược tới nạn nhân, sẽ thấy chẳng có gì đáng nói, vì sự thật đã bị bóp méo.

    Nói xấu người khác, người ta chỉ biết nói cho thích khẩu, đã không nghĩ tới hậu quả, hay có nghĩ tới đấy, nhưng không kìm hãm nổi cái miệng bẻo lẻo, rồi bị nạn nhân chất vấn, lôi ra phân bua chửi bới, vì bị làm nhục, mang tiếng, thiệt hại tới thanh danh, và người nói xấu có khi bị phản ứng bằng thủ đoạn tàn nhẫn, như một kẻ thâm thù.

    Có người hay đặt điều nói xấu người khác, hạ người ta xuống tận bùn đen, cố ý để nâng cái tôi lên, tốt hay giỏi hơn mọi người vì ghen những thành công, những việc làm hay của người. Có biết đâu, vì nói xấu người và khoe mình, đã làm cho người bị nghe, vì lịch sự không tỏ ý phê bình, nhưng trong lòng người bị nghe đã nhận xét đâu là sự thực, hiểu dã tâm người đi nói xấu thiên hạ, đã lắc đầu khinh bỉ mà không muốn nói ra.

    Cũng vì hay nói, rồi sinh thêm lòng ghen tị, thấy người ta làm ăn giầu có, đi phao vu người ta làm giầu bất chính, tham lam, lường gạt, lừa đảo, lươn lẹo, buôn bán đong đẩy bán vơi, buôn đồ quốc cấm, bới móc điều xấu tưởng tượng từ dời xa xưa của gia đình người ta, có ý để khách hàng nghi ngờ, hết tín nhiệm, không muốn giao thiệp.

    Thấy gia đình người ta êm ấm hạnh phúc, cũng nghi ngờ xuyên tạc; như anh chị Lương, hai người đều không làm cùng sở, chồng làm phía bắc, vợ làm phía nam. Anh Lương người đẹp trai, cao ráo, khỏe mạnh, tính tình cởi mở, hay cười hay nói chơi, ai gặp cũng dể có cảm tình, ai nhờ anh việc gì có thể làm được anh liền giúp ngay. Nên trên đường đi làm tới sở, ai không co xe, hay bị hư xe, anh sẵn lòng cho đi nhờ; nên trong sở làm có mấy bà mấy cô lợi dụng tính tốt hay giúp đỡ của anh, đã nhờ anh đưa đi đón về, nên giờ về nhà của anh chẳng bao giờ đúng, về sớm là lúc ít người nhờ, về muộn là có thêm người nhờ; có người còn lợi dụng tính dễ dãi của anh, nhờ anh đưa đi mua bán, lúc về nhà quá muộn, vừa đói vừa mệt, lại bị vợ càu nhàu, lời qua tiếng lại, đĩa bay bát vỡ là thường. Vì tính cả nể, anh Lương cũng biết người ta lợi dụng, nhưng không nỡ từ chối khi có người nhờ.

    Khi không làm được việc gì giúp đỡ ai, tâm trạng con người rất khó hiểu, họ sinh lòng nghi ngờ cho rằng hay anh muốn lợi dụng các bà các cô, chứ đâu có phải do lòng tốt, họ bàn tán, gán ghép, xuyên tạc, người khác nghe cho là truyện thật, rồi đồn thổi, một người nói ra, mười người phụ họa.

    Chị Lương đã không phân biệt được dư luận một chiều, anh Lương nghĩ mình ngay thẳng nên không biện giải, trung thực đấy nhưng không đánh đổ được lòng nghi kỵ của vợ bị ảnh hưởng bởi dư luận đồn thổi. Dư luận độc hại cứ thêm nay một tí, mai thêm một tí làm cho đôi vợ chồng trẻ đi đến xô xát, thách thức nhau.

    Vì bị ảnh hưởng đời sống quá tự do ở Mỹ, chị Lương cũng kiếm bạn trai đi chơi để cho chồng biết mình cũng không kém gì và trêu tức nhau cho bõ ghét, rồi việc gì đến phải đến, anh chị đưa nhau ra tòa. Anh Lương nói một câu: “Vì dư luận, vợ tôi hiểu nhầm tôi, tôi đành chịu”. Từ đấy một thanh niên yêu đời, vui vẻ anh Lương không còn muốn tiếp xúc với ai nữa, anh đã hạn chế sự giao thiệp với nhiều người.

    Nhiều ông hay nói, có kém gì các bà, có khi vì hay nói vô tình đã làm tan nát gia đình người ta. Đàn ông đã hay hồ nghi nhất là lại nghe bạn mình nói, dù biết là nói chơi, họ vẫn thắc mắc hồ nghi. Một đôi tân hôn, qua ngày nhị hỉ đã nổi sóng gió, chỉ vì trong bữa ăn cưới, một anh bạn vừa cười vừa nói: “Tưởng cô dâu là ai, chứ cô này tôi đã từng biết cái chưa ai biết”, khi anh bạn nói cái điều vô ý thức, do cái bệnh thích nói, anh đã không lường được việc gieo tai họa cho đôi tân hôn sớm tan vỡ. Đến khi anh biết vì câu nói mà hạnh phúc của bạn đã tan vỡ, thì quá muộn, trong tâm anh từ đây đã mang niềm hối hận, một oán hờn của bạn. Thật lãng nhách vì hay nói.

    Bệnh hay nói không phải chỉ có giới trẻ mới mắc, ngay những người trông bề ngoài đáng kính, như một số mệnh danh chính khách, có lúc vì nói nhiều, đã sơ hở tiết lộ bí mật, làm thiệt hại đến nghề nghiệp, gia đình và cả quốc gia nữa. Những người chưa làm đã khua chiêng, đánh trống, hội họp tuyên bố ầm ỹ, nói những câu có tính cách đao to búa lớn. Trong những bữa ăn uống linh đình, các vị này trịnh trọng đưa ra những chương trình không tưởng, làm như thiên hạ không ai bằng mình. Đấy là những người không làm nên việc gì, là những người không hiểu rõ môi trường đi tới, có thích nghi được vai trò mình đóng hay không?

    Cho nên người ta phải biết quên mình, biết hòa mình vào trong quần chúng, chấp nhận sự may rủi, khi muốn đạt được công cuộc giúp đỡ tha nhân. Khi chỉ biết nói nhiều về cái ta, làm lấy tiếng cho được nổi danh, đó chỉ là biểu hiệu của lòng ích kỷ, cái dục vọng xấu xa đê tiện, kiêu căng khoe mẽ. Những người chỉ nói mà không bao giờ làm, thấy ai làm được còn tìm cách phá phách, ghen tị. Thật là bỉ ổi!

    Trái lại, những người không bao giờ nói trước, khi làm việc gì có suy nghĩ tính toán, cẩn trọng, tiến tới vì tổ quốc, vì tha nhân, thương đồng bào đang lầm than đói khổ, sống trong lo sợ, bị chà đạp, bị làm thân nô lệ bị tù đầy muôn phần đắng cay mà họ âm thầm tìm đồng chí, dám nghĩ dám làm, trở về quê hương những mong phá đồi bạt núi, trừ loài tàn ác để cứu đồng bào giải phóng quê hương như các anh chị Trần Mạnh Quỳnh, Trần Thị Hương, Lê Thiên Quan, Lê Trọng Quang, Lê Quanh Trình và Bùi Gia Liêm đã dám làm. (trong vụ Bọ Sắt).

    Các anh hùng trên, tuy không thành công nhưng thành nhân, hành động của các anh chị mới đây ở Sàigòn thật đáng kính, đã được đồng bào tôn vinh, ngưỡng mộ, một gương sáng cho những ai có tấm lòng khắc khoải, ưu tư, mong chóng giải phóng quê hương.

    Căn bệnh hay nói, nếu muốn chữa, phải biết kìm hãm như cố nhân đã dậy: “Biết thì thưa thốt, không biết dựa cột mà nghe”. “Trước khi nói, phải quay lưỡi bẩy lần”, nói những lời đáng nói, cần nói, biết tự trọng, biết giữ phẩm giá, biết phục thiện và nghe nhiều nói ít.


    Tuyết Minh

  8. #38
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    3,286



    Bất Mãn




    Mùa thu gió nhè nhẹ thổi làm cho những đám lá vàng rụng rơi từng hàng cây hai bên đường bay theo chiều gió đưa đám lá tản mạn khắp hè phố. Tính đi làm về đậu xe trước cửa, vừa ra khỏi xe đã bị lá bay vào mặt, vào cổ, như gây thêm sự bực bội trong lòng từ lúc gặp Côn, người bạn đồng hương, đồng học khi xưa.

    Nhà Côn và nhà Tính cùng ở một con đường, mỗi buổi sáng, Côn, Tính cùng rủ nhau đi học, đồng tuổi, cùng trường, rất thân nhau, chia nhau từng chiếc kẹo, học bài chung với nhau. Ngày nghỉ hai đứa thường rủ nhau đi bắt chim, đi câu, đi đá bóng, học hết tiểu học, lên trung học, càng lớn cá tính con người mỗi ngày một rõ: nhà Tính khá giả ít anh em, được cha mẹ chiều chuộng, được ăn ngon mặc đẹp theo ý muốn, vì vậy học hành không cố gắng, mỗi khi đi học có bộ đồ mới, chàng có vẻ tự kiêu với các bạn đồng học, lười học không làm được bài lại nhờ bạn, mượn bạn để chép, rồi cũng cố gắng học xong cho hết trung học, vì thấy các bạn mình đã bỏ xa, lên đại học từ lâu gần hết.

    Cảm thấy mình học kém, ham chơi, không muốn học, vả lại cha mẹ Tính một ngày một già, lợi tức kém, trong nhà sa sút. Tính phải xin đi làm để giúp đỡ cha me. Không có nghề chuyên môn, chàng không tìm được việc làm có đồng lương cao, sinh ra bất mãn, hằn học những sự không đâu, bạn cùng sở làm khá được tăng lương, cũng làm cho Tính bực tức, kèn cựa, gặp dịp là nói móc, hay chê bai người khác.

    Ngược lại đi nịnh hót cấp trên, tìm dịp nói xấu người khác, gieo vào đầu người nghe làm cho người ta phân tâm, nghi ngờ, cốt ý hại người, vì người ta hơn mình. Với cái dã tâm ghen tị, Tính đi làm ở đâu cũng không được lâu vì những đồng nghiệp bị chạm tới nhân phẩm, quyền lợi, họ liên kết loại phần tử xấu tính. Tính cũng tham gia các hội đoàn lấy vui, nay hội mai họp bạn bè kéo nhau đi ăn uống. Chàng biết chàng không đủ tài làm được việc gì để người chú ý, nhưng không thể ngồi yên được, sáng kiến hay thì không có, sáng kiến đi dèm pha đặt điều nói xấu thì dễ quá.

    Mỗi khi có ai làm được việc gì lại là dịp cho chàng phát huy “ghen tị” bằng đủ mọi cách, kéo bè kéo cánh để hạ đối thủ, rỉ tai, nói xấu, với chủ trương không được ăn được tiếng thì đạp đổ, mới hả tấm lòng ti tiện. Tự cao tự đại, tự mãn quá ư tự tin, chả làm được tích sự gì, nhưng gia nhập hội đoàn nào cũng chỉ chăm chú đòi hỏi “đi đầu, đứng trước”, bởi vậy không ai muốn để Tính vào danh sách của hội mình.

    Côn từ ngày lên trung học cũng nhận thấy Tính hay khoe khoang, phách lối, chàng không lấy thế làm phiền, tính hồn nhiên hay giúp đỡ, nếu thấy các bạn nào chưa hiểu bài học hay chưa tìm được đáp số cho bài toán, chàng sẵn lòng cắt nghĩa chỉ dùm. Chàng thanh thản tiến theo trong đường học vấn, đi vào chuyên nghiệp, và ra trường với bằng kỹ sư, được các công ty danh tiếng mời làm với lương bổng nhiều, xứng đáng lúc thức khuya dậy sớm đi học.

    Có tiền tài danh vọng nhưng Côn không bao giờ biểu lộ ra ngoài với bất cứ ai, khoe khoang, hợm mình, lúc nào cũng vui vẻ hòa nhã; nếu ai cần giúp đỡ chàng mau mắn không từ chối ai, không tự mãn có thì giờ lại tìm tòi học hỏi thêm trau dồi kiến thức. Người bạn đường là người đã cùng học với nhau từ trung học, họ hiểu nhau gây dựng một gia đình hạnh phúc, an cư lạc nghiệp, họ tham gia, giúp đỡ những công tác xã hội, không nề hà bất cứ một việc nào có thể làm được.

    Quả đất tròn, giờ đây Côn, Tính không hẹn lại gặp nhau cùng ở một thành phố, ở các nơi hội họp công cộng. Côn rất vui vẻ khi gặp lại bạn cũ, mời Tính về nhà chơi cho biết nhà và giới thiệu với vợ con cho thêm thân mật.

    Từ ngày gặp lại Côn, Tính đã biết rõ địa vị nghề nghiệp gia cảnh của Côn hơn mình về mọi phương diện càng làm cho Tính xốn con mắt mỗi khi gặp Côn không còn nghĩ đến tình bạn, lòng ghen tị quái ác dâng lên. Tính tìm hết cách nói xấu phá Côn nhưng ngoài mặt lại ra vẻ thân tình, tâng bốc quá đáng khen ngợi vô lý làm cho Côn phải cảnh giác về những lời khen không chính đáng.

    Có nhiều người được khen thấy lòng tự ái được ve vuốt bắt đầu thấy ngượng rằng mình chưa làm được điều người ta nói, hay không thể làm được, nhưng nghe đi nghe lại mãi lời tâng bốc nhiều lần “tự kỷ ám thị” cho là mình đáng được tôn quý. Người nghe lời sàm nịnh là người thiếu tinh thần tự chủ, giống như người cộng sản họ có cả một chương trính láo khoét, họ kiên nhẫn cứ ra rả nói đi nói lại ngày này sang ngày khác, lâu dần dân chúng tin theo cho đến lúc họ chụp được lưới lên đầu dân chúng.

    Bậc chính nhân khi nghe lời khen không lấy làm hồ hởi mà còn xét xem mình có đáng nhận lời người ta khen hay không, chẳng tụ ti mà cũng chẳng tự đắc. Ở đời chỉ những người không biết phục thiện tự làm khổ mình mới đáng cho người chê trách. Hãy sống an vui tự tại bằng lòng với những gì mình có thể làm được, chẳng nên bất mãn cuộc đời.


    Tuyết Minh

  9. #39
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    3,286


    Một Kinh Nghiệm Năm Ất Dậu



    Trong cuộc sống máy móc và hiu quạnh ở xứ người, ngoài niềm an ủi bên cạnh con cháu, tôi vẫn có niềm vui nho nhỏ mỗi khi nhận được thư ở bên nhà. Những cánh thư mỏng dính nhưng mang nặng tình người. Vui khi cầm thư nhưng những giòng chữ, những mẩu tin trong thư thường làm tôi buồn bã và bận tâm rất nhiều. Mỗi dòng chữ như nhắc nhở rằng tôi đầy đủ quá, rằng tôi may mắn quá. Còn những người ở lại? Riêng lá thư ngày hôm nay của một vị cao niên gởi sang từ miền Bắc đã làm tôi bâng khuâng và buồn bã. Trong thư ngài nhắc đến tình hình đói khổ ở miền Bắc, có đoạn như sau:

    “Ở bên này kỳ vừa qua vì mất mùa hai vụ liền, nhân dân đói lắm, có nhà từng tuần không được một bữa cơm chỉ có ăn rau, nhiều nhà ba, bốn ngày mới được một bữa cơm, còn nguyên ăn sắn, ăn khoai.”

    Cái nghèo, cái đói bao giờ cũng đi liền với nhau. Nhớ đến những lời lẽ trong thư tôi thấy gai người. Tôi vẫn còn nhớ như in trận đói năm Ất Dậu 1945 ở quê nhà miền Bắc mà số người tử vong lên đến 2,000,000 người.

    Khoảng thời gian đó, miền Bắc mất mùa, cả vụ chiêm lẩn vụ mùa. Sợ quân đội Mỹ và đồng minh đổ bộ lên Việt Nam sau khi chiếm Phu Luật Tân, Nhật Hoàng hạ lệnh cho thực dân Pháp thu mua lúa gạo để quân đội Nhật tích trữ trên vùng núi và nhiều nhất là trên vùng Chinê. Nhật đòi thực dân Pháp nộp cây đay và các cây kỹ nghệ phục vụ nhu cầu chiến tranh. Chính phủ Pháp ra lệnh hủy bỏ ruộng lúa để trồng đay thay vào đó. Tất cả chiếm hơn một triệu mẫu đất. Pháp dựa trên sự đòi hỏi của Nhật, thu gấp bội lúa gạo.

    Các tổng lý, cường hào ác bá dựa vào lệnh thu mua lúa gạo của quan đội Nhật và Pháp đã chèn ép dân nghèo bằng cách áp dụng triệt để lệnh thu mua để làm giầu. Các kho lúa gạo do các nhà giầu tích trữ đều vơi dần vì Nhật và Pháp thu mua lúa gạo dựa trên diện tích trồng cây. Trong khi đó, Mỹ và đồng minh phong tỏa miền biển Trung Hoa (Mer de Chine) bằng cách không tập, phá các cầu cống trên đường xe lửa Xuyên Việt. Các tầu ngầm Mỹ ở ngoài khơi phong tỏa vận tải bằng đường biển. Kết quả là trong miền Nam không có than đốt phải dùng lúa gạo thay than đốt các nồi xúp de nhà máy đèn Chợ Quán. Trong khi ngoài Bắc thừa than đốt nhưng lại thiếu lúa gạo.

    Chính phủ Pháp đã áp dụng chính sách kìm kẹp người dân Việt bằng cách gây nạn đói. Từ ngày quân đội Nhật Hoàng xâm nhập Trung Hoa qua ngả Lạng Sơn 1940, trong khoảng năm 1943 tới năm 1945, với ý đồ kìm hãm và khống chế người quốc gia có tư tưởng chống Pháp. Pháp đã dùng “cái đói” làm khí giới trị dân. “Chính sách dạ dầy” thành hình dưới bàn tay quân Pháp để trị dân Việt. Khi đã đói người ta chỉ nghĩ đến cơm gạo, sức đâu mà nghĩ đến việc dành lại chủ quyền.

    Thế nhưng cũng chính trong giai đoạn đen tối đó, “Phong trào cứu đói” đã được lập nên. Từ các miền quê, người ta kéo ra các tỉnh, nhất là Hà Nội, nơi có phong trào khất thực do các đoàn thể hướng đạo và thanh thiếu niên chủ trương. Họ đi quyên cơm gạo ở các nhà khá giả rồi phân phát cho người đói khổ. Riêng tại vùng duyên hải Bắc Việt, miền quê tôi, tôi đã chứng kiến rất nhiều chết vì rét, vì đói. Tôi còn nhớ, theo các cụ lớn tuổi dạo đó thì chưa có năm nào mùa đông lại lạnh như năm đó. Các gia đình khá giả bảo nhau tự động rút phần ăn bữa. Phần còn lại, nắm làm nhiều nắm nhỏ, lén lút đem chia cho các em nhỏ hay người già cả.

    Lý do thật giản dị nhưng cũng đáng thương, những người còn khỏe cứ trông thấy cơm, gạo, ngô, khoai, bất kỳ cái gì có thể ăn được, họ đều xô vào cướp giật. Tình cảnh thật thảm thương. Các đoàn thể, các tôn giáo họp lại lập ủy ban cứu tế. Các anh em hướng đạo sinh và thanh niên lập đoàn khất thực. Nhiều nhà nấu cháo để phân phát. Nhưng vì số người đói khổ quá đông và để tránh sự xô đẩy, tránh cướp, nên mỗi khi phân chia họ phải đóng cổng, khoét một ô nhỏ chỉ vừa đủ đưa lọt bát cháo cho từng người.

    Sang đầu năm 1945, nạn đói tới giai đoạn khủng khiếp nhất. Ngoài đường phố, hai bên vỉa hè, trẻ con, người lớn, già, trẻ, rách rưới, tiều tụy, nằm, ngồi la liệt trước cửa từng nhà kêu khóc. Thảm cảnh chưa từng thấy. Và cứ thế, mỗi ngày số người chết đói, chết rét càng tăng. Có ngày khoảng trên hai cây số, dọc theo đường phố, anh em hướng đạo sinh đã thu nhặt tới 70 xác chết. Có nhiều hôm số tử vong lên quá nhanh, chôn không kịp, mùi hôi bay đi khắp nơi, càng thêm vẻ thê lương và kinh hoàng. Các anh em trong ban khất thực còn khỏe mạnh phụ giúp khiêng xác chết đem chôn tập thể.

    Một hôm, tôi nhớ không rõ, các thanh niên phát giác có một thuyền buồm chở gạo từ trong Nam ra qua cửa đồn Kim Đài. Các thanh niên thuộc ủy ban cứu đói kéo nhau tới phủ áp lực viên tri phủ Tr.N.T. tịch thu số gạo đó. (Sau ngày 9-3, quân đội Nhật đánh úp quân Pháp, trao quyền cho chính phủ Trần Trọng Kim, sự kiểm soát của người Pháp không còn nữa). Các thanh niên thu được 100 tạ gạo cộng với số lúa quyên được của các nhà giầu. Tuy nhiên với số lúa gạo này mà đem phân phát cho số người trong hàng trăm làng thì chẳng khác gì muối bỏ biển.

    Một phương pháp hữu hiệu nhưng cũng được chọn với rất nhiều đắn đo, suy tính; anh đoàn trưởng của ủy ban cứu đói quyết định đưa ý kiến nên cứu sống một số thanh niên còn khỏe với lý do: để đến mùa gặt tới còn có người đi gặt lúa vì chỉ còn hai tháng nữa là đến mùa gặt. Với số lượng lúa gạo hiện có, họ trù tính có thể cứu sống chung, 1,000 người cho đến mùa gặt.

    Muốn thế phải tập trung họ lại để nuôi. Vì nếu phát gạo về từng nhà, họ sẽ đành lòng ăn một mình, sẽ nhường phần cho cả cha mẹ, vợ con, vợ rồi đành chịu chết cả. Các anh suy tính nếu những người này không chịu chết cả. Các anh suy tính nếu những người này không được cứu kịp thì chỉ trong vòng một, hai tuần lễ sẽ chết cả. Theo như kế hoạch, ủy ban thanh niên cứu đói chia nhau đi vào các làng tuyển chọn những người tương đối còn khỏe mạnh đưa về tập trung trong trại lập ở khu giáo xứ P.D.

    Các thanh niên này sức khỏe kém nhiều vì quá đói. Ngày đầu chỉ cho ăn cháo loãng sau đó là cháo đặc, một vài ngày sau mới cho ăn cơm. Khi họ đã lại sức, ủy ban bắt đầu phân chia công việc. Buổi sáng tập thể dục, chia nhau đi tát ao, bắt cá ở những ao được chủ cho phép. Hoặc đi rỡ nhà mà ủy ban đã mua về để làm củi và cất thêm nhà cho những người tới sau. Một số thì xay lúa, giã gạo. Gạo để nuôi người lớn, tấm cám nuôi trẻ em. Riêng trại trẻ em đặt ở khu chợ Nam Dân. Tổng số trại viên của hai trại khoảng 1,000 người lớn, 300 trẻ em (cả trai lẫn gái). Tất cả được nuôi và bảo bọc cho tới vụ gặt tháng 5 mới giải tán.

    Chính sách thực dân của quân Pháp thật dã man và tàn bạo, để lại cho trong lòng dân Việt nỗi oán hờn khó quên. Thực dân Pháp và cộng sản quá là giống nhau. Chính quyền cộng sản nói là đem tự do, no cơm ấm áo cho dân. Thế nhưng thử hỏi, bước chân cộng sản đi đến đâu dân đói khổ đến đó. Tự do, no ấm chỉ có trên đầu miệng lưỡi của người cộng sản, chỉ là chiếc bánh vẽ để dụ người dân.

    Dân miền Bắc một lần mặc vào tròng Cộng Sản, cái tròng càng ngày càng thắt chặt, và để rồi 21 năm sau dân miền Nam cũng lại cùng nhau số phận với miền Bắc. Đấy lá “thống nhất” và “giải phóng” theo kiểu Cộng Sản. “Thống nhất” để dân miền Nam cũng khổ như miền Bắc. “Giải phóng” để miền Nam không còn tự do nữa mà phải chịu kìm kẹp dưới gông cùm cộng sản như miền Bắc. Xem thế đủ biết chính quyền cộng sản đã sao y nguyên văn “chính sách dạ dầy” để trị dân của người Pháp để lại.



    Tuyết Minh

  10. #40
    Biệt Thự
    Join Date
    Jul 2014
    Posts
    3,286
    Mất Gốc




    Một hôm tôi đến thăm người cháu ở tiểu bang Washington, lâu ngày gặp lại nhau, đôi bên mừng rỡ, trên đường từ phi trường về đến nhà biết bao truyện bên nhà, bên này, kẻ ở người đi, kẻ còn người mất ngậm ngùi tiếc thương.

    Tới nơi chưa vào nhà đã nghe vọng ra tiếng đàn tiếng hát ầm ĩ, khi người cháu đón tôi vào nhà, đồng thời gọi các con ra chào tôi, chỉ nghe có tiếng “Hi” của cả xấp nhỏ, một hai đứa lớn giơ tay bắt tay tôi, tất cả nhìn tôi với vẻ ngạc nhiên lạ lùng như một người từ hành tinh nào tới, chính tôi cũng ngạc nhiên nhìn tất cả có bộ mặt xấc láo khiến người gặp thiếu cảm tình.

    Chúng tôi ngồi trong phòng khách nói truyện, mấy đứa nhỏ này chạy đi chạy lại nghịch ngợm, hát hỏng, có lúc ngồi vào ghế đối diện với tôi mà chân gác lên bàn, miệng nhai kẹo, tay dở hình coi trong sách, tới khi ăn cơm cũng theo lối Mỹ, ăn bằng dao nĩa.

    Từ lúc tôi tới nhà này, tất cả vợ chồng con cái nói với nhau bằng tiếng Mỹ, trừ tôi không hiểu hết được tiếng Mỹ, nên chỉ có hai người đối thoại với nhau bằng tiếng Việt. Khi tôi muốn hỏi xấp nhỏ điều gì bố nó phải thông ngôn, có thể mấy đứa lớn hiểu và còn nói được ít tiếng Việt, theo lời bố chúng nói vì bỏ lâu ngày không nói tiếng Việt nên chúng quên hết.

    Khốn thay! Chính bố mẹ chúng muốn chúng phải giống như Mỹ, nghĩa là ăn, nói, cách giao tiếp như người Mỹ. Theo người cháu tôi lập luận: mình tới đây, nhập tịch làm công dân Mỹ nên tập theo phong tục, lề lối ăn ở phải như người Mỹ, vì mình đã nhận nơi đây làm quê hương thứ hai của mình.

    Hiểu được tâm trạng của cháu tôi nên tôi nói:

    -Theo nhận xét của dì, nhân tiện muốn góp ý với cháu, Cả một tập thể người Việt phải đi tị nạn bắt đắc dĩ, phải bỏ lại tổ quốc thân yêu, bỏ lại nhà cửa sự nghiệp, biết bao công của, mồ hôi nước mắt mới tạo nên được. Đau lòng bỏ lại mồ mả tổ tiên, nhưng vẫn còn một an ủi là tuy mất vật chất nhưng vẫn còn tính thần mang theo là tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ, cùng với phong tục nói chung là văn hóa ưu việt của giòng giống Việt Nam mà ông cha chúng ta đã có công gìn giữ, truyền lại từ đời này sang đời khác hàng mấy ngàn năm nay, dù trong thời kỳ đen tối nhất của lịch sử: hàng ngàn năm Bắc thuộc, hàng trăm năm mất chủ quyền thời kỳ Pháp thuộc.

    Dù bọn thống trị tàn bạo dùng muôn phương nghìn kế cũng không làm sao xóa nổi nền văn hóa cổ truyền của nòi giống Việt, mình vẫn giữ được phong tục tập quán bằng vào những lời nói truyền khẩu để lại cho từng thế hệ. Phải cố gìn giữ văn hóa Việt, bảo vệ giống nòi Việt và không để ngoại bang diệt được ý chí mãnh liệt của người mình.

    Chúng ta may mắn đến trú ngụ tại một quốc gia mệnh danh là văn minh nhất thế giớ, giầu mạnh với nền kỹ nghệ tân tiến, được hưởng đầy đủ quyền lợi và so với tất cả tự do như Hoa Kỳ hiện nay, nhưng phong tục tập quán ở đây có nhiều điều tốt cũng như có nhiều điều xấu, dĩ nhiên “nhập gia tùy tục, quá giang tùy khúc”, chúng ta cần phải tìm hiểu, học hỏi cái hay, nên tránh cái xấu, mà trong việc học hỏi cái hay có vẻ khó học, chứ học cái xấu thì lại quá dễ cũng y như bệnh hay lây phải cảnh giác để xa lánh.

    Chúng ta có trách nhiệm bảo tồn văn hóa Việt, gìn giữ những phong tục tốt của người mình. Văn tự Việt, tiếng nói Việt cần được phát huy và nuôi dưỡng trong cộng đồng nói chung và trong gia đình nói riêng, và dùng nó làm căn bản cho đời sống Việt nơi đất khách.

    Sau đây là một câu truyện có thực xẩy ra ở tiểu bang Oregon, một ông trước đây là cảnh sát ở một tỉnh gần Sàigòn tên là Đ., sau 5 năm đến định cư ở Mỹ, ông Đ. được tuyên thệ vào quốc tịch Hoa Kỳ, ông liền đổi tên thí dụ như John Smith. Vì là người Hoa Kỳ mới, Đ. bỏ sở cũ và xin sở mới, tại đây cũng có một số người Việt làm, có người đến chào hỏi làm quen bằng tiếng Việt, ông Đ. quay đầu lại, nếu gọi là Đ. thì lờ đi như không phải là mình. Anh em người Việt ở đây cho hắn một bài học bằng cách lại gần rồi nói mánh nói khóe, đào cha, đào mẹ hắn lên mà chửi. Đ. chỉ còn đỏ mặt quay đi và cuối cùng bỏ sở này luôn.

    Đây chỉ là trường hợp của một người hợm mình, nhưng chính con cháu chúng ta cũng đang ở trong trường hợp này vì đi học trường Mỹ, bạn bè Mỹ, ăn đồ Mỹ chúng cũng tưởng chúng là Mỹ luôn, nhưng tóc chúng vẩn đen, dù cho nhuộm nâu đi chăng nữa, mũi chúng vẫn tẹt, mắt vẫn xếch, làm sao đổi giống được. Đến khi vào đời, xin đi làm, chúng vẫn bị xã hội này liệt là dân Á Châu, có đi lấy bằng lái xe chúng vẫn bị ghi là giống Á Châu và lúc đó chúng sẽ bị mặc cảm nặng và ảnh hưởng đến tương lai của chúng. Những con người quá vọng ngoại không còn biết liêm sỉ là gì, không biết hãnh diện về nòi giống của mình, về 4000 năm văn hiến của dân tộc Việt, cái hay không học chỉ thích học những cái dở của người như vậy thật đáng buồn.

    Sau khi nghe tôi nói, vợ chồng người cháu chỉ mỉm cười không đáp. Tôi hiểu chúng cho những lời tôi nói không còn hợp thời, không biết hội nhập thăng tiến.

    Cháu tôi vẫn thường xuống thăm nhưng có một lần, vào một buổi đẹp trời, hai dì cháu bắc ghế ra sân sau ngồi uống trà nói chuyện, tôi hỏi người cháu:

    -Xếp nhỏ bây giờ chắc lớn lắm, việc làm ăn và học hành của chúng ra sao?

    Cháu tôi trả lời:

    -Cách đây 8 năm, hồi đó dì lên chơi chúng còn đang học tiểu học và trung học, bây giờ cháu lớn nhất đã lập gia đình, hai cháu học đại học và các cháu nhỏ học trung học. Cháu còn nhớ dì có nói nhà cháu Mỹ hóa nhanh quá, không biết rồi sau sẽ ra sao? Có còn là người Việt nữa hay không, đúng như dì tiên đoán, cháu rất buồn, lỗi ở cháu không suy nghĩ chín chắn, vợ chồng cháu hiếu thắng muốn cả gia đình hội nhập mau chóng thành người Mỹ, nên từ lời nói, cách ăn mặc, giao tiếp từ trong ra ngoài bắt chước người Mỹ không biết phân biệt cái hay cái dở.

    Tất cả các cháu đi học từ tiểu học đến trung học, chúng đều tự coi mình như những bạn bè người Mỹ của chúng, chúng về kể lại không muốn làm bạn với các người Việt đồng tuổi, cho bọn đó lạc hậu và buồn cười, có vẻ xa lạ không giống những tụi Mỹ bạn chúng nên chúng không chơi.

    Hậu quả đến với gia đình cháu là con gái lớn cặp bồ đưa bạn trai về nhà không cần bố mẹ biết bố mẹ có bằng lòng hay không? Nói nhiều thì chúng cho là lạc hậu không giống người Mỹ, rồi thuê nhà riêng ở với bồ và thay bồ như thay áo, cho thế mới là sống theo kiểu Mỹ. Chúng cháu khuyên bảo, nó trả lời thích thì ở với nhau, không thích thì xa nhau, đâu có gì quan trọng, theo như người Mỹ, người ta coi việc bỏ nhau rất thường. Cháu bây giờ thấy nhục nhã và hối hận vì không biết dậy dỗ con cái theo nền nếp của ông cha, lấy nhân nghĩa lể trí tín làm trọng, để đên nỗi nay nó hư thân mất nết, làm nhục gia phong.

    Hai cháu trai học trên đại học về nhà phàn nàn chúng bị mặc cảm, vì trong lớp học hay có cuộc mạn đàm, những tụi Mỹ bạn học đều tự hào về dòng giống của chúng, đứa thì nói tới nguồn gốc Pháp, đứa thì gốc Hy Lạp, chúng nói về xứ sở của ông cha chúng trong khi mấy thằng cháu chẳng biết gì mà nói vì chúng nó có bao giờ được đọc sách vở tiếng Việt, có bao giờ được nghe nói lịch sử oai hùng của tổ tiên chúng, và nỗi khổ tâm nhất của chúng là Mỹ không ra Mỹ, mà Việt cũng chẳng ra Việt, nên chúng cảm thấy bị đứng ngoài lề, không gia nhập vào các hội sinh viên Việt Nam vì không biết nói tiếng Việt, chúng cảm thấy thật lạc lõng.

    Tôi cũng cố tìm lời an ủi cháu và nói cho biết rằng khi dân Việt tị nạn tới Mỹ, ngay những năm đầu chính phủ Hoa Kỳ chủ trương phân tản người Việt đi khắp các tiểu bang cho nhanh theo chính sách trước kia đối với người da trắng mới tới xứ này từ rất nhiều chủng tộc và quốc gia khác nhau. Họ đã đồng hóa những người di cư tới Hoa Kỳ bằng chiến thuật gọi là “melting pot” có thể gọi là nồi súp, nghĩa là người Pháp, Anh, Hy Lạp, hay Ba Lan v.v.. di cư tới Hoa Kỳ chỉ một thời gian họ không còn giữ được danh tính chủng tộc của họ được và đều biến thành người Mỹ, nhưng vì là người da trắng nên việc đồng hòa dễ hơn. Ngược lại khi dân Á châu di cư tới Hoa Kỳ thì họ lại sống tụ tập với nhau, do đó mới có Chinatown, Koreatown, và Little Saigon. Nên chuyện hội nhập trở nên dễ dàng vì có cả cộng đồng người Việt ở khắp nơi hướng dẩn và giúp đỡ những người mới tới.

    Cháu tôi là nạn nhân của chính sách đồng hóa cấp tốc của chính phủ Hoa Kỳ vào thời gian đầu của cuộc tị nạn tới Hoa Kỳ, nhưng bổn phận của chúng ta là phải dậy cho lớp trẻ lòng yêu quê cha đất tổ, một ngày rất gần đây quê hương chúng ta cần bàn tay của chúng để tái thiết lại đất nước đang bị đói khổ, và cũng cần dậy chúng niềm xác tín hãnh diện vào dòng giống oai hùng Lạc Việt.



    Tuyết Minh

 

 

Similar Threads

  1. Tết Nguyên Đán - Tuyết Minh
    By frankie in forum Nhân Văn
    Replies: 0
    Last Post: 01-22-2023, 09:51 AM
  2. Những mảnh đời - Tuyết Minh
    By frankie in forum Nhân Văn
    Replies: 33
    Last Post: 12-01-2022, 02:52 PM
  3. Giòng Đời Xưa và Nay - Tuyết Minh
    By frankie in forum Nhân Văn
    Replies: 31
    Last Post: 09-21-2022, 01:59 PM
  4. Replies: 5
    Last Post: 11-10-2017, 05:56 PM
  5. Bản Sắc Văn Hóa Truyền Thống Do Thái
    By Long4ndShort in forum Chuyện Linh Tinh
    Replies: 22
    Last Post: 09-07-2014, 08:38 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •  
All times are GMT -7. The time now is 03:59 AM.
Powered by vBulletin® Version 4.2.5
Copyright © 2024 vBulletin Solutions Inc. All rights reserved.
Forum Modifications By Marco Mamdouh